Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

10. Du thao BC tong ket thi dua khen thuong 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.99 KB, 25 trang )

BỘ TƯ PHÁP
Số:

/BC-BTP

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày

tháng 01 năm 2015

DỰ THẢO

BÁO CÁO
Tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2014,
phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2015

Năm 2014, năm có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm (2011-2015), theo Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI, năm đầu tiên thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thi đua, khen thưởng, chuẩn bị tiến tới Đại hội Thi đua yêu nước
ngành Tư pháp lần thứ IV và kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp
(28/8/2015); tiếp tục thực hiện các Nghị quyết của Trung ương Đảng, Quốc hội,
Chính phủ cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật; vị trí, vai trò của công tác tư pháp tiếp tục được nâng cao, chức
năng, nhiệm vụ được tăng cường, mở rộng. Đây vừa là thời cơ, vận hội mới để
nâng tầm công tác tư pháp, vừa là thách thức đặt ra cho ngành Tư pháp trước
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trước bối cảnh đó, phát huy
những kết quả đã đạt được trong năm 2013, với sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của
Ban cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp, công tác thi đua, khen thưởng của ngành


Tư pháp đã có nhiều khởi sắc, tạo động lực thúc đẩy mỗi tập thể, cá nhân trong
toàn Ngành nêu cao tinh thần đoàn kết, chủ động, sáng tạo, vượt khó phấn đấu
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 của Ngành, địa phương.
Phần thứ I
TÌNH HÌNH, KẾT QUẢ THỰC HIỆN
CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG NĂM 2014
I. CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO PHONG TRÀO THI ĐUA
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của công tác thi đua, khen thưởng, Chỉ thị
số 39/CT-TW ngày 21/5/2004 và Chỉ thị số 34/CT-TW ngày 07/4/2014 của Bộ
Chính trị về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng; sự chỉ
đạo, hướng dẫn của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Ban cán sự
Đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp luôn quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh các phong trào thi
đua yêu nước, coi đây là đòn bẩy, tạo động lực thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm
vụ chính trị của Ngành. Ngay từ những ngày đầu năm, tại Hội nghị triển khai
công tác tư pháp năm 2014, ngành Tư pháp đã phát động phong trào thi đua với
khẩu hiệu: “Toàn Ngành Tư pháp đồng thuận, vượt khó, thi đua hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao” gắn với tiếp tục triển khai thực hiện


Phong trào thi đua “Ngành Tư pháp chung sức góp phần xây dựng nông thôn
mới” và trào thi đua “Cán bộ Tư pháp tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tới toàn thể cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động trong toàn Ngành.
Cùng với việc chỉ đạo đẩy mạnh các phong trào thi đua, việc xây dựng,
hoàn thiện thể chế và ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn công tác thi đua,
khen thưởng trong ngành Tư pháp được quan tâm, chú trọng. Bộ Tư pháp đã
phối hợp chặt chẽ với Bộ Nội vụ trong việc góp ý, thẩm định các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật thi đua, khen thưởng năm 2013 để Luật sớm đi vào cuộc sống;

ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn phát động phong trào thi đua và công
tác khen thưởng trong ngành Tư pháp: Quyết định số 1346/QĐ-BTP ngày
11/6/2014 về việc ban hành Kế hoạch phát động phong trào thi đua lập thành
tích chào mừng kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống và Đại hội thi đua yêu nước
ngành Tư pháp lần thứ IV với chủ đề: “Phát huy truyền thống đoàn kết, sáng
tạo, kỷ cương, trách nhiệm, thi đua lập thành tích xuất sắc chào mừng kỷ
niệm 70 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp Việt Nam (28/8/1945 –
28/8/2015) và Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ IV”; Quyết
định số 2026/QĐ-BTP ngày 04/9/2014 về việc ban hành Bảng tiêu chí đánh giá,
xếp hạng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
năm 2014; Quyết định số 2096/QĐ-BTP ngày 15/9/2014 về việc ban hành Bảng
tiêu chí đánh giá, xếp hạng Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương năm 2014; văn bản số 3804/BTP-TĐKT ngày 08/9/2014 về việc hướng
dẫn xây dựng và bình xét điển hình tiên tiến giai đoạn 2010-2015; văn bản số
3959/BTP-TĐKT ngày 18/9/2014 về việc quán triệt, triển khai các văn bản về
công tác thi đua, khen thưởng; văn bản số 4030/BTP-TĐKT ngày 22/9/2014
hướng dẫn xét, đề nghị khen thưởng năm 2014 và kỷ niệm 70 năm Ngày truyền
thống ngành Tư pháp và Đại hội thi đua yêu nước lần thứ IV.
Để tăng cường vai trò của cơ quan tham mưu, cán bộ làm công tác thi đua,
khen thưởng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1536/QĐ-BTP
ngày 01/7/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Vụ Thi đua – Khen thưởng và Kế hoạch tổ chức lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp
vụ về công tác thi đua, khen thưởng cho các đơn vị thuộc Bộ, Sở Tư pháp, Cục
Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương...Việc kịp thời ban
hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thi đua đã tạo ra sự chuyển biến nhận thức và
trách nhiệm của lãnh đạo các đơn vị đối với công tác thi đua, khen thưởng, tăng
cường quản lý nhà nước, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn;
tạo cơ sở pháp lý để công tác thi đua, khen thưởng đi vào thực chất, phát huy
hiệu quả theo quy định của pháp luật và phù hợp với đặc điểm, tình hình của
ngành Tư pháp.

Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ và Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Ngành,
các Cụm, Khu vực thi đua, các đơn vị thuộc Bộ, các tổ chức pháp chế Bộ,
ngành, Sở Tư pháp và Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc
2


Trung ương đã ban hành Kế hoạch tổ chức hưởng ứng thực hiện phong trào thi
đua do Bộ phát động. Đồng thời, các Cụm, Khu vực thi đua, cơ quan, đơn vị đã
chủ động phát động phong trào thi đua theo chuyên đề, theo đợt đảm bảo thiết
thực, hiệu quả, phù hợp, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan,
đơn vị và của Ngành. Các phong trào thi đua học tập, nâng cao năng lực quản lý,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; áp dụng sáng kiến và cải tiến phương pháp, lề
lối làm việc; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng; thi
đua xây dựng tập thể đoàn kết, tổ chức Đảng và đoàn thể trong sạch, vững mạnh
tiếp tục được quan tâm, triển khai thực hiện. Các phong trào thi đua được triển
khai bài bản, có kế hoạch tổ chức phát động, giao chỉ tiêu thi đua, ký giao ước
thi đua với các tiêu chí và nội dung, biện pháp tổ chức thực hiện rõ ràng, cụ thể,
thiết thực nên được cán bộ, công chức đón nhận và tích cực hưởng ứng.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC PHONG TRÀO THI ĐUA
1. Phong trào thi đua “Toàn ngành Tư pháp đồng thuận, vượt khó, thi
đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao”
Hưởng ứng phong trào thi đua do Bộ trưởng Bộ Tư pháp phát động tại Kế
hoạch số 03/KH-BTP ngày 02/01/2014 với chủ đề “Toàn ngành Tư pháp đồng
thuận, vượt khó, thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao”,
căn cứ nội dung công tác trọng tâm của Ngành, các cơ quan, đơn vị trong
Ngành, các Cụm, Khu vực thi đua, các đơn vị thuộc Bộ, tổ chức pháp chế Bộ,
ngành, Sở Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đã quán triệt, cụ thể hoá thành Kế hoạch phát động và thực hiện
phong trào thi đua thuộc phạm vị mình quản lý. Tổ chức cho các tập thể, cá nhân
ký kết giao ước thi đua. Kết quả cụ thể:

- Đối với tập thể: có 19 đơn vị đăng ký “Cờ thi đua của Chính phủ”, 190
đơn vị đăng ký “Cờ thi đua ngành Tư pháp”, 984 đơn vị đăng ký danh hiệu “Tập
thể lao động xuất sắc”.
- Đối với cá nhân: có 10 cá nhân đăng ký danh hiệu “Chiến sỹ thi đua toàn
quốc”; 246 cá nhân đăng ký danh hiệu “Chiến sỹ thi đua ngành Tư pháp”, trên
3.500 cá nhân đăng ký danh hiệu “Chiến sỹ thi đua cơ sở” và trên 9.000 cá nhân
đăng ký danh hiệu “Lao động tiên tiến”.
Sau khi phát động, phong trào đã được triển khai sâu rộng trong toàn
Ngành, động viên các tập thể, cá nhân ra sức thi đua, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ chính trị, chuyên môn được giao; nhiều lĩnh vực công tác có chuyển biến tích
cực, đạt kết quả cao hơn so với năm 2014, đóng góp tích cực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội và công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Bộ,
Ngành và địa phương. Sau đây là kết quả của một số nhiệm vụ công tác nổi bật:
1.1. Công tác triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013: được triển khai bài
bản, toàn diện, bám sát kế hoạch của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và của Chính
phủ. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến tinh thần, ý nghĩa, nội dung Hiến pháp đã
3


được triển khai trên bình diện sâu rộng, tạo ra đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn
của đất nước. Công tác rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các luật, pháp
lệnh để thi hành Hiến pháp được coi trọng, có nhiều chuyển biến tích cực. Tính
đến ngày 10/12/2014, đã có 102.306 văn bản QPPL được rà soát, 282 văn bản
được kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, dừng thi hành hoặc ban hành
mới.
1.2. Công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra VBQPPL đã cơ bản hoàn
thành tiến độ và đảm bảo chất lượng, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường, thực thi các chiến lược cải cách tư pháp và hoàn thiện pháp luật. Bộ Tư
pháp đã tham mưu giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhiều biện pháp chỉ
đạo quyết liệt công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh và ban hành văn bản

quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh; các Bộ, cơ quan ngang Bộ
đã có nhiều cố gắng, chủ động, tích cực xây dựng, ban hành văn bản quy định
chi tiết. Tính đến ngày 25/12/2014, trong năm 2014, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành 106 văn bản
để thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực pháp luật; "nợ đọng" thấp nhất từ
trước đến nay; chỉ có một thông tư có một nội dung chưa phù hợp với văn bản
pháp luật có hiệu lực cao hơn, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các Bộ, ngành,
địa phương triển khai thực hiện, các cơ quan, tổ chức, cá nhân tuân thủ, thực thi
đúng các quy định của pháp luật.
Công tác thẩm định, kiểm tra VBQPPL được chú trọng nhằm nâng cao chất
lượng, với những giải pháp đột phá, bảo đảm sự gắn kết hơn giữa các khâu trong
quá trình soạn thảo, thẩm định VBQPPL với kiểm soát thủ tục hành chính và
theo dõi thi hành pháp luật.
1.3. Công tác kiểm soát thủ tục hành chính được gắn kết chặt chẽ với công
tác xây dựng VBQPPL. Việc nghiên cứu, đề xuất sáng kiến cải cách quy định,
TTHC được triển khai có kết quả tích cực. Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 1299/QĐ-TTg phê duyệt "Đề án thực hiện
liên thông các thủ tục hành chính: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp
thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi"; trình Chính phủ ban hành Nghị quyết
số 43/NQ-CP về một số nhiệm vụ trọng tâm cải cách thủ tục hành chính trong
hình thành và thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất để cải thiện môi trường kinh
doanh… Công tác kiểm soát TTHC ở Bộ Tư pháp, pháp chế Bộ, ngành và các
Sở Tư pháp đang dần được hiện đại hóa, với việc thử nghiệm, hướng tới thực
hiện “báo cáo không giấy”, đánh giá tác động, tính toán chi phí tuân thủ và thực
hiện công bố, công khai trực tuyến… Đây được coi là công cụ hữu hiệu phục vụ
công tác kiểm soát TTHC và sẵn sàng mở rộng kết nối với các hệ thống chính
phủ điện tử trong tương lai.
1.4. Công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp
luật được tăng cường: việc xây dựng các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật
Xử lý vi phạm hành chính cơ bản đã hoàn thành. Ngày 15/5/2014, Thủ tướng

4


Chính phủ ban hành Quyết định số 717/QĐ-TTg về việc thành lập Cục Quản lý
xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật trực thuộc Bộ Tư pháp.
Đây là cơ quan đầu tiên được thành lập để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
và tổ chức thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi cả
nước, góp phần gắn công tác tham mưu, xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp
luật với công tác tổ chức thi hành pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy xây dựng và thi
hành pháp luật trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Công tác theo dõi thi hành pháp luật đã có chuyển biến mới: thể chế tiếp
tục được hoàn thiện, việc xây dựng kế hoạch theo dõi THPL đã bước đầu có sự
gắn kết với kế hoạch kiểm soát TTHC và kiểm tra VBQPPL. Đa số các Bộ,
ngành, địa phương đều xác định lĩnh vực trọng tâm cần tập trung theo dõi và đã
thực hiện đa dạng các hình thức theo dõi THPL như kiểm tra, điều tra, khảo sát
tình hình thi hành pháp luật; xử lý thông tin về tình hình thi hành pháp luật để
kịp thời có phản ứng chính sách đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.5. Công tác thi hành án dân sự (THADS) tiếp tục có nhiều chuyển biến
tích cực: Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; các cơ quan THADS tiếp tục
triển khai thực hiện Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội, Bộ cũng đã
phối hợp với cấp uỷ, chính quyền các cấp chỉ đạo các cơ quan THADS thực hiện
quyết liệt nhiều giải pháp nhằm phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu nhiệm vụ
THADS được Quốc hội giao. Qua đó, công tác THADS năm 2014 đã đạt được
những kết quả khả quan, nhất là trong việc thực hiện chỉ tiêu thi hành án xong
về việc và về tiền, cụ thể:
- Về việc, tổng số thụ lý là 779.298 việc, tăng 47.119 việc (6,43%) so với
năm 2013. Trong số 600.297 việc có điều kiện giải quyết, đã giải quyết xong

531.095 việc, đạt tỷ lệ 88,47%, tăng 38.120 việc và 1,94% về tỷ lệ so với năm
2013.
- Về tiền, tổng số tiền thụ lý là 95.108 tỷ 655 triệu 390 nghìn đồng, tăng
24.546 tỷ 54 triệu 496 nghìn đồng (34,78%) so với năm 2013. Trong số 50.807 tỷ
978 triệu 403 nghìn đồng có điều kiện giải quyết, đã giải quyết xong 38.981 tỷ
505 triệu 442 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 76,72% (còn thiếu 0,28% so với chỉ tiêu được
giao), tăng 10.016 tỷ 499 triệu 842 nghìn đồng và 3,55% về tỷ lệ so với năm
2013.
Một số địa phương đạt kết quả thi hành án tốt như: Tp. Hà Nội (91,38% về
việc, 90,15% về tiền), Tp. Hồ Chí Minh (88,52% về việc, 79,01% về tiền), Đà
Nẵng (91,8% về việc và 86,57% về tiền), Tiền Giang (88,15% về việc và
83,78% về tiền), Nam Định (93,93% về việc, 90,68% về tiền)... qua đó góp phần
rất lớn vào việc nâng cao kết quả, chỉ tiêu chung của toàn Ngành.
5


Nhằm mục tiêu xã hội hóa mạnh mẽ hơn nữa hoạt động tư pháp nói chung
và THADS nói riêng, đảm bảo việc thực hiện Thừa phát lại có hiệu quả, phục vụ
người dân và hỗ trợ các cơ quan nhà nước tốt hơn, từ kết quả tổng kết thực hiện
thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh, theo Nghị quyết của
Quốc hội, chế định này được mở rộng thí điểm tại 12 địa phương. Năm 2014,
việc thực hiện mở rộng thí điểm được đẩy mạnh, đến nay, tại 13/13 địa phương
đã thành lập được tổng số 51 Văn phòng Thừa phát lại, cơ bản kết thúc giai đoạn
thành lập, ổn định và chuyển sang giai đoạn "tăng tốc" hoạt động, được xã hội
đón nhận như một loại hình dịch vụ công trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.
1.6. Công tác đăng ký và quản lý quốc tịch, hộ tịch, chứng thực được triển
khai đồng bộ. Quốc hội đã thông qua Luật Hộ tịch - văn bản đầu tiên ở tầm luật
điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch, tạo bước đột phá trong lĩnh vực này theo hướng
thuận lợi và bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Việc ứng
dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch được đặc biệt quan tâm. Một số

tỉnh, thành phố (Tp. Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre...)
đã tổ chức mô hình thí điểm “một cửa liên thông” qua việc liên thông 03 thủ tục
“đăng ký khai sinh - đăng ký thường trú/ tạm trú - cấp thẻ bảo hiểm y tế” và liên
thông thủ tục “đăng ký khai tử - xoá đăng ký thường trú/ tạm trú” với nhiều tiện
ích nổi bật, giúp người dân thực hiện các TTHC được nhanh, gọn, hiệu quả, tiết
kiệm, đồng thời tăng cường sự quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực này...
Công tác chứng thực được triển khai bài bản theo tinh thần cải cách hành
chính. Ước tính năm 2014, trên toàn quốc thực hiện được 6.048.141 việc chứng
thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch và chứng thực 79.466.262 bản sao
(tăng 18,57% so với năm 2013), số lệ phí thu được hơn 438,5 tỷ đồng (tăng
57,73% so với năm 2013).
1.7. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), hòa giải ở cơ sở đạt
được kết quả tích cực: PBGDPL tiếp tục được đẩy mạnh, triển khai đồng bộ, có
trọng tâm, trọng điểm, bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, của Bộ, ngành,
địa phương. Thể chế về PBGDPL đã tương đối hoàn thiện. Nội dung, hình thức
PBGDPL được đổi mới, ngày càng có hiệu quả. Ngày Pháp luật được tổ chức
đồng bộ, rộng khắp, tạo sức lan tỏa lớn. Công tác phổ biến, tuyên truyền Hiến
pháp và các luật, pháp lệnh mới ban hành được các Bộ, ngành, địa phương chú
trọng ngay từ giai đoạn soạn thảo; hoàn thành bước đầu việc phổ biến các luật
được Quốc hội thông qua năm 2013, 2014. Việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật
về biển, đảo, chủ quyền quốc gia được coi trọng, qua đó khơi dậy lòng yêu
nước, tinh thần đoàn kết, nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Công tác hòa giải ở cơ sở chú trọng hơn với việc hoàn thiện thể chế hướng
dẫn Luật Hòa giải ở cơ sở. Chất lượng hòa giải được nâng lên, năm 2014, cả
nước tiếp nhận 201.338 vụ việc; kết quả hoà giải thành ước đạt 151.104 vụ việc,
đạt 77% (tăng 01% so với năm 2013); một số địa phương có kết quả hoà giải
6



thành đạt tỷ lệ cao như: Hà Nam (95%), Khánh Hoà (87%), Quảng Bình (87%),
Long An (84%), Hà Nội (82%), Bắc Ninh (82%),...
1.8. Công tác bổ trợ tư pháp được đẩy mạnh: Thể chế trong lĩnh vực bổ trợ
tư pháp tiếp tục được hoàn thiện; công tác quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp từ
Trung ương đến địa phương đã được tăng cường, nhất là hoạt động thanh tra,
kiểm tra, kịp thời nắm bắt tình hình và chú trọng hướng dẫn nghiệp vụ, giải
quyết khó khăn, vướng mắc của địa phương, các cá nhân, tổ chức hành nghề
trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn, thực hiện
Luật Giám định tư pháp đã được các Bộ, ngành chú trọng hơn; các địa phương
đã quan tâm hơn đến việc củng cố, kiện toàn, tăng cường cơ sở vật chất cho các
tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần.
Các Sở Tư pháp đã tích cực tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện tốt Chiến
lược phát triển nghề luật sư tại địa phương như: đề xuất hỗ trợ kinh phí đào tạo
luật sư trên địa bàn tỉnh nhằm bổ sung nguồn lực phát triển đội ngũ luật sư;…
Hoạt động công chứng chính thức được thừa nhận là dịch vụ công tại Luật
Công chứng (sửa đổi), tạo cơ sở pháp lý cho bước phát triển mới của hoạt động
công chứng và phù hợp với Quy hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công
chứng ở địa phương. Một số địa phương (Long An, Cần Thơ, Tiền Giang…) đã
ban hành quyết định về việc tiếp tục chuyển giao chứng thực hợp đồng, giao
dịch liên quan đến bất động sản từ UBND cấp xã, huyện sang tổ chức hành nghề
công chứng; nhiều địa phương đã xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông trong lĩnh
vực công chứng.
1.9. Công tác Trợ giúp pháp lý (TGPL) được đẩy mạnh trong phạm vi toàn
quốc. Bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy và đội
ngũ thực hiện công tác TGPL, nhiều cơ quan, địa phương đã chú trọng đẩy
mạnh việc TGPL cho các đối tượng chính sách, người nghèo, người khuyết tật,
chú trọng tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc
thiểu số đang sinh sống, vùng bãi ngang ven biển (Tiền Giang), góp phần nâng
cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của người dân…
1.10. Công tác lý lịch tư pháp tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực.

Nhằm giảm thiểu thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp quá hạn, cũng như tạo điều
kiện thuận lợi cho công dân, một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã
nghiên cứu, áp dụng những giải pháp cụ thể như: thực hiện thử nghiệm phương
thức tra cứu, xác minh và nhận kết quả qua đường điện tử, triển khai dịch vụ
chuyển phát kết quả giải quyết hồ sơ lý lịch tư pháp đến địa chỉ của người dân
qua bưu điện (Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Quảng
Bình, Sóc Trăng,...); công khai kết quả cấp phiếu lý lịch tư pháp trên cổng thông
tin điện tử của tỉnh (Hà Nam, Long An)…
1.11. Công tác pháp luật quốc tế tiếp tục được triển khai bài bản, đạt được
một số kết quả khích lệ. Bộ Tư pháp đã thực hiện vai trò đại diện pháp lý cho
Chính phủ Việt Nam trong giải quyết và giành thắng lợi liên tiếp 02 vụ kiện do
7


nhà đầu tư nước ngoài kiện ra Hội đồng trọng tài quốc tế yêu cầu Chính phủ Việt
Nam bồi thường nhiều triệu đô-la Mỹ. Việc giải quyết thành công 02 vụ kiện
này đã chứng tỏ sự nghiêm túc, trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam trong tôn
trọng và thực hiện cam kết quốc tế; khẳng định chính sách rõ ràng và nhất quán
của Việt Nam là luôn chào đón và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
nước ngoài tiến hành đầu tư, kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam, nhưng cũng
kiên quyết bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trước những đòi hỏi vô lý của
một số nhà đầu tư thiếu thiện chí.
1.12. Công tác xây dựng Ngành đạt được nhiều kết quả quan trọng: Thể chế
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của ngành Tư pháp tiếp
tục được hoàn thiện. Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư
liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, là cơ sở pháp lý quan trọng để
thống nhất về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, kiện toàn về tổ chức bộ máy,

nhân lực làm công tác Tư pháp ở địa phương.
Công tác cán bộ tiếp tục có những chuyển biến mạnh, nhất là trong quy
hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm. Năm 2014, Bộ Tư pháp đã có 03 cán bộ chủ chốt
thuộc diện Quy hoạch chức danh lãnh đạo Bộ giai đoạn 2013 - 2016 được luân
chuyển về công tác tại địa phương, giữ các chức vụ. Đây là lần đầu tiên có đến
03 cán bộ của Bộ Tư pháp được Trung ương lựa chọn, luân chuyển để đào tạo,
rèn luyện, nhiều hơn so với nhiều Bộ, ngành khác.
Tại địa phương, công tác kiện toàn, củng cố tổ chức và đội ngũ cán bộ của
cơ quan Tư pháp ngày càng được quan tâm; tiếp tục bổ sung về nguồn nhân lực,
nâng cao chất lượng cán bộ, công chức và chú trọng việc bổ nhiệm, điều động,
đào tạo.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của Bộ Tư pháp
tiếp tục được quan tâm. Trường Đại học Luật Hà Nội tập trung mạnh cho việc
triển khai Đề án xây dựng trường trọng điểm với việc áp dụng các giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo; Học viện Tư pháp tích cực triển khai Đề án xây
dựng Học viện thành trung tâm lớn, Đề án thí điểm liên kết đào tạo luật sư phục
vụ hội nhập, triển khai các thủ tục xây dựng trụ sở cho Cơ sở 2 tại Thành phố
Hồ Chí Minh. Khắc phục các khó khăn trước mắt, 05 Trường Trung cấp Luật
thuộc Bộ Tư pháp tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, đi vào hoạt động có hiệu
quả, cơ bản hoàn thành tốt các chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng được giao.
Bên cạnh đó, công tác kế hoạch, thống kê; nghiên cứu khoa học pháp lý;
đăng ký giao dịch bảo đảm; ứng dụng công nghệ thông tin; thông tin, truyền
thông, báo chí, xuất bản; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng;… cũng đạt được những bước tiến vững chắc, đạt
được nhiều kết quả khả quan, đáng khích lệ, đóng góp thiết thực vào thành tựu
8


chung của Ngành, địa phương, của đất nước về phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Nhìn chung, năm 2014, công tác tư pháp đã bám sát các chỉ tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội của Quốc hội, Chính phủ, triển khai cơ bản toàn diện,
có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ được giao và thu được kết quả trên nhiều
lĩnh vực.
Các đơn vị thuộc Bộ đã bám sát nhiệm vụ trọng tâm của Ngành để phát
động, tổ chức các phong trào thi đua thu được nhiều kết quả. Những đơn vị đi đầu
trong phong trào thi đua là Trường Đại học Luật Hà Nội, Báo Pháp luật Việt
Nam, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Tổng cục Thi hành án
dân sự... Trong đó có đơn vị giữ vững danh hiệu Cờ thi đua ngành Tư pháp trong
03 năm liên tục là Trường Đại học Luật Hà Nội, 02 năm liên tục là Vụ Tổ chức
cán bộ, Cục Công tác phía Nam, Báo Pháp luật Việt Nam; có 03 đơn vị được Hội
đồng Thi đua – Khen thưởng Ngành nhất trí trình Bộ trưởng đề nghị Chính phủ
tặng Cờ thi đua của Chính phủ là Vụ Tổ chức cán bộ, Báo Pháp luật Việt Nam,
Tổng cục Thi hành án dân sự.
Sở Tư pháp, Cục THADS các tỉnh, thành phố đã tích cực hưởng ứng, tổ
chức, thực hiện tốt phong trào thi đua. Kết quả chấm điểm thi đua và xếp hạng
đối với Sở Tư pháp, cơ quan thi hành án dân sự địa phương năm 2014 cho thấy,
xếp hạng A: 20 Sở Tư pháp, 22 Cục THADS; xếp hạng B: 42 Sở Tư pháp, 26
Cục THADS; xếp hạng C: 01 Sở Tư pháp, 13 Cục THADS; xếp hạng D: 02 Cục
THADS; trong đó, các cơ quan, đơn vị dẫn đầu trong việc triển khai thực hiện
nhiệm vụ và đạt thành tích nổi bật trong phong trào thi đua như Sở Tư pháp tỉnh
Lạng Sơn, Hà Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Bà Rịa –
Vũng Tàu, Ninh Thuận, Bến Tre, Sóc Trăng, Cà Mau, Tiền Giang, Tp. Cần Thơ,
Tp. Hồ Chí Minh,...; Cục THADS tỉnh Quảng Trị, Đắk Lắk, Cao Bằng, Hòa
Bình, Nam Định, Lào Cai, Sơn La, Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Yên,
Tiền Giang, Bến Tre, An Giang…
2. Phong trào thi đua “Ngành Tư pháp chung sức góp phần xây dựng
nông thôn mới”
Thực hiện Kế hoạch số 2611/KH-BTP ngày 03/4/2012 của Bộ Tư pháp về
phát động và tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Ngành Tư pháp chung sức

góp phần xây dựng nông thôn mới” và Kế hoạch của Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố, nhiều đơn vị thuộc Bộ, các Sở Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự đã xây
dựng kế hoạch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động thuộc phạm vi được giao gắn với
các tiêu chí xây dựng nông thôn mới trong các lĩnh vực về xây dựng, thi hành
pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến giáo dục pháp luật,
hòa giải ở cơ sở; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp; trợ giúp
pháp lý. Phát hành nhiều tờ rơi, tờ bướm, tài liệu tuyên truyền; bồi dưỡng kiến
thức pháp luật cho đội ngũ công chức Tư pháp – Hộ tịch và Hòa giải viên cơ sở
9


ở các xã điểm; qua đó góp phần giúp các địa phương hoàn thành các tiêu chí xây
dựng nông thôn mới…
Phong trào đã được các cơ quan, đơn vị trong Ngành, cán bộ, công chức
nhiệt tình hưởng ứng, nhân dân phấn khởi, đón nhận; và được triển khai sâu
rộng bằng nhiều hình thức thi đua phong phú, đa dạng, thiết thực. Cụ thể như:
Báo Pháp luật Việt Nam với chương trình “chung tay xóa nghèo pháp luật” tổ
chức cấp phát báo pháp luật miễn phí cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, tặng 01
tivi, 10 xuất học bổng cho học sinh nghèo ở Hải Hậu, Nam Định, quyên góp và
trao tặng 150 triệu cho kiểm ngư; Nhà xuất bản Tư pháp và Học viện Tư pháp
thực hiện chương trình tặng sách pháp luật cho tủ sách pháp luật cho vùng sâu,
vùng xa; Học viện Tư pháp tổ chức tư vấn pháp luật trực tiếp cho đồng bào vùng
sâu, vùng xa; Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực hỗ trợ máy tính cho 02 xã, thí
điểm cài đặt phần mềm đăng ký hộ tịch cho 02 xã và 01 phòng tư pháp; Thanh tra
Bộ; Cục Bồi thường Nhà nước; Cục Công tác phía Nam, Cục Đăng ký quốc gia
giao dịch bảo đảm1.... cũng là một trong những đơn vị triển khai phong trào có
hiệu quả.
Sở Tư pháp Thái Bình đã cử 7 công chức trúng tuyển trong kỳ thi công
chức năm 2012, 2013 đi thực tế cơ sở, tham gia nhiệm vụ xây dựng nông thôn
mới; Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Phúc hỗ trợ máy in cho 02 xã; Sở Tư pháp Hà Nam

đã tặng 1 nhà tình nghĩa trị giá 70 triệu đồng cho gia đình chính sách, 1 xuất quà
5 triệu đồng cho gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; cán bộ, công chức của
Sở Tư pháp thành phố Đà Nẵng quyên góp 02 ngày lương để ủng hộ ngư dân
bám biển; Sở Tư pháp Phú Yên vận động CBCCVC đóng góp tiền hàng tháng
để giúp đở 07 hộ nghèo với số tiền 20 triệu đồng; Sở Tư pháp tỉnh Bình Thuận
nhận trợ cấp học bổng cho 05 em học sinh thuộc diện gia đình khó khăn học giỏi
ở 05 xã điểm với giá trị học bổng 300.000đ/tháng (trợ cấp cho đến khi học hết
cấp I); Sở Tư pháp Tây Ninh va Bình Phước đưa các nhiệm vụ này vào các tiêu
chí chấm điểm thi đua đối với Khối các Phòng Tư pháp cấp huyện; Sở Tư pháp
Phú Yên tổ chức phối hợp kiểm tra liên ngành theo dõi tình hình thi hành pháp
luật về lĩnh vực xây dựng nông thôn mới; nhiều Sở Tư pháp các tỉnh Khánh
Hòa, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Tp. Hồ Chí Minh, các tỉnh khu vực đồng bằng
sông Cửu Long… chọn từ 02-05 xã để giúp đỡ trong việc tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự; hỗ trợ tiền, giống, vật nuôi, cây
trồng; ủng hộ sách vở, vật dụng thiết yếu…
Các Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã lựa
chọn các xã thuộc các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa để chỉ đạo, giúp đỡ
trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS; hỗ trợ cơ sở
vật chất: Cục THADS tỉnh Sơn La tặng quà cho các hộ chính sách tại địa
phương, tặng con giống và trên 30 triệu đồng cho hộ nghèo; Cục THADS tỉnh
Tây Ninh tặng nhà Đại đoàn kết và quà trị giá trên 37 triệu đồng; Cục THADS
1

Báo cáo tổng kết phong trào thi đua của các Cụm thi đua năm 2014.

10


tỉnh Thái Bình hỗ trợ xây dựng nhà tình nghĩa và tặng quà trị giá trên 51 triệu
đồng; Cục THADS tỉnh Hậu Giang hỗ trợ xây dựng nhà tình nghĩa và tặng quà

cho hộ nghèo trị giá trên 36 triệu đồng; Cục THADS tỉnh Bạc Liêu hỗ trợ 04 gia
đình thương binh 48 triệu đồng, nhận đỡ đầu 17 hộ nghèo với số tiền hỗ trợ gần
35 triệu đồng; Cục THADS tỉnh Đồng Tháp ủng hộ 05 hộ nghèo với số tiền trên
25 triệu đồng; Cục THADS tỉnh Hà Giang đã vận động công chức đóng góp ủng
hộ số tiền 26.925.000đ và 42 ngày công để xây dựng cơ sở hạ tầng và giúp đỡ
các gia đình bị thiệt hại do thiên tai; cán bộ, công chức Cục THADS tỉnh Lạng
Sơn quyên góp ủng hộ 11.270.000đ hỗ trợ cho các hộ nghèo và học sinh có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn tại xã do đơn vị nhận giúp đỡ;… Một số Cục, Chi cục
THADS đã chủ động phối hợp với chính quyền địa phương đăng ký tham gia
giúp đỡ các xã xây dựng nông thôn mới; kết hợp, lồng ghép các hoạt động xây
dựng nông thôn mới với việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị
như: Xây dựng xã, địa bàn không có án tồn đọng; xây dựng tủ sách pháp luật,
hiến đất ngày công lao động xây dựng giao thông nông thôn; phối hợp với chính
quyền, các tổ chức đoàn thể tại địa phương tuyên truyền, vận động, giúp đỡ
những người được thi hành án, người phải thi hành án hoặc những người được
đặc xá, những người đã mãn hạn tù, là đối tượng đang phải THADS thực hiện
tốt nghĩa vụ công dân, sớm hoà nhập với cộng đồng, ổn định cuộc sống2.
3. Phong trào thi đua “Cán bộ Tư pháp tiếp tục đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
Căn cứ Kế hoạch thực hiện phong trào thi đua “Cán bộ Tư pháp tiếp tục
đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Bộ
phát động, các đơn vị trong Ngành đã xây dựng kế hoạch, phát động phong trào
thi đua sâu rộng trong cán bộ, công chức "Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh" bằng những việc làm thiết thực, tập trung nội dung học tập về
sự cần, kiệm, liêm, chính; nâng cao trách nhiệm, đạo đức trong thi hành công
vụ, giảm phiền hà cho nhân dân, thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với nhân dân, lồng ghép nội dung học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào Kế hoạch phát động thi đua
năm 2014, gắn với việc triển khai chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ,
công chức, viên chức ngành Tư pháp theo Quyết định số 2659/QĐ-BTP ngày

03/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Nhiều đơn vị đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh thành nội dung sinh hoạt thường xuyên của cơ quan, đơn vị, qua đó, tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng chính trị, ý thức tu dưỡng, rèn luyện về đạo
đức, lối sống, nâng cao trách nhiệm, cải tiến lề lối, tác phong làm việc theo
hướng chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả: Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật tổ
chức buổi sinh hoạt theo chuyên đề “Học tập và làm theo di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh” trong Khối tuyên truyền, báo chí, xuất bản của Đảng bộ Bộ Tư
2

Báo cáo tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2014 của ngành THADS, Báo cáo tổng kết phong
trào thi đua của các Khu vực thi đua năm 2014.

11


pháp; một số đơn vị phân công đảng viên sưu tầm mẫu chuyện và báo cáo chuyên đề
về tấm gương đạo đức của Bác trong sinh hoạt chi bộ định kỳ hàng tháng. Mỗi cán
bộ, công chức, đảng viên trên cương vị công tác của mình đều được đăng ký học
tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách làm việc của Bác
được thể hiện cụ thể trong hành động, việc làm hàng ngày về phong cách quần
chúng, dân chủ, nêu gương, nêu cao trách nhiệm, gương mẫu, thực hiện cần,
kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, gần dân, hiểu dân, giúp dân, phục vụ nhân
dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, có đời tư trong sáng, cuộc
sống riêng giản dị, nêu cao tính kỷ luật, ý thức trách nhiệm trong công việc...
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và theo chuyên đề
học tập năm 2014 về “nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi
đôi với làm”, các Sở Tư pháp đã có hoạt động ý nghĩa để triển khai phong trào thi đua:
Sở Tư pháp tỉnh Ninh Thuận đã phát động cho đảng viên và quần chúng đăng ký

làm theo Bác với chủ đề “Làm việc với phương châm 04 có: có kế hoạch, có
khoa học, có sáng tạo và có hiệu quả”; Sở Tư pháp tỉnh Tây Ninh thực hành tiết
kiệm chi tiêu cá nhân đóng góp vào Quỹ tình thương để xây dựng nhà Đại đoàn
kết cho hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn; Sở Tư pháp thành phố Cần Thơ phát
động cuộc thi “Ngành Tư pháp đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đô thị và chung sức góp phần
xây dựng nông thôn mới”; Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Long phát động Hội thi báo công
dâng Bác; Sở Tư pháp tỉnh Cà Mau tổ chức Hội thi tìm hiểu Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh...
Các cơ quan Thi hành án dân sự đã tổ chức cho các tập thể đăng ký làm
theo với các nội dung như: xây dựng môi trường công khai, minh bạch, dân chủ,
đoàn kết trong đơn vị; thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu
nại đúng thời gian quy định của pháp luật; đơn vị không có cán bộ, công chức,
người lao động vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ cương, kỷ luật hành chính công
vụ; một số Cục Thi hành án dân sự tổ chức tuyên truyền, quán triệt, tọa đàm,
mời các chuyên gia nói chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ,
công chức, đảng viên nghe, liên hệ và rút ra bài học cho bản thân để thực hiện
tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tiêu biểu là Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi, Đồng Tháp, Yên Bái, Lào Cai, Ninh
Thuận, Gia Lai, Tây Ninh, Bạc Liêu, Tp. Hà Nội...
Qua phong trào ”Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
gắn với việc triển khai chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức,
viên chức ngành Tư pháp, kỷ luật, kỷ cương công vụ trong toàn Ngành được
nâng cao; cải tiến lề lối, tác phong làm việc theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại,
hiệu quả. Toàn ngành Tư pháp đã nghiêm túc triển khai thực hiện Chỉ thị số
02/CT-BTP ngày 25/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc cán bộ, công
chức, viên chức ngành Tư pháp không uống rượu, bia trong ngày làm việc và
Chỉ thị số 03/CT-BTP ngày 24/9/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về tăng cường
12



công tác quản lý công chức, viên chức của Bộ Tư pháp được dư luận xã hội
đồng tình, đánh giá cao.
III. KIỂM TRA CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
Công tác kiểm tra, giám sát, nắm tình hình thi đua, khen thưởng tiếp tục
được thực hiện gắn với việc kiểm tra thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của các
đơn vị để giải quyết các khó khăn, vướng mắc, nhất là đối với những nhiệm vụ
mới, đột xuất và tạo sự thống nhất trong chỉ đạo công tác tư pháp năm 2014.
Thực hiện Quyết định số 872/QĐ-BTP ngày 17/4/2014 của Bộ trưởng Bộ
tư pháp về việc ban hành Kế hoạch hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc
tổ chức các phong trào thi đua năm và công tác khen, trong tháng 7/2014, Vụ
Thi đua – Khen thưởng đã phối hợp với các đơn vị liên quan như Tổng cục Thi
hành án dân sự, Văn phòng Bộ,... tổ chức 02 Đoàn kiểm tra tại Sở Tư pháp, Cục
THADS của 04 tỉnh, thành phố (Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Ninh, Hải Phòng)
nhằm phát hiện những cách làm hay, những điển hình tiên tiến, gương người tốt,
việc tốt và kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của các địa
phương trong công tác thi đua, khen thưởng.
Bên cạnh đó, các Cụm, Khu vực thi đua đều xây dựng kế hoạch và thực
hiện các đợt kiểm tra chéo đối với từng đơn vị, làm cơ sở cho việc lựa chọn,
đánh giá, ghi nhận thành tích làm cơ sở cho việc suy tôn các danh hiệu thi đua ở
Cụm, Khu vực được khách quan, sát với thực tế. Thông qua kiểm tra chéo, các
Cụm, Khu vực thi đua đã phối hợp, trao đổi và định hướng việc tổ chức phong
trào thi đua, phát hiện, bồi dưỡng và nhân điển hình tiên tiến, những cách làm
hay, mô hình mới, gương người tốt, việc tốt ở các đơn vị, địa phương; nắm tình
hình tổ chức triển khai công tác, phong trào thi đua của cơ quan, đơn vị, động
viên kịp thời sự cố gắng, nỗ lực cũng như phát hiện những thiếu sót tồn tại để
giúp các cơ quan, đơn vị sớm khắc phục và làm tốt hơn nhiệm vụ công tác thi
đua, khen thưởng.
III. XÂY DỰNG, BỒI DƯỠNG, NHÂN RỘNG GƯƠNG ĐIỂN HÌNH
TIÊN TIẾN

Năm 2014, công tác xây dựng, phát hiện, bồi dưỡng, biểu dương, nhân rộng
các gương điển hình tiên tiến đã được Bộ, các Cụm, Khu vực thi đua và từng cơ
quan, đơn vị trong Ngành chú trọng thực hiện.
Nhằm thống nhất thực hiện về xây dựng và bình xét những tập thể, cá nhân
thực sự tiêu biểu xuất sắc để biểu dương tại Hội nghị điển hình tiên tiến và Đại
hội Thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ IV trong toàn Ngành, trên tinh thần
văn bản hướng dẫn của Bộ Tư pháp, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Ngành đã
tham mưu, giúp Bộ trưởng chỉ đạo các đơn vị trong Ngành phối hợp với các cơ
quan thông tin đại chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến gương điển
hình tiên tiến, người tốt, việc tốt. Năm đầu tiên Trang thông tin Thi đua, khen
thưởng của Ngành chính thức đi vào hoạt động đã phần nào kịp thời đưa tin, phổ
13


biến, tuyên truyền, cập nhật, phản ánh kết quả phong trào thi đua của các Cụm,
Khu vực thi đua, các cơ quan, đơn vị; cá nhân có thành tích tiêu biểu, nổi bật.
Việc xây dựng và bình xét điển hình tiên tiến (2010–2015) là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác thi đua, khen thưởng những tháng cuối
năm 2014 và năm 2015, do vậy, các Cụm, Khu vực thi đua và từng cơ quan, đơn
vị đã đưa nội dung xây dựng điển hình tiên tiến là một trong những nhiệm vụ ưu
tiên trong kế hoạch triển khai phong trào thi đua của đơn vị. Tập trung đẩy mạnh
hoạt động tuyên truyền, phổ biến, nhân rộng các gương điển hình tiên tiến trên
các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương, đồng thời, đưa nội dung
này vào các chuyên trang, chuyên mục của các Bản tin tư pháp. Tại Hội nghị
tổng kết phong trào thi đua, các Cụm, Khu vực đã bình xét, suy tôn, giới thiệu
được nhiều tấm gương điển hình tiêu biểu, gương người tốt việc tốt, để nêu
gương học tập, nhân rộng, đồng thời ghi nhận, tôn vinh thành tích, công lao
đóng góp và đề nghị khen thưởng.
Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Ngành đã chú trọng việc phát hiện, đề
xuất khen thưởng các tập thể, cá nhân điển hình, qua đó tôn vinh các tập thể, cá

nhân có cách nghĩ, cách làm hay, sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực, có những
đóng góp to lớn đối với sự phát triển của Ngành. Trên cơ sở đề nghị của các
Cụm, Khu vực thi đua và phát hiện đề xuất của các thành viên, Hội đồng đã xét
trình Bộ trưởng trình Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc cho 05 đơn vị: Vụ Tổ
chức cán bộ, Báo Pháp luật Việt Nam, Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Bình Định và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định; Chiến
sỹ thi đua toàn quốc cho 02 cá nhân, đây là những tập thể, cá nhân tiêu biểu,
điển hình cho phong trào thi đua của ngành Tư pháp năm 2014. Đặc biệt, Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định đã có 02 năm liên tục được xét trình Chính
phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc.
V. CÔNG TÁC KHEN THƯỞNG
Năm 2014, cùng với việc đẩy mạnh các phong trào thi đua, công tác khen
thưởng cũng đã được chú trọng triển khai thực hiện, kịp thời động viên, tôn vinh
các tập thể cá nhân có thành tích xuất sắc, góp phần tạo nên khí thế hào hứng,
phấn khởi, cổ vũ tinh thần của cán bộ, công chức, tạo động lực thực hiện tốt
nhiệm vụ công tác của Ngành.
Công tác xét khen thưởng dần đi vào thực chất hơn, từ khâu đề xuất, lựa
chọn khen thưởng gắn với kết quả thực hiện kế hoạch công tác đầu năm và
nhiệm vụ chuyên môn được giao, trên cơ sở kết quả chấm điểm, xếp hạng.
Việc thẩm định hồ sơ đề nghị công nhận các danh hiệu thi đua, hình thức
khen thưởng cấp nhà nước và của Ngành đều đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn
quy định của Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thực hiện,
đảm bảo khen thưởng đúng người, đúng việc, đúng thành tích, kịp thời tôn vinh
gương điển hình, gương người tốt việc tốt và những tập thể, cá nhân có nhiều
thành tích đóng góp tích cực cho phong trào thi đua yêu nước, tạo niềm tin và
14


trách nhiệm trong mỗi tập thể, cá nhân xứng đáng với những danh hiệu đã đạt
được. Trong năm, Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Ngành đã xét, trình Bộ

trưởng trình cấp có thẩm quyền tặng các danh hiệu thi đua và hình thức khen
thưởng cho tập thể, cá nhân trong Ngành, kết quả như sau:
- Chủ tịch nước đã tặng Huân chương Lao động cho 20 trường hợp. Trong
đó, tặng Huân chương Độc lập hạng nhì cho 01 tập thể, Huân chương Lao động
hạng nhì cho 12 tập thể và 05 cá nhân, Huân chương Lao động hạng ba cho 02
cá nhân.
- Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen cho 110 trường hợp: 36 tập thể và
74 cá nhân.
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp tặng Cờ thi đua Ngành cho 68 tập thể; tặng danh
hiệu Chiến sỹ thi đua Ngành cho 61 cá nhân; công nhận danh hiệu Tập thể Lao
động xuất sắc cho 259 tập thể; tặng Bằng khen cho 117 tập thể, 359 cá nhân;
tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tư pháp” cho 1.151 cá nhân.
Năm 2014, công tác khen thưởng đột xuất, khen thưởng theo chuyên đề
tiếp tục được chú trọng, phát hiện kịp thời các tập thể, cá nhân điển hình để khen
thưởng, Bộ trưởng đã tặng Bằng khen theo chuyên đề cho 525 trường hợp, gồm
189 tập thể và 336 cá nhân. Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã tặng Bằng khen cho 03
tập thể, tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tư pháp” cho 01 cá nhân là người
nước ngoài.
VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Ưu điểm
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức, khối lượng công việc
nhiều, yêu cầu về chất lượng, tiến độ ngày càng cao, trong khi đội ngũ cán bộ
công chức nhìn chung còn thiếu, một bộ phận còn yếu về năng lực chuyên môn,
kinh phí, điều kiện, phương tiện làm việc hạn hẹp, nhưng các tập thể, cá nhân
trong toàn Ngành đã chủ động, tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua tạo
động lực mạnh mẽ động viên từng cá nhân, đơn vị phát huy truyền thống, đoàn
kết, chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ.
Công tác thi đua tiếp tục nhận được sự quan tâm của Ban cán sự Đảng,
Lãnh đạo Bộ Tư pháp, lãnh đạo các đơn vị nên các phong trào thi đua đã được

kế hoạch hóa và triển khai tương đối kịp thời, tiếp tục có nhiều khởi sắc, chất
lượng và bước đầu đi vào chiều sâu; nội dung thi đua đã được đổi mới, bám sát
việc triển khai 9 nhiệm vụ trọng tâm công tác, góp phần thúc đẩy phong trào thi
đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị nói riêng và của
Ngành nói chung, đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chủ động hội nhập quốc tế và khu vực.
15


Phong trào thi đua có nhiều đổi mới, phong phú về hình thức, sâu sắc về
nội dung, đặc biệt là 02 phong trào thi đua theo chuyên đề “Ngành Tư pháp
chung sức góp phần xây dựng nông thôn mới” và phong trào thi đua “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” bước đầu đã được các đơn vị
triển khai thực hiện đầy đủ, có bài bản và đạt được nhiều kết quả khả quan, tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng chính trị, ý thức tu dưỡng, rèn luyện về
đạo đức, lối sống, nâng cao tinh thần trách nhiệm của công chức, viên chức với
nhiệm vụ được giao; đóng góp về vật chất thiết thực khác bên cạnh việc thực
hiện tốt công tác chuyên môn, góp phần xây dựng nông thôn mới. Phong trào thi
đua ““Toàn Ngành Tư pháp đồng thuận, vượt khó, thi đua hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ chính trị được giao” đã được các cơ quan, đơn vị toàn Ngành
triển khai thực hiện nghiêm túc, đều lựa chọn những nhiệm vụ trọng tâm để chỉ
đạo thi đua. Phong trào thi đua đã được đông đảo cán bộ, công chức nhiệt tình,
hưởng ứng, kết quả nhiều lĩnh vực công tác đã có bước chuyển biến quan trọng,
tạo đà cho việc hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ công tác của năm 2014.
Có thể nhận thấy qua các phong trào thi đua nhiều vấn đề trọng tâm, bức
xúc được giải quyết; nhiều mô hình sáng kiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác được đưa vào áp dụng trong thực tiễn; nhiều tập thể và cá nhân có
thành tích đã được các cấp khen thưởng kịp thời, nhiều điển hình tiên tiến được
suy tôn, nêu gương; một số nhân tố mới được phát hiện, xây dựng từ những

phong trào thi đua và được nhân rộng tạo sự lan tỏa, và mang lại hiệu quả thiết
thực. Một số lĩnh vực có chuyển biến căn bản như công tác xây dựng pháp luật,
theo dõi thi hành pháp luật, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật,
phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư
pháp; kiểm soát thủ tục hành chính; công tác đào tạo nguồn nhân lực pháp luật
… được triển khai có hiệu quả, được Chính phủ, các bộ, ngành, Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố đánh giá cao, khẳng định được vị thế của Ngành trong
đời sống xã hội.
Công tác khen thưởng được duy trì thường xuyên, có nề nếp; thực hiện kịp
thời, phục vụ nhiệm vụ chính trị; các văn bản hướng dẫn công tác thi đua, khen
thưởng được phổ biến, quán triệt kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc khen
thưởng đảm bảo chất lượng và hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu phục vụ tốt
nhiệm vụ chính trị; quy trình xét khen thưởng được thực hiện công khai, dân
chủ, chặt chẽ, theo đúng quy định của pháp luật.
Năm 2014, thể chế về công tác thi đua, khen thưởng tiếp tục được sửa đổi,
bổ sung hoàn thiện; việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản
chỉ đạo, hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng được thực hiện kịp thời; nhận
thức của thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cấp uỷ, tổ chức Đảng, của cán bộ, công
chức, viên chức và người lao động trong Ngành về vị trí, vai trò, tác dụng của
công tác thi đua, khen thưởng từng bước được cải thiện.
2. Những tồn tại, hạn chế
16


Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thi đua, khen thưởng năm
2014 còn những hạn chế cần khắc phục, đó là:
- Phong trào thi đua tuy có chuyển biến tích cực nhưng chưa thật sự đồng
đều ở các cơ quan, đơn vị, Cụm, Khu vực thi đua. Nhiều đơn vị chưa chú trọng
đến công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong tổ chức
các phong trào thi đua, chưa đầu tư đúng mức cho phong trào thi đua; chưa tạo

được sự phối hợp, liên kết của các cơ quan, đơn vị và cơ quan chức năng có liên
quan, từ đó hạn chế tính động lực và hiệu quả của phong trào thi đua. Các biện
pháp để thúc đẩy phong trào còn nặng về mệnh lệnh, thiếu tính thuyết phục,
phong trào thi đua theo đợt, theo chuyên đề còn ít. Tính bài bản của một số
phong trào thi đua chưa cao, việc tổng kết, khen thưởng chưa kịp thời, việc phát
động phong trào thi đua ở một số nơi còn mang tính hình thức nên chưa có chiều
sâu, chưa tính đến hiệu quả phong trào hướng tới.
- Việc đăng ký thi đua và bình xét đề nghị các danh hiệu còn biểu hiện tính
hình thức, máy móc, quy trình xét khen thưởng và tổ chức trao thưởng còn chậm
nên chưa kịp thời khuyến khích, động viên phong trào thi đua, làm giảm đi sự
phấn khởi của các tập thể, cá nhân.
- Việc chấm điểm, đánh giá, xếp hạng thi đua của Ngành còn thiếu yếu tố
định lượng, chưa bao quát; trong khi đó, do chưa có quy chế chấm điểm, xếp
hạng, dẫn tới việc đánh giá, xếp hạng còn tốn nhiều thời gian, công sức, thiếu
nhất quán.
- Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến chưa đáp
ứng được yêu cầu theo tinh thần Chỉ thị 39-CT/TW, Chỉ thị số 34-CT/TW của
Bộ Chính trị; nhiều đơn vị chưa quan tâm, chưa có kế hoạch bồi dưỡng, chăm
lo, xây dựng điển hình và còn lúng túng trong triển khai, nhân rộng. Công tác
tuyên truyền các gương điển hình tiên tiến, gương người tốt việc tốt chưa làm
được thường xuyên; hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng chưa dành
thời lượng tương xứng; các biện pháp tuyên truyền về các điển hình tiên tiến còn
sơ sài, thiếu tích cực và đồng bộ.
- Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa kết quả khen thưởng với việc thực hiện
công tác đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ
- Hoạt động của các Cụm, Khu vực thi đua, Hội đồng Thi đua – Khen
thưởng các cấp tuy đã có bước đổi mới về nội dung, tiêu chí hoạt động, song còn
hạn chế trong phương thức hoạt động và trong phối hợp, tổ chức thực hiện; đánh
giá, suy tôn đề nghị khen thưởng các danh hiệu cao còn có hiện tượng cảm tính,

nể nang, nhường nhịn, dẫn tới có đơn vị được suy tôn, đề nghị chưa tiêu biểu,
chưa thực sự phát huy tác dụng là tấm gương để các đơn vị khác học tập, noi
theo.

17


- Việc xét và đề nghị khen thưởng một số trường hợp chưa chủ động, kịp
thời, chưa thực chất, chưa linh hoạt, đặc biệt đề xuất khen thưởng theo chuyên
đề còn dàn trải. Tại một số đơn vị, địa phương quy trình xét khen thưởng còn
thiếu chặt chẽ, chưa cân đối tỷ lệ giữa tập thể và cá nhân, giữa lãnh đạo và công
chức chuyên môn, nghiệp vụ (tỷ lệ khen đối với cán bộ, công chức, viên chức
chuyên môn nghiệp vụ và người lao động trực tiếp còn thấp). Bên cạnh đó, còn
nhiều đơn vị, địa phương có hiện tượng khen thưởng tràn lan, chưa thực chất,
chưa huy động được sự nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao của
từng tập thể, cá nhân.
- Việc trích lập, quản lý, sử dụng Quỹ thi đua, khen thưởng còn lúng túng,
còn gặp nhiều khó khăn, nội dung, mức chi cụ thể cho việc tổ chức, chỉ đạo
phong trào thi đua chưa được quy định cụ thể, ảnh hưởng không nhỏ đến phạm
vi, nội dung, chất lượng của các phong trào thi đua.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
- Tuy nhận thức về vai trò, tác dụng của phong trào thi đua và công tác
khen thưởng đã được nâng lên, nhưng một số cơ quan, đơn vị trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo chưa phát huy được sức mạnh các tổ chức, đoàn thể của đơn vị
trong thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Một số nơi, Thủ trưởng đơn vị
còn chưa thường xuyên quan tâm tổ chức, chỉ đạo phong trào thi đua, chưa thực
sự coi công tác thi đua là động lực để thúc đẩy, động viên khuyến khích từng cán
bộ, công chức phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
- Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng ở các
cơ quan, đơn vị chưa ổn định, thiếu tính chuyên nghiệp, phải kiêm nhiệm nhiều

việc, không được tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên, nên
chưa chủ động làm tốt việc tham mưu về công tác thi đua, khen thưởng cho thủ
trưởng cơ quan, đơn vị.
- Công tác kiểm tra, thanh tra, theo dõi, hưỡng dẫn chấp hành các quy định
của pháp luật về thi đua, khen thưởng còn chưa thường xuyên, liên tục và hiệu
quả cũng chưa cao.
- Việc phát hiện, xây dựng, bồi dưỡng và nhân rộng các nhân tố mới, gương
người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến chưa được quan tâm đúng mức nên
chưa xây dựng được những điển hình thật sự tiêu biểu xuất sắc để nuôi dưỡng,
biểu dương, nhân rộng và tôn vinh ở các hình thức cao hơn. Việc trao tặng các
hình thức khen thưởng ở một số đơn vị tổ chức chưa trang trọng, vì vậy các tập
thể, cá nhân được khen thưởng chưa thấy hết vinh dự và trách nhiệm để tiếp tục
phát huy và quyết tâm phấn đấu, tạo sự lan tỏa trong cơ quan, đơn vị.
- Vai trò của Vụ Thi đua - Khen thưởng trong việc tham mưu, chỉ đạo, đôn
đốc, kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện các phong trào thi đua đối với các đơn
vị còn chưa chủ động, tích cực.
18


- Chế độ thông tin, báo cáo còn thiếu cụ thể, báo cáo thi đua của các đơn vị,
địa phương gửi về Bộ còn chung chung, không đầy đủ, không đúng thời hạn quy
định, dẫn đến một số trường hợp đánh giá kết quả thực hiện phong trào thi đua
cũng như thành tích của các tập thể, cá nhân chưa chủ động, chưa sâu sát và kịp
thời.
- Hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác thi đua, khen thưởng
của Ngành mặc dù đã được quan tâm xây dựng nhưng vẫn còn chưa hoàn thiện,
nhất là những tiêu chí chấm điểm, đánh giá xếp hạng các đơn vị thuộc Bộ.
4. Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn tổ chức phong trào thi đua và thực hiện công tác thi đua, khen
thưởng năm 2014, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

- Công tác thi đua, khen thưởng phải được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo
thường xuyên và sâu sát của các cấp ủy, tổ chức Đảng, thủ trưởng các cơ quan,
đơn vị, nhất là phát huy vai trò của tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên và các
đoàn thể chính trị - xã hội trong việc vận động, thuyết phục, phát huy tính tự
giác của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các phong trào thi
đua, yêu nước, tạo sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị tham gia các
phong trào thi đua. Thực tế cho thấy những nơi cấp uỷ, tổ chức Đảng và thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị quan tâm thì ở nơi đó phong trào thi đua phát triển,
công tác khen thưởng được thực hiện nghiêm túc, thiết thực, hiệu quả và ngược
lại.
- Nội dung, biện pháp tổ chức phong trào thi đua phải thường xuyên đổi
mới, thiết thực, bám sát các nhiệm vụ chính trị được giao và được cụ thể hóa
thành các chỉ tiêu, đề ra các giải pháp thực sự hiệu quả để tổ chức triển khai thực
hiện, lấy công việc hằng ngày làm nền tảng, có như vậy mới thu hút được cán
bộ, công chức, viên chức, người lao động tham gia phong trào thi đua. Bên cạnh
những phong trào thi đua thường xuyên, cần có những phong trào thi đua theo
chuyên đề, thi đua theo đợt, với phạm vi, đối tượng cụ thể để tạo ra phong trào
rộng khắp, toàn diện cả về bề rộng và chiều sâu.
- Trong công tác thi đua, khen thưởng luôn coi trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục với nhiều nội dung và hình thức phong phú, đa dạng, thiết thực; đánh
giá đúng kết quả đạt được, tìm ra được những hạn chế tồn tại để khắc phục;
đồng thời, phải gắn với biểu dương, khen thưởng kịp thời những nhân tố mới
tích cực, tiêu biểu trong phong trào thi đua thì công tác thi đua, khen thưởng mới
có tác dụng lôi cuốn và có sức lan tỏa.
Gắn chặt việc tuyên truyền với nêu gương, giao lưu, trao đổi, học tập, nhân
điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân trong các lĩnh vực của đời sống. Việc tôn
vinh thành tích phải được coi trọng, hình thức tổ chức trao tặng phải trang trọng,
thiết thực, gắn kết quả công tác khen thưởng với công tác quản lý, đánh giá và sử
dụng cán bộ.
19



- Cần hết sức quan tâm củng cố, kiện toàn, ổn định bộ máy và đội ngũ cán
bộ làm công tác thi đua, khen thưởng; thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ này. Đây là yếu tố rất quan trọng, quyết
định chất lượng công tác tham mưu và kết quả triển khai tổ chức thực hiện các
phong trào thi đua và công tác khen thưởng.
- Thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết phong trào thi
đua, công tác khen thưởng, phát hiện nhân tố mới, cách làm hay để rút kinh
nghiệm và nhân rộng. Thực hiện công khai, dân chủ trong bình xét thi đua, tạo
mối quan hệ biện chứng giữa thi đua và khen thưởng, để thi đua thực sự là động
lực to lớn của cách mạng, là cơ sở để thực hiện công tác khen thưởng.
Phần thứ II
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG NĂM 2015
Năm 2015 là năm có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thành các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015), đồng thời cũng là năm diễn ra
nhiều sự kiện quan trọng của đất nước: Kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2015), 40 năm ngày giải phóng hoàn toàn
miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2015), 125 ngày sinh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2015), 70 năm cách mạng tháng Tám
(19/8/1945-19/8/2015) và Quốc khánh (02/9/1945-02/9/2015); chào mừng Đại
hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; Đại hội thi đua yêu
nước toàn quốc lần thứ IX; Kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp
(28/8/1945 – 28/8/2015), Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ IV. Để
phát huy truyền thống vẻ vang của ngành Tư pháp, tạo khí thế thi đua sôi nổi, nêu
cao ý chí quyết tâm hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu, nhiệm vụ công tác tư pháp
được giao, góp phần thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Quốc hội về Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Nghị quyết của Chính phủ về chỉ đạo, điều hành
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước

năm 2015, lập thành tích chào mừng những sự kiện quan trọng của đất nước và
của Ngành, ngành Tư pháp phát động phong trào thi đua trong toàn Ngành với
chủ đề “Đoàn kết, sáng tạo, kỷ cương, trách nhiệm, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ chính trị năm 2015, lập thành tích chào mừng kỷ niệm 70 năm
ngày truyền thống ngành Tư pháp (28/8/1945 – 28/8/2015) và Đại hội thi đua
yêu nước ngành Tư pháp lần thứ IV”.
I. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của
Đảng, trọng tâm là triển khai thực hiện Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014
của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, Chỉ thị số
35/CT-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh phong
trào thi đua yêu nước chào mừng Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng
20


toàn quốc lần thứ XII, Đại hội thi đua yêu nước lần thứ IX và các ngày lễ lớn
trong năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen
thưởng năm 2013 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, nhằm
nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và người đứng đầu các đơn vị trong
toàn Ngành về vai trò, tác dụng của phong trào thi đua yêu nước và công tác
khen thưởng trong giai đoạn hiện nay.
2. Hoàn thiện các văn bản QPPL, chính sách về công tác thi đua, khen
thưởng của Ngành. Tiếp tục hoàn thiện, triển khai thực hiện hiệu quả Đề án “Đổi
mới và nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng ngành Tư pháp” khi Đề
án được phê duyệt.
3. Triển khai thực hiện thiết thực, hiệu quả phong trào thi đua “Phát huy
truyền thống đoàn kết, sáng tạo, kỷ cương, trách nhiệm, thi đua lập thành
tích xuất sắc chào mừng kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp
Việt Nam (28/8/1945 – 28/8/2015) và Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư
pháp lần thứ IV”. Triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao theo Quyết

định số 394/QĐ-BTP ngày 19/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về tổ chức
các hoạt động hướng tới tổ chức kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống ngành Tư
pháp (28/8/1945 – 28/8/2015) và Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần
thứ IV. Gắn kết với các phong trào thi đua năm 2015 và phong trào “Ngành Tư
pháp chung sức góp phần xây dựng nông thôn mới”, “Cán bộ Tư pháp tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
nhằm tạo động lực thúc đẩy toàn Ngành thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác
trọng tâm năm 2015 của Ngành, cụ thể:
3.1. Tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả Kế hoạch của Chính phủ về triển
khai thi hành Hiến pháp, trong đó cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến
Hiến pháp, tổ chức thành công cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; tiếp tục rà soát hệ thống pháp luật để kịp thời đề
xuất sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới cho phù hợp với Hiến pháp; tập
trung xây dựng và hoàn thiện các dự án luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến
pháp đã được xác định trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015,
nhất là các dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Luật Tổ chức chính quyền địa
phương, Luật Ban hành văn bản pháp luật, Bộ luật Hình sự (sửa đổi), bảo đảm chất
lượng, tiến độ; tổ chức tốt việc lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Bộ luật Dân
sự (sửa đổi) theo Kế hoạch của Chính phủ.
3.2. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật nói chung, nhất là các thông tư, trong đó chú trọng tới tính dự báo
của các chính sách, đảm bảo tính khả thi trong việc ban hành văn bản, để các quy
định của pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, thiết lập được môi trường pháp lý
bình đẳng, trong sạch, tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp; kiểm tra,
đôn đốc, giám sát việc xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật,
pháp lệnh; tăng cường công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật gắn với kiểm
21


tra văn bản quy phạm pháp luật và KSTTHC, trong đó tập trung vào lĩnh vực

chống buôn lậu, gian lận thương mại, làm hàng giả, kinh doanh trái phép.
3.3. Triển khai thi hành kịp thời, có hiệu quả các luật có hiệu lực trong năm
2015, đặc biệt là các luật liên quan đến quyền con người, quyền công dân như:
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình
(sửa đổi), Luật Công chứng (sửa đổi), Luật Hộ tịch, Luật Căn cước công dân, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự...
3.4. Tập trung triển khai Kế hoạch đơn giản hóa TTHC trọng tâm năm
2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 08/QĐ-TTg
ngày 06/01/2015) và các nội dung theo chỉ đạo, điều hành của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ trong năm 2014 liên quan đến TTHC trong các lĩnh vực
thuế, hải quan, đầu tư, đất đai, xây dựng, tiếp cận điện năng, an sinh x ã hội...
Đẩy mạnh cải cách TTHC trong các lĩnh vực quản lý nhà n ước của Bộ Tư
pháp, đặc biệt các TTHC liên quan trực tiếp đến người dân như: lý lịch tư
pháp, công chứng, luật sư, giao dịch bảo đảm… để tiếp tục tạo thuận lợi cho
người dân và môi trường thông thoáng cho phát triển sản xuất kinh doanh.
3.5. Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả quy định của Luật Xử lý vi phạm
hành chính; kịp thời rà soát, sửa đổi, bổ sung, tiếp tục hoàn thiện các quy định
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính,
trong đó có biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc theo hướng rút ngắn thời hạn, đơn giản thủ tục lập hồ sơ; tập
trung theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện thống nhất, đồng bộ các quy định
của pháp luật liên quan đến các biện pháp xử lý hành chính.
3.6. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Quốc hội liên quan
đến công tác THADS, phấn đấu đạt hoặc vượt các chỉ tiêu do Quốc hội giao; khắc
phục những tồn tại đối với công tác phân loại án, công tác thống kê THADS; tăng
cường kỷ cương, kỷ luật công vụ, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những trường
hợp cán bộ, công chức vi phạm pháp luật, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến
tham nhũng; giải quyết đúng thời hạn các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân.
Triển khai quyết liệt việc thí điểm chế định Thừa phát lại tại 13 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, bảo đảm thực hiện thí điểm thành công; chủ động đề

xuất, ban hành các quy định hướng dẫn bảo đảm không để gián đoạn hoạt động
Thừa phát lại khi kết thúc thời gian thí điểm theo Nghị quyết số 36/2012/QH13
của Quốc hội; nghiên cứu đề xuất việc xây dựng Luật Thừa phát lại.
3.7. Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực hộ tịch,
chứng thực, lý lịch tư pháp. Xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử phục vụ cho
việc hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác đăng ký, thống kê hộ tịch; triển
khai thực thiện tốt Nghị định về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch và Chỉ thị số 17/CTTTg của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp chấn chỉnh tình trạng lạm
dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện
22


thủ tục hành chính; tăng cường công tác phối hợp trong cấp phiếu lý lịch tư pháp
và triển khai Đề án cấp phiếu lý lịch tư pháp qua mạng và qua dịch vụ bưu chính.
3.8. Đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực hoạt động tư pháp, đặc biệt là việc
cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, theo chủ trương của Đảng;
tiếp tục hoàn thiện thể chế, kịp thời tháo gỡ khó khăn trong các lĩnh vực công
chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm, góp phần tạo điều
kiện thuận lợi cho xử lý nợ xấu; tiếp tục phối hợp với Liên đoàn Luật sư Việt
Nam tổ chức thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ hai; triển
khai thực hiện có hiệu quả Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý sau khi được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
3.9. Nâng cao vai trò, hiệu quả tham gia của ngành Tư pháp liên quan tới
việc xử lý các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế, đàm phán,
ký kết và thực hiện điều ước quốc tế; thực hiện mục tiêu thành lập Cộng đồng
ASEAN năm 2015; đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia trong các
tranh chấp bằng các biện pháp phù hợp và tuân thủ pháp luật quốc tế.
3.10. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ có hiệu quả hoạt
động chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp, pháp chế, THADS và cung cấp dịch
vụ công nhanh gọn, thuận tiện cho người dân.

4. Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phát hiện, biểu dương, tôn vinh và nhân
rộng nhân tố mới, những điển hình tiên tiến, gương “Người tốt, việc tốt” bằng
nhiều hình thức, đặc biệt là trên “Trang thông tin Thi đua, khen thưởng ngành
Tư pháp” và các báo, tạp chí của Ngành, Bản tin Tư pháp các địa phương; quan
tâm, tạo điều kiện để các điển hình tiên tiến được tuyên truyền, nêu gương, lan
tỏa trong đơn vị, toàn Ngành và cộng đồng. Xây dựng chương trình, kế hoạch
phát hiện, bồi dưỡng các nhân tố mới, điển hình mới, những tấm gương có thành
tích xuất sắc trong các phong trào thi đua trên từng lĩnh vực công tác tư pháp, để
làm nòng cốt đẩy mạnh phong trào thi đua của toàn Ngành, đảm bảo đồng bộ ở
cả 04 khâu: Phát hiện - Bồi dưỡng - Tổng kết - Nhân điển hình tiên tiến.
5. Tổ chức Hội nghị điển hