Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tiểu luận môn thể dục thể thao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.85 KB, 7 trang )

Tiểu Luận môn Thể Dục Thể Thao
1.Kỹ thuật nhảy cao kiểu “úp bụng”
1.1. Chạy đà:
Chạy đà từ 7 đến 11 bước. Chạy đà theo đường xiên góc độ sát từ 25 0 – 400 cùng bên phía chân dặm nhảy.
Tốc độ tăng dần, tuy tốc độ không cần đạt đến mức tối đa ở cuối đà. Ở những vận động viên ưu tú, tốc độ
chỉ đạt 7.5m (giây) và 6.3m (nữ).
Bước chạy phải có đàn tínhnhững bước cuối hơi dài hơn, trọng tâm hạ thấp để chuẩn bị giậm nhảy.

1.2. Giậm nhảy
Chân giậm nhảy đât bằng gót, gối chân chậm hơi có tạo góc khoảng 130 0 rồi thực hiện động tác giậm
nhảy nhớ duỗi thẳng ở các cổ chân, gối và hông để đưa trọn tâm cơ thể lên cao về trước (lúc này chân
giậm từ gót đá lăn sang mũi chân). Ngay khi chân giậm chạm mặt đất, chân lăn nhanh chóng đá lên cao,
cẳng chân duỗi thẳng, mũi chân hướng lên trên; hai tay đánh vòng từ sau ra trước lên cao, khi hai khuỷu
tay bằng vai tgù dừng đột xuất để kéo trọng tâm cơ thể lên cao.
Lực giậm nhảy lúc nhảy cao có thể đạt tới 650kg. thời gian kéo dài từ 0.18-0.22 giây.
Tốc độ bay ban đầu của cơ thể theo hướng thảng đứng 4.1 - 4.2 giây. Góc bay giao động từ khoảng 60 0 –
750.

1.3. Bay lên không trung
Khi mũi chân giậm rời mặt đất thì bắt đầu giai đoạn bay trên không, khi trọng tâm lên cao nhất, mũi chân
lăng xoay vào xà, ngực cũng xoay vào xà tạo cho người tư thế nằm trên xà.


Nhảy cao úp bụng có 2 kiểu kỹ thuật qua xà:
Kiểu “bằng” :
Khi trọng tâm đã lên cao hơn xà thì than trên nằm dọc theo xà; tay bên chân lăng để dọc theo chân, tay
bẹn chân giậm co tự nhiên chân giậm co lại ở gối và bàn chân thu lên gần gối chân lăn. Khi qua xà tay
bên chân lăng thả xuống dưới dưới, vai bên chân lăng chủ động ép xuống xoay quanh xà ngang. Chân
lăng duỗi tương đối thẳng, mũi chân ép xuống. Bộ phận qua xà cuối cùng là chân giậm; chân giậm qua xà
cần thực hiện động tác mở hông, duỗi thẳng chân giậm qua xà.


Kiểu “lặn” :
Khi thân trên đã cao hơn xà thì vai cùng với tay bên chân lăng chủ động chúi xuống bên kia xà. Khi chân
lăng cao hơn xà cũng lập tức xoay mũi chân xuống dưới và tích cực chủ động hạ xuống nệm nhờ chân
lăng xoay, lặn than trên xuống dưới mà chân giậm được nâng lên cao và qua xà thận lợi hơn.
1.4. Rơi xuống đất:
Tùy kỹ thuật qua xà mà áp dụng kỹ thuật rơi khác nhau. Với kiểu “bằng” bàn tay bên chân lăng và chân
lăng chạm cát trước và hơi dung sức để hoãn xung giúp cho lườn và hông bên chân lăn chạm cát từ từ.
Với kiểu lặn “tay” hai bàn tay chủ động chạm cát trước rồi đến cẳng tay, cánh tay, vai cũng bên chân lăn
chủ động hạ xuống và cuối cùng là than trên chạm cát.

Các lỗi thường mắc phải:

II- Kỹ thuật phát bóng thấp tay:
2.1 Kỹ thuật phát bóng thấp tay trước mặt:
Tư thế chuẩn bị
Người tập đứng quay mặt vào lưới, chân trái dưới, mũi chân thảng góc với đường biên ngang, chân phải
sau cách chân trước một nửa bước chân, trọng tâm dồn vào chân sau, tay trái cầm bóng đưa về trước bụng


Tung bóng
Tay trái làm động tác tung bóng lên cao khoảng 25-30 cm và hơi chếch về phía trước một chút.
Vung tay đánh bóng
Cùng lúc với tay trái tung bóng, trọng lượn cơ thể chuyển về chân sau và hơi khuỵu gối, tay phải đưa lên
về phía sau để chuẩn bị đưa về trước bóng. Khi đánh bóng, tay duỗi thẳng tự nhiên, vùng từ sau ra trước
dùng cùi tay đánh vào phần dưới của bóng ở phần ngang thắt lưng. Chú ý trong khi đánh bóng, trọng tâm
cơ thể chuyển dần từ sau ra trước, sau hoàn thành động tác đánh vào bóng, thân người và tay có xu hướng
vươn thẳng theo hướng bóng đi và nhanh chóng chân sau lên để giữ thăng bằng trước khi bước vào chiếm
vị trí phòng thủ trên sân.
2.2 Kỹ thuật phát bóng thấp tay nghiên mình
Tư thế chuẩn bị:

Người tập đứng cùng bên tay cầm bóng hướng vào lười, hai chân mở rộng bằng vai hoặc hơn vai một
chút.
Vung tay đánh bóng
Trong khi đánh bóng chân phải do có sự đẩy lên theo đà của cánh tay phải đánh bóng nên lúc này trọng
tâm cơ thể dồn vào chân trước (trái) do đó cần khi đánh xong chân phải cần nhanh chóng bước lên một
bước nhỏ để giữ thăng bằng và bước vào sân thi đấu.Khi đánh vào bóng trọng lượng cơ thể chuyển lên
trước đồng thời xoay than sang bên trái mặt hướng vào lưới và nhanh chóng bước chân phải lên để giữ
cân bằng và vào sân thi đấu.
III- Tác dụng của một số động tác
1. Chạy nâng đùi :
Tập nâng cao đùi cũng có thể dùng như bài tập để phát triển sức mạnh các cơ tham gia động tác nâng đùi.
Người ta cũng tập chạy nâng cao đùi tại chỗ vì vừa tập nâng cao đùi vừa có thể thực hiện với tần số lớn
hơn, do không phải di chuyển.

