Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

DSpace at VNU: Quan hệ giữa hai mệnh đề trong câu điều kiện tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.97 MB, 9 trang )

Tạp chí K hoa học Đ H Q G H N , Khoa học Xã hội và N hân văn 23 (2007) 107-115

Quan hệ giữa hai mệnh đề trong câu điều kiện tiêhg Việt
Nguyễn Khánh Hà*
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 24 tháng 3 năm 2007

Tóm tắt. Bài báo này cố gắng miêu tả m ột s ố kiểu quan hệ ngừ nghĩa giữa các m ệnh đ ể trong câu
điều kiện tiếng Việt, chủ yếu là 3 kiểu: quan hệ nhân quả, quan hệ su y luận và quan hệ hành động
ngôn từ. Lý thuyết "điều kiện đủ" do Van der Auvvera khởi xướng được xem là cơ sở cho sự phân
tích các quan hệ này. Trong các câu điều kiện nhân quả, các sự tình được m iêu tả bởi m ệnh đ ề điều
kiện được coi là điều kiện đủ cho sự thi hành những sự tình được m iêu tà trong m ệnh đ ể chính.
N h ữ n g m ối quan hệ này tổn tại trong phạm vi của "thế giới thực", được người nói và người nghe
thừa nhận dựa vào tri thức nền của họ. Quan hệ nhân quả trong các câu điều kiện nhân quả ở m ột
khía cạnh khác với các câu chứa lien từ nhân quá. Một kiểu quan hộ quan trọng khác trong các
câu điểu kiện là quan hệ suy luận. Quan hệ này biếu đạt sự suy luận của người nói, và những câu
điều kiện chứa đựng nhừng quan hệ kiểu này tổn tại trong lĩnh vực nhận thức, chứ không phải
trong lĩnh vực nội dung, chúng kiên kết các trạng thái nhận thức với nhau. Trong kiểu quan hệ này,
m ệnh đ ề điều kiện cung cấp một tiền đề, và mệnh đ ể chính đưa ra một kô't luận được suy ra từ

SỐ

tiêng đ ể đó. N hững quan hệ kiểu này phức tạp về ngữ d ụn g và phụ thuộc vào nhiều bởi cảnh. Kiều
quan hệ thứ ba là quan hệ hành động ngôn từ. Mệnh đ ề điều kiện của những câu điều kiện chứa
quan hệ này có tính độc lập cao, không phụ thuộc vào nội dung của m ệnh đ ể chính của chúng, và
nội d un g m ệnh đổ của câu với tư cách là một chinh thể không chứa đựng những tiền ước về tính
liên tiếp và tính nhân quả giữa các sự tình được m iêu tả.

đồi thế nào nếu nhửng sự tương liên nào đó
thay đổi”[l]. Do đảm nhiệm một vai trò phức


tạp như vậy, nên quan hệ giữa hai mệnh đề
trong các câu điểu kiện chắc chắn cũng không
đơn giản, và điều này trở thành một trong
những trọng tâm nghiên cứu cơ bản của các
nhà ngôn ngữ khi tìm hiểu về câu điều kiện.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu thường
tập trung vào hai loại quan hệ: quan hệ ngữ
nghĩa và quan hệ hình thức giữa hai mệnh đề
trong câu điều kiện, v ề quan hệ ngữ nghĩa,
nhiều nhà ngôn ngữ học có chung quan điêm
cho rằng các câu điều kiện là những kết câu

1. Dan nhập
Các câu trúc điều kiện tổn tại trong các
ngôn ngữ phản ánh một kiêu năng lực tri
nhận thế giới của loài người "nhằm suy luận
về các tình huông lựa chọn, nhằm đưa ra
những sự quy chiêu dựa trên những thông
tin chưa hoàn chinh, nhằm tưởng tượng ra
nhửng sự tương liên có thể có giữa các tình
huông, và nhằm tìm hiểu xem thê'giói sẽ thay

*ĐT: 84-4-5572024
E-mail:
10 7


108

N guyễn Khảnh Hà / Tạp chí Khoa học Đ H Q G H N , Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 107-115


trong đó tính đúng (the truth) cúa một mệnh
đề phụ thuộc vào mệnh đề kia [2]. Các nhà
logic học gọi môì quan hệ có tính khái niệm
trừu tượng này giữa hai mệnh đề là hàm
nhân quả (material implication), được thể
hiện qua công thức \)-ỳ q. Công thức bao gổm
hai mệnh để này được xem là đúng, vói điều
kiện là q (tức là mệnh đ ề đi sau) đúng, và p
(mệnh đề đi trước) cũng đúng; còn nó bị coi
là sai nếu p đúng nhưng q sai. Quan điềm
này hữu dụng đôi vói các câu điều kiện thực,
nhưng không thể lý giải được những câu điều
kiện "giả định" hay "phán thực" như "Nêu con
lợn c ó cánh, nó có thềbay".
Một khuynh hướng nghiên cứu khác
trong ngôn ngữ học lại tập trung chú yêu vào
việc phân tích những dâu hiệu thể hiện môì
quan hệ hình thức giữa hai mệnh đề của câu
điểu kiện. Hướng nghiên cứu này được các
nhà ngữ pháp học nhà trường khai thác triệt
đ ể nhằm giúp cho những người học ngoại
ngử hiếu và dùng được các câu điều kiện
theo đúng ngữ pháp, chằng hạn như khi học
tiếng Anh, người học cần nắm được trong
trưòng hợp nào thì động từ ờ mệnh để điều
kiện cần ở thòi quá khứ, và nêu động từ ở
mệnh đề điều kiện là thời quá khứ thì ờ mệnh
đề chính nhât thie't phải thêm w ould trưóc
động từ đ ể thể hiện m ột khả năng không

thực, v.v... Sự phân tích này hữu dụng cho
người học ngoại ngữ, nhưng lại sơ lược trong
việc tìm hiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa hai
mệnh đề, khiên ngưòi ta khi ở trình độ ngôn
ngừ cao hơn sẽ thực sự bôì rôì trước hàng
đông phát ngôn điều kiện không hề theo qui
tắc, mà ý nghĩa thì phức tạp.
Để giải quye't những tổn tại trên, các nhà
ngữ pháp tri nhận đi theo đường hướng
chung là ngữ pháp không chỉ là sự miêu tả
đ an thuần về hình thức ngôn ngữ, mà ngữ
pháp thể hiện sự tri nhận của người nói về
thê' giói thông qua các quy ước ngôn ngữ.

Việc nghiên cứu quan hệ giữa các mệnh đề
trong câu điều kiện theo hướng đi này sẽ
gổm: (a) tìm hiểu các đặc điểm về quan hệ
ngữ nghĩa giữa hai mệnh đề; (b) tìm hiểu các
dâu hiệu hình thức trong quan hệ giữa hai
mệnh đề; (c) phân tích xem các dâu hiệu hình
thức và các tham sô' ngữ nghĩa có tương quan
với nhau như thê'nào.
Chúng tôi thừ áp dụng hướng nghiên cứu
tri nhận vào việc phân tích quan hệ giữa hai
mệnh đề trong các câu điểu kiện tiêng Việt,
mà theo chúng tôi, chủ yêu là quan hệ ngữ
nghĩa, bời đặc điểm căn bản của tiêng Việt là
các từ không biên đổi hình thái, nên các dâu
hiệu hình thức thể hiện đặc trưng của câu
điều kiện nhìn chung không rõ ràng lắm,

ngoại trừ các liên từ điều kiện (như nêu ...
(thì), giá ... (thì) v.v...); thậm chí có những
câu không có mặt liên từ điều kiện nào cả,
nhưng những người bản ngữ vẫn hiểu và
thừa nhận chúng là câu điều kiện.

2. Các kiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa hai
mệnh đề trong câu điều kiện tiếng Việt

Quan hệ giữa hai mệnh đề trong các phát
ngôn điều kiện có vai trò hết sức quan trọng
đôì với sự biểu đạt điều kiện. Sự hiện diện
của giói từ điều kiện (điển hình là nêu trong
tiếng Việt) trong các kết cấu điều kiện đánh
dâu sự ưóc định (tiền ước - assumption)
trong phạm vi của nó như là m ột điều khòng
thể xác nhận (tức là chỉ giả định thôi). Không
có mệnh đề nào trong câu trúc câu điều kiện
được khẳng định, dù cho nội dung của một
mệnh để đã được khẳng định trong ngữ cảnh.
Chẳng hạn ờ phát ngôn (1) dưới đây:
(1)
Tao thây nêu cứ như những điều mà
viêì trong này (tôi đưa quyển số cho Châu) thì
mày và Sính ià hai người khác nhan lắm [3, tr. 74].
Nội dung của mệnh để điều kiện (những
điêìi mày viêì trong này) được khằng định


Nguyễn Khánh Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 107-115


109

hiện diện của liên từ điểu kiện chứng tò: sự
trong ngữ cảnh, nhưng vì nó nằm trong
nhận thức một sự kiện hay trạng thái sự tình
phạm vi của nếu, do đó trờ nên không được
được miêu tả trong mệnh đê đi trước là điều
xác nhận và kéo theo tính chất phi xác nhận ờ
kiện đủ để nhận thức một sự kiện hay trạng
mệnh để chính.
thái sự tình được miêu tả trong mệnh đề đi
Vì mệnh đề chứa liên từ điểu kiện không
sau. Đây là trưòng hợp các câu điểu kiện
được khăng định nên sự ước định trong
miêu tả các sự việc hay các trạng thái sự tình
mệnh đề chính cũng không được khẳng định,
trong thế giới hiện thực. Dưới đây là những
vì nó phụ thuộc vào mệnh đề điều kiện
phát ngôn điều kiện thê' giói hiện thực tiêu
(mệnh để điều kiện là không gian tinh thẩn
biểu.
của mệnh đề chính, theo học thuye't của
(3) (Như vậy sô' vốn một trăm bảy mươi
Fauconnier [4]). Có thể nói, sự xác nhận duy
đông cũ, cộng với ba mươi đồng anh Cao cho hụt
nhất được thực hiện trong một kê't câu điều
xuống còn một trăm năm mươi tư đõng). Nếu
kiện chính là quan hệ giữa mệnh đề điều kiện
mua hai chiếc áo bông, mỗi chiếc ba mươi sáu

và mệnh đề chính.
đồng, nó sẽ hụt đi bẩy mươi hai đồng nữa [6, tr.
Sweetser [5] đã chi ra rằng những người
161].
nói ngôn ngử tự nhiên rõ ràng đòi hòi nhiều
(4) (Đu đủ ở chùa đã già, thân nhò quắt
hơn những giá trị thực phù hợp để thừa nhận
nhưng cao lêu đêu. Phải bạo gan lắm mới trèo
một câu điều kiện là hoàn chinh: đó là phải có
nôì.) Nếu run tay ngã xuống gạch thì chí ít cũng
một môi liên kê't giữa hai mệnh đề. Ngôn ngử
vỡ đầu hay què cang [6, tr. 55].
tự nhiên dùng kết câu điều kiện đê nói về
Ở hai phát ngôn trên, quan hệ giữa hai
những thứ có liên quan đêh nhau. Do đó
mệnh đề trong mỗi kê't câu điều kiện đều là
những người nói ngôn ngữ tự nhiên có thê
quan hệ nhằn quả: cái đi trước là nguyên
cảm thây câu sau đây kỳ quặc:
(2)
Nếu Paris là thủ đô của Pháp thì hai là nhân kéo theo sự xuâ't hiện của cái đi sau. ơ
câu (3), việc mua hai chiếc áo bông là nguyên
một sô'chẵn [5, tr. 115].
nhân dẫn đến kê't quả là sô' vôn tiết kiệm bị
Vì họ không thấy có mối liên hệ nào giữa
hụt đi bẩy mươi hai đổng nữa, ờ câu (4) thì
hai mệnh đề này, mặc dù về mặt logic câu
việc run tay ngã xuông gạch là nguyên nhân
này hoàn toàn đúng tiêu chuẩn, theo đó một
kéo theo hậu quả là võ đầu hay què cang.

câu điều kiện chi sai nếu mệnh đề đi trước
Có thể cho là quan hệ nhân quả phần nào
đúng nhưng mệnh đề đi sau sai.
xua't phát từ quan hệ kế tiếp (sequentiality),
Vậy thì hai mệnh đề trong câu điểu kiện
vì trật tự nếu A thì B trong tiêng Việt là trật tự
có quan hệ với nhau như thế nào? Chúng tôi
phổ biên đến mức trờ nên có tính chât qui
cho rằng chúng liên kê't với nhau theo 3 kiểu
ưóc về một sự kế tiếp "đặt sự vật này sau sự
/quan hệ chính: quan hệ nhân quả, quan hệ
vật kia", cái này đi trước nên kéo theo cái kia
suy luận, và quan hệ hành động ngôn từ.
đi sau. Tuy nhiên, quan hệ nhân quả giữa hai
mệnh để trong câu điều kiện thê giới thực còn
2.1. Quan hệ nhân quà
có ý nghĩa sâu sắc hơn. Các mệnh đề trong
câu điều kiện không chi đan giản là "đứng
Theo Van der Auvvera, mệnh đề điều kiện
cạnh nhau", mà chúng phụ thuộc vào nhau
A là điều kiện đủ cùa mệnh đề chính B trong
một cách chặt chẽ. Sự việc hay trạng thái sự
lĩnh vực nội dung (hay thê' giới thực). Cùng
tình được miêu tả ở A, nêu được thực hiện, sẽ
chung hướng đi này Svveetser chi ra rằng sự


110

Nguyễn Khánh Hà / Tạp chí Khoa học Đ H Q G H N , Khoa học Xà hội và Nhân văn 23 (2007) 107-115


là đủ cho việc thực hiện sự việc hay trạng thái
sự tình được miêu tả ờ B. Sự biếu đạt nhân
quà này, theo Dancygier [7] nằm trong nhiều
yêu tô': (a) một câu điều kiện hàm chứa một
môì liên kết; (b) mô'i liên kết này nằm trong
phạm vi "thế giới thực"; (c) các sự việc trong
câu điều kiện được biểu đạt một cách liên tục;
và (d) tri thức nền cùa chúng ta châp nhận và
ủng hộ cho sự biểu đạt đó (yêu tô' tri thức nền
được minh họa rõ trong các ví dụ nêu trên: kỹ
năng tính toán giúp ta thây ngay quan hệ
nhân quả giữa việc mua áo vói việc hụt tiền,
còn môi liên kết giữa việc run tay ngã xu ông
gạch với việc vò đẩu hay què cẳng là râ't phổ
biến và hiển nhiên trong kinh nghiệm nhận
thức của chúng ta).
Mặt khác, quan hệ nhân quà trong các câu
điểu kiện thế giói thực có một vai trò đặc biệt
do liên từ điều kiện nếu tạo ra. Chính vì sự
xuất hiện của nếu mà không có mệnh đề nào
trong kết câu câu điều kiện thuộc loại này
được thê hiện như là điều khẳng định về sự
thực. Cái duy nhất được khẳng định trong
các câu này là mỏi liên kết dựa trên quan hệ
nhân quả.
Một vân để khác là có những trưòng hợp
mà sự tình được diễn tả trong mệnh để điều
kiện đôi khi không phải là nguyên nhân dẫn
đến sự xuâ't hiện (hay diễn ra) của sự tình

(hay hành động) trong mệnh để chính, nhưng
trường hợp này vẫn được xếp ngang hàng
với quan hệ nhân quá. Nói cách khác, đó là
quan hệ nhân quả tiêu cực: việc không diễn
ra sự tình trong mệnh đề điều kiện đã ngăn
cản sự hiện thực hoá sự tình trong mệnh đề
chính, là nhân tố khiên cho sự tình được miêu
tả trong mệnh đề chính không thể diễn ra
được. Đó là trường hợp của nhửng câu sau:
(5) NỄU tôi là ông, tôi sẽ không làm phức tạp
thêm một gia cành não nề như vậy [8, tr. 237].
(ó) Chị buông một chữ làm em chêĩ điếng,
nếu chị lí7 người khác chắc em không ghìm nổi
phẫn nộ [8, tr. 312].

Có vẻ như nội dung của mệnh đề điều
kiện ờ hai ví dụ trên không phù hợp lắm với
th ế giói thực, và sự liên kê't của chúng với các
mệnh đề chính không phái là liên kết nhân
quà. Việc "chị là người khác" ở câu (6) không
thể coi là nguyên nhân khiên cho "em không
ghìm nôĩ phẫn nộ" mà nguyên nhân chính đã
được nêu ra trước đó "chị buông một chữ làm
em chêĩ điếng". Nhưng nêu ta lật ngược lại, thì
có thể thây việc chị không phải là người khác
đà ngăn cản việc em không ghìm nôì phẫn
nộ, do đó có thể coi đó là nguyên nhân khiên
cho hệ quả không xảy ra (hoặc xảy ra theo
chiều ngược lại). Vậy thì sự tình diễn ra ở
mệnh đề chính có thể coi là một nhân tô' cho

phép sự tình (hay hành động) được miêu tả ở
mệnh đề đi sau được thực hiện. Trong trường
hợp này, quan hệ giữa hai mộnh đề đáp ứng
được yêu cầu đặt ra: cái đi trưóc (mệnh đề
điều kiện) là điều kiện đủ cho phép dẫn tới
cái đi sau (mệnh đề chính). Do đó có thể nói
chúng là trường hợp câu có quan hệ nhân
quả không nguyên gốc, hay là trường hợp
ngoại biên của câu có quan hệ nhân quả
nguyên gôc.
Đôn đây một câu hòi được đặt ra: quan hệ
nhân quả trong các câu điều kiện có quan hệ
nhân quả khác vói quan hệ nhân quả trong
các câu có liên từ nhân quả như thê' nào? Sự
khác nhau trưóc hê't ờ cách biếu đạt. Trong
các câu có liên từ nhân quả, quan hệ nhân
quả được giói thiệu công khai qua các liên từ,
như vì, bởi vì, tại vì, vì ... nên, nên, cho nên, vì
thê' vì vậy..., còn trong các câu điều kiện,
quan hệ nhân quà không được biểu đạt một
cách tường minh, mà chi thể hiện thông qua
sự liên kêt về ý nghĩa giữa các sự việc hay các
trạng thái sự tình trong hai mệnh đề của câu
điểu kiện, và đòi hòi người nghe phải vận
dụng tri thức nền sẵn có. Hai phát ngôn đứng
kế tiếp nhau trong ví dụ (7) dưới đây thể hiện
rõ sự khác nhau đó:


Nguyễn Khánh Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 107-U 5


(7) Tuy nhiên củng không để lúa trỗ sớm quá
vì dễ gặp rét, nêu lúc trỗ rét sẽ không cho năng
suất cao hay bị bớt bông [9].
Sự khác nhau thứ hai là ở trật tự các mệnh
để trong câu. Ở các câu điểu kiện có quan hệ
nhân quà, trật tự điển hình luôn là nguyên
nhân (mệnh đề điều kiện) đi trước, kết quả
(mệnh đề chính) đi sau. Tất nhiên trật tự này
có thể đảo ngược nhưng đó không phái là
trường hợp điên hình, phô biên đôi vói các
câu điều kiện có quan hệ nhân quá. Còn
trong các câu có liên từ nhân quả, trật tự này
phụ thuộc vào liên từ nhân quà được sử
dụng: với các câu có liên từ vì, bởi vì, tại vì,
hay cặp liên từ sở dĩ ... là vì, mệnh để biểu
thị kết quà đi trước; còn trong các câu có cặp
liên từ v ì ... nên hay các liên từ nên, cho nên,
vì thế, vì vậy..., mệnh đề biểu thị nguyên
nhân đi trước. Tuy nhiên sự khác nhau quan
trọng nhất là ờ chỗ: liên từ nhân quả giới
thiệu thông tin như là những thông tin có
thật, được khẳng định, còn các câu điều kiện
luôn được giói thiệu như là những thông tin
không được khẳng định mà còn trong giả định.
2.2. Quan hệ suy luận
Trong quá trình khảo sát cứ liệu, chúng
tôi nhận thây có một số câu điều kiện mà
quan hệ giữa hai mệnh đề có vẻ cũng là quan
hệ nhân quả, nhưng theo hướng ngược lại,

như ở (8):
(8)
Nếu ỏng có hành vi nào tỏ ra chông
/chê'độ này thì chỉ do tự ái mà thôi [8, tr. 237].
Trong câu trên, mệnh đề điều kiện là kêt
quả, còn mệnh để chính biêu thị nguyên nhân
dẫn đến kết quả ấy. Đây là một phương thức
suy luận: từ kê't quá suy ra nguyên nhân.
Chúng ta có thể diễn giải phát ngôn trên một
cách rõ ràng hơn: nêu ông có hành vi nào tỏ
ra chống đối chế độ này, thì hành vi đó là kết
quà của lòng tự ái của ông, (hay xuât phát từ

111

lòng tự ái của ông). Như vậy quan hệ trên là
quan hệ suy luận, nó diễn tà mạch lập luận
của người nói. Vì nó diễn đạt sự suy luận của
người nói, nó thuộc câp độ nhận thức, chứ
không thuộc cấp độ thế giói thực nữa. Quan
hệ giữa hai mệnh đề ờ đây là: mệnh để điều
kiện trình bày một giả thuyết, còn mệnh đề
chính trình bày kê't luận về giả thuyết đó. Đây
là sự liên kết các trạng thái nhận thức với
nhau. Diễn giải theo lý thuyết điêu kiện đủ
cùa Van de Auwera, thì tri thức về A là điều
kiện đủ đê kết luận B. Có thê xem xét vài ví
dụ khác về kiểu quan hệ này:
(9) Nếu những điểu cô nói là thật thì người
ta nói với tôi là giả [3, tr. 127].

(10) Nếu quả thật đó là tình yêu thì tình yêu
ấy giông như một cái cây con không có đất trông
[8, tr. 535].
Xét theo nghĩa rộng của quan hệ nhân quả
thì mô'i liên kết này cũng có thể coi là liên kê't
nhân quả, nhưng ở một cấp độ trừu tượng
hơn: tri thức về A được hiểu như là nguyên
nhân hay là sự cho phép dẫn đến kêt luận B.
Chẳng hạn ở ví dụ (9), việc người nói cho
rằng những điều ngưòi nghe nói là thật là lý
do để anh ta kết luận rằng những điều người
khác nói là giả. Còn ở ví dụ (10), già thuye't
"thứ tình càm ấy là tình yêu" cho phép người
nói đưa ra sự đánh giá của anh ta về bản chât
của tình yêu đó.
Có thể thấy các câu điều kiện có quan hệ
suy luận giữa hai mệnh đề rất gần với kết câu
đôĩ nêu A thì B của logic hình thức thuần tu ý,
kiểu như' "A đúng thì B cũng đúng". Nhưng
hai kiểu quan hệ này khác nhau ờ chỗ: giữa
hai phán đoán của logic hình thức chỉ tổn tại
quan hệ hàm ý mà thôi, còn giữa hai mệnh đề
của câu điều kiện thuộc ngôn ngữ tự nhiên
thì có môi liên kết phức tạp hơn. Có nghĩa là,
những giá trị đúng của phán đoán đi trước và
phán đoán đi sau trong cấu trúc nếu ... th ì...
của logic hình thức thuần tuý không đủ đê


112


N guyễn Khánh Hà / Tạp chí Khoa học Đ H Q G H N , Khoa học X ã hội và Nhân văn 23 (2007) 107-115

đảm bảo tính thích hợp đ ể nó trở thành các
mệnh để của một câu điều kiện nhận thức
thuộc ngôn ngữ tự nhiên. Quan hệ suy luận
giữa hai mệnh đề trong một phát ngôn điểu
kiện thuộc ngôn ngữ tự nhiên là một liên kê't
ngừ dụng phức tạp, phụ thuộc nhiều vào ngử
cảnh. Mệnh đề điều kiện thường là một thông
tin được rút ra từ ngữ cảnh, và người nói dựa
vào thông tin đó để truyền đạt cho người
nghe về kêt luận của mình và hưóng suy luận
mình đã theo đê đi đến kết luận đó. Chằng
hạn, ờ ví dụ (11), cái được xác định từ ngữ
cảnh là Phi đã có tình cảm gì đó vói Linh
Vân. Tuy nhiên người nói không xác định
chắc chắn đó có phải là một tình yêu hay
không, và chỉ đưa ra giả thuyết rằng đó là
tình yêu, rồi sau đó kết luận rằng đó không
phải là tình yêu đích thực. Những phát ngôn
tiếp sau tiếp tục mạch suy luận nhằm chứng
minh sự hợp lý của kết luận mà người nói
đưa ra:
(11 )Phi cô' tránh không dám nhắc đến tên
Linh Vân trong tâm trí mình. Nếu quả thật đó là
một tình yêu thì tình yêu ây giông như một cái
cây con không có đất trồng. Nó chỉ có thể sông
trong những ông nghiệm của một laboratoa nào
đó, dưới bàn tay phù phép cùa nhà nghiên cứu.

Nhưng khi bứng nó ra, định trõn<ị xuôhg mảnh
đất thực tai, cái cây ây đã chêl [8, tr. 535].
Một đặc điểm phân biệt quan hệ suy luận
trong các câu điều kiện cấp độ nhận thức vói
quan hệ nhân quả trong các câu điều kiện câp
độ nội dung, là quan hệ suy luận có tính chù
quan cao hơn với quan hệ nhân quả ở thế giói
thực. Như đẵ nói ò trên, quan hệ nhân quả
trong các câu điều kiện thê'giới thực được sự
hậu thuân của tri thức nền mà những ngưòi
tham gia hội thoại có được (qua kinh nghiệm,
qua nhận thức chung cùa số đông về các liên
hệ nhân quả xảy ra trong thê' giói thực) nên
nó có tính khách quan ờ mức độ khá cao, dễ
dàng được người nói và người nghe thừa

nhận. Còn quan hệ suy luận chú yêu diễn ra
trong th ế giới tinh thần của ngưòi nói. Già
thiết mà ngưòi nói đưa ra trong mệnh đề điểu
kiện, mặc dù có thể có gốc từ ngừ cánh (tức là
có tính khách quan), nhưng kết luận mà
người nói suy ra từ giả thuye't ấy phụ thuộc
nhiều vào cách nhìn nhận của người nói đối
vói sự việc, do đó có tình chất chủ quan khá
cao. Tất nhiên, quá trình suy luận của người
nói được xây dựng từ tri thức nền của anh ta,
từ những kinh nghiệm mà anh ta đúc kê't
được từ cuộc sông thực, từ niềm tin của anh
ta vào vân đề đó, nhưng đó là chuyện của
ngưòi nói, chứ không nhâ't thiết là ngưòi

nghe cũng có tri thức nền hay có niềm tin
giống như của ngưòi nghe. Chính vì lý do
này mà ngươi nói sử dụng kê't cấu điều kiện
để diễn giải quá trình suy luận của mình cho
người nghe hiểu, giúp ngưòi nghe nắm được
bản châ't của kết luận mà người nói đưa ra.
Việc dùng kê't câu điều kiện để đưa ra kê't
luận là một chiên lược giao tiếp hướng tới
người nghe, nhằm đạt được hiệu quả giao
tiếp cao nha't. Và đế chiên lược giao tiếp này
thành công thì sẽ là không đủ nêu chúng ta
chi xem xét bản thân câu điều kiện không
thôi, mà còn cần phải quan tâm đêh các yêu
tô' thuộc bôi cảnh, bao gồm các phát ngôn đi
trưóc và đi sau câu điểu kiện, cũng như các
thông tin ngoài ngôn ngữ. Đây chính là điều
làm cho các kết câu điều kiện suy luận trong
ngôn ngữ tự nhiên khác vói các kê't câu điểu
kiện suy luận trong logic hình thức.
Một dâu hiệu hình thức có thể giúp ta
nhận ra vị thế nhận thức của các câu điều
kiện có quan hệ suy luận là sự hiện diện của
các kê't câu (quán ngữ) nghĩa là, tức là, như
thê có nghĩa là ở giửa hai mệnh để - ngữ
nghĩa của các nhóm từ này thể hiện rất rõ
mach suy luận của người phát ngỏn - chẳng
hạn như trong các ví dụ sau:


N guyễn Khánh Hí7 / Tạjĩ chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học X ã hội và Nhân văn 23 (2007) 107-115


(12) Có người ví những cặp vợ chồng - những
người dimg khác họ - ghép lại với nhau như hai
trục bánh xe răng, sau một thời gian nếu không
trượt ra, thì tức là đã tự điểu chinh để hoà hợp.
Nếu như khoảng năm năm sau, "cặp bánh xe
răng" ấy không trượt ra, thì tức là họ có thể sông
với nhau lâu dài [3, tr. 282].
(13) Bài giảng nào không thích anh ta bỏ đi
chơi. Anh ta bảo như thê' tức là anh ta sống thực,
còn nêu không thích cứ nghe giảng tức là giả dõi,
là vô ích, là phi nghệ thuật [3, tr. 22].
(14) New các ngài kêl tội tôi, nghĩa là chính
các ngài tự phơi bày sự dôí trá và sự phản bội của
các ngài trước sự nghiệp của những người đã đô
máu chôhg độc tài, quân phiệt, bất công và bạo tàn
[8, tr. 490].
2.3. Quan hệ hành động ngôn từ

Các câu điều kiện thuộc lĩnh vực hành
động ngôn từ bao gổm hai loại. Loại thứ nhât
là những câu điều kiện mà toàn bộ câu là một
hành động ngôn từ - nói cách khác, đây là
những hành động ngôn từ có nội dung là câu
điều kiện, chằng hạn như những ví dụ dưới đây:
(15)- Nêu tôi chỉ tập mà không ăn kiêng thì
điểu gì sẽ xảy ra?
Thì eo bạn có nhỏ lại, người gọn hơn trước
nhưng cân nặng thì vẫn thê'[ 10, tr. 115].
(16)Nếu tôi sang Canada, mỗi buôĩ mai tôi sẽ

thây bộ mặt râu ria này trong gương, và tôi sẽ tự
hòi, tự trá lời tôi như thê'nào? ...Chắc chắn tôi sẽ
phải đáp lại tôi rằng: mày là kè làm thuê, kè kiêm
‘cơm xứ lạ...[11, tr. 118]
(17)
Nếu có tàu địch xuất hiện, hãy bình tĩnh
ngoi yên để chúng tôi giải quyẽt. Xạo xự sẽ chìm
tàu. Nêu có tao ngộ thì bơi về hướng bờ gần nhất
[12, tr. 25].
Ví dụ (15) đặt ra một câu hòi có liên quan
đến mối quan hệ giữa tiền ước được diễn đạt
trong mệnh đê điều kiện vói hệ quả được
diễn đạt trong mệnh đề chính, và mối quan

113

hệ này mang tính nhân quá. v ề bản chất,
quan hệ nhân quả giữa hai mệnh để trong
câu này không khác gì với các câu điều kiện
trần thuật, chi khác ờ chỗ hệ quà không được
người nói giả định, mà người nói chỉ đặt ra
câu hòi đê chò đợi người đôi thoại xác nhận
hệ quà đó. Quan hệ ờ ví dụ (16) cũng tương
tự như vậy, cái khác ờ đây là tính chât tự sự,
độc thoại của câu hỏi. Còn trong ví dụ (17),
người nói đưa ra hai già định có thê xảy ra đê
làm cơ sờ cho các mệnh lệnh khác nhau phù
hợp với từng tình huông giả định. Môi quan
hệ giữa mệnh để điều kiện và mệnh đê chính
trong ví dụ này cũng có liên quan chặt chẽ

theo kiểu nhân quả.
Kiểu câu điều kiện trên đây khác vói loại
thứ hai, là những câu điều kiện mà chi có vê
chính là hành động ngôn từ mà thôi. Mệnh đề
điều kiện trong các câu thuộc loại này không
có quan hệ trực tiếp với nội dung được diên
đạt trong mệnh đề chính, mà liên quan đến
bản thân hành động ngôn từ được diên đạt
bời mệnh đề chính - chúng tỏi gọi đây là
những hành động ngôn từ có điều kiện. Ví dụ:
(18) - Anh gì, à anh Núi ơi, làm ơn giúp em
một tay?
- Gì cơ?

- Cái màn của em bị mắc. Đây, anh giúp em,
nếu anh không vội [13, tr. 14].
(19) Nếu cháu không bận, xin mời ngồi đề chú
trình bày lại câu chuyện, đề cháu góp thêm ý kiên
[3, tr. 12].
(20) - Tôi muôn hòi giáo sư... đây chỉ là một
chuyện riêng tư...
- Tôi rất sẵn lòng, nếu được anh tin cậy [11,
tr. 207].
Trong các ví dụ trên, mệnh đề điều kiện
không có liên quan trực tiếp đến nội dung
của mệnh đề chính, và nội dung giả định của
câu vói tư cách là một tổng thê không thê
hiện tính châ't liên tục cũng như quan hệ nhân
quả giữa các sự tình được miêu tả. Mệnh đề



114

N guyễn Khảnh Hà / Tạp chí Khoa học Đ H Q G H N , Khoa học X ã hội và Nhân vãn 23 (2007) 107-115

điểu kiện ò đây chỉ có vai trò như là m ột điều
kiện đủ để người nói thực hiện hành động
ngôn từ được diễn đạt ờ mệnh đề chính: (18)
đưa ra lời khẩn cẩu vói điều kiện là ngưòi
nghe không vội, (19) là một lời mời dựa trên
điểu kiện là người nghe có thời gian, (20) là
lời châp nhận sự thỉnh cầu dựa trên cơ sở là
sự tin cậy của người nghe. Giả sử nêu người
nghe trong các trường hợp trên tò ý từ chôl,
không hợp tác, kiểu như "không được, anh
vội lắm", hay "không được, tôi bận lắm", thì
sự từ chối đó thường được hiểu là người đôĩ
thoại từ chỏi người đưa ra hành động ngôn
từ, từ chôi việc đáp trả hành động ngôn từ
đó, chứ không hẳn là phú nhận nội dung của
mệnh đê điểu kiện mà hành động ngôn từ
phụ thuộc vào đó. Thậm chí người nghe có
thê phủ nhận nội dung điều kiện nhưng vẫn
châp nhận một cách tích cực hành động ngôn
từ, ví dụ: "anh vội lắm, nhưng vẫn giúp em
được" (ví dụ 18) hoặc "cháu râ't bận, nhưng
cháu sẽ ngồi với chú" (ví dụ 19). Điều này cho
thây hai mệnh đề trong các câu điều kiện
thuộc loại này khá độc lập vói nhau.
Vậy thì mệnh đề điều kiện trong kiểu câu

này, hay nói cách khác, quan hệ mang tính
điều kiện của kiêu câu này đóng vai trò gì?
Theo chúng tôi, chúng có một chức năng
quan trọng tác động đêh tính hiệu quả của
cuộc đàm thoại, đó là tạo ra cho ngưòi nghe
một SỐ co hội lựa chọn để phán ứng lại hành
động ngôn từ, làm cho phát ngôn trờ nên lịch
sự hơn hoặc phù hợp han. N hư vậy những
hành động ngôn tù có điều kiện trưóc hết bao
hàm tính lịch sự, do đó các mệnh đề điều kiện
có xu hướng cô' định hoá chứ không còn
mang tính tự phát nữa, chẳng hạn như: "nêu
anh không bận", "nêu chị không vội", "nêu
anh không phiền", "nêu chị muôn", "nếu được
anh tin cậy" v.v...

Trên đây là những kiếu quan hệ ý nghĩa
căn bản giữa hai mệnh đề trong các câu điểu
kiện tiêng Việt mà chúng tôi đã tìm ra. Chúng
là những tiêu chí hê't sức quan trọng, nêu
không muôn nói là quan trọng nha't, để
chúng tôi tiên hành phân loại các câu điều
kiện tiêng Việt một cách chi tie't hơn.

Tài liệu tham khảo
[1] Traugott

E .c.

Ed.,


et

al.,

On

Conditionals,

C am bridge U niversity Press, Cambridge, 1986.
[2] Palmer F.R., Mood and Modality, Cam bridge
U niversity Press, Cam bridge, 1986.
[3] N g u y ễn Thị N gọc Tú, Chỉ còn anh và em, NXB
Ha N ội, 1990.
[4] Fauconnier G., M ental Spaces: Aspects o f M eaning
Construction in Natural Language, Mass., MIT
Press, 2nd edn.

1994,

Cam bridge U niversity

Press, Cam bridge, 1985.

[5] Sweetser E., From Etymology to Pragmatics,
C am bridge U niversity Press, Cambridge, 1990.
[6] D ương Thu H ương, Hành trình ngày thơ ảU, NXB
Kim Đ ổng, 1985.
[7] D ancygier


Conditionals

B.,

and

Prediction,

C am bridge U niversity Press, Cambridge, 1998.
[8] N g u y ễn Khắc Phục, Thành phô' đím g đầu gió,
NXB Đà N ằng, 1989.
[9] Đ ặng Xuân Kháng, V iệc sử dụng âm lịch trong
chỉ đ ạo sản xuất nông n gh iệp ở vù ng đ ổng bằng
và ven biển

N am Định, Hội thảo khoa học

"Chương trình Bách Côc và Nghiên cứu làng xã
trong 10 năm gần đây", H à Nội, 19-20/8/2003, tr.6.
[10] Lc Thuý Tươi, Nỗi buồn can nặng, NXB Phụ nữ,
Hà Nội, 2001.
[11] D ương Thu H ương, Bên kia bờ ảo vọng, NXB Phụ
N ừ, Hà N ội, 1988.
[12] N g u y ễn Thị M inh N gọc, Bến củ, Kịch bản phim
truyện, 1997.
[13] Lê Lựu, Le N gọc M inh, Sóng ở đáy sông, Kịch
bản phim truyện, 1997.


Nguyễn Khánh Hà / Tạp chí Khoa học DHQ GHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 107-115


115

The semantic relations between the clauses of
Vietnamese conditional sentences
Nguyen Khanh Ha
Institute of Vietnamese Studies and Development Sciences, Vietnam National University, Hanoi
336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam

This account is an attempt to provide a brief description of some semantic relations between the
c la u s e s of Vietnamese conditional sentences, and the focus will be three of them, namely, the causal
r e la tio n s the inferential relations, and the speech act relations. The "sufficient conditionality' theory
suggested by Van der Auwera is regarded as the basis of the present analysis. In the causal
conditionals, the event or state of affair described by the conditional clause, if realized, will be
sufficient for the realization of the event or state of affair described in the main clause. These relations,
which hold in the range of the "real world", are recognized and supported by both the speaker and the
listener through their background knowledge. The causal relations in conditionals are in some aspects
different from those in causal conjunctions. Besides that, another kind of prominent conditional
relations is the inferential ones. This kind of relation expresses the speaker's reasoning, and sentences
holding these relations then function in the epistemic, not content, domain, and connect epistemic
states. Essentially, the conditional clause provides a premise, and the main clause the conclusion
inferred from the premise. These relations are pragmatically complex and much depends on the
context. The third kind of relation is the speech act ones. The protases of such sentences are largely
independent of the content of their apodoses, and the propositional content of the sentence as a whole
does not contain assumptions of sequentiality and causality between the states of affairs described.



×