Chạy bước nhỏ :


Ngoài tác dụng hoàn thiện sự phối hợp toàn thân khi chạy, bài tập này có thể dùng để phát triển tần số
động tác tay, chân khi chạy.

2. Chạy đạp sau :
Động tác trên cần thành thói quen ở VĐV vì nhờ đó chân sau đưa về trước được nhanh, giảm lực cản và
đặc biệt là tạo điều kiện cho các cơ vừa tham gia động tác đạp sau tích cực có điều kiện thả lỏng, nghỉ
ngơi để rồi lại tiếp tục tham gia đạp sau ở bước tiếp. Bài tập này rất cần với các VĐV chạy (ở mọi cự ly),
nhất là với các VĐV chạy các cự ly dài - do chân phải hoạt động liên tục trong thời gian dài. Nếu không
tạo điều kiện để cơ bắp được thả lỏng, thì không thể có thành tích cao.

3. Chạy ngắn :
Chạy tốc độ cao cũng là bài tập để hoàn thiện kỹ thuật chạy giữa quãng trong chạy cự ly ngắn. Tập chạy
tốc độ cao nhiều, người tập sẽ quen với chạy tăng tốc độ đến tối đa rồi chuyển sang chạy giữa quãng.


IV- Ưu và khuyết của việc loại trực tiếp :
Ưu:
1. Tiết kiệm được thời gian và chi phí cho ban tổ chức giải
2. Rút ngắn thời gian tổ chức
Khuyết:


1. Không có sự cọ xát giao hữu giữa các đội
2. Khó đánh giá được khả năng của các đội, cá nhân tham dự

V- Giải cầu lông thuộc vòng loại trực tiếp :
A. 9 đội tham gia

B. 10 đội tham gia

VI- Ưu và khuyết của việc thi đấu loại vòng tròn :


Ưu: Thể thức này xác định một cách chính xác trình độ của các đội hoặc các đấu thủ. Xếp hạng một cách
công bằng tránh được hiện tượng “may, rủi” hoặc các đội khá mạnh bị loại ngay từ đầu. Do mỗi đội phải
thi đấu với tất cả các đội còn lại
Khuyết: Thời gian kéo dài, trận đấu nhiều, công tác trọng tài cũng như tổ chức sẽ rất công phu, kinh phí
kéo dài.
A. Với 8 đội thi đấu
Vòng 1

Vòng 2

Vòng 3


Vòng 4

Vòng 5

Vòng 6

Vòng 7

Vòng 8

1dv2

1dv3

1dv4

1dv5

1dv6

1dv7

1dv8

2dv3

2dv4

2dv5


2dv6

2dv7

2dv8

3dv4

3dv5

3dv6

3dv7

3dv8

4dv5

4dv6

4dv7

4dv8

5dv6

5dv7

5dv8


6dv7

6dv8

7dv8

n

n

n

n

B. Với 9 đội thi đấu
Vòng 1

Vòng 2

Vòng 3

Vòng 4

Vòng 5

Vòng 6

Vòng 7


Vòng 8

Vòng 9

1dv2

1dv3

1dv4

1dv5

1dv6

1dv7

1dv8

1dv9

2dv3

2dv4

2dv5

2dv6

2dv7


2dv8

2dv9

3dv4

3dv5

3dv6

3dv7

3dv8

3dv9

4dv5

4dv6

4dv7

4dv8

4dv9

5dv6

5dv7


5dv8

5dv9

6dv7

6dv8

6dv9

7dv8

7dv9

8dv9

VII- Ảnh hưởng của thể thao đến đời sống con người :
Các hoạt động thông thường của con người đều là dựa vào hệ vận động. Thường xuyên tập luyện thể dục
thể có thể tăng cường được các chất của xương, tăng cường sức mạnh cơ bắp, tăng cường tính ổn định và
biên độ hoạt động của các khớp, từ đó mà năng lực hoạt động của cơ thể đã được nâng lên, xương và
khớp được cấu tạo thành.
Rèn luyện thân thể có thể cải biến kết cấu của xương, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao có thể
tăng cường các chất trong xương. Tập luyện thể dục thể thao làm cho cơ bắp có tác dụng lôi kéo và áp lực
đối với xương làm cho xương không chỉ biến hoá về phương diện hình thức mà còn làm cho tính cơ giới
của xương được nâng lên


.

Ví dụ: Vận động viên thể dục thực hiện động tác kéo tay xà đơn. Khi thực hiện động tác này, hai tay của

vận động viên luôn phải chịu trọng lực của cơ thể và lực kéo tay của cơ bắp. Nếu thường xuyên tập luyện
động tác này sẽ làm cho xương của hai tay có sự thích nghi với việc chịu đựng 2 lực kể trên và từ đó năng
lực chịu tải của xương 2 tay đã được nâng lên
Điều này đã nói rõ một vấn đề: Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao thì sự phát triển của xương
được nâng lên rõ rệt.

VIII- Dự đoán
Có 69 người dự giống em.



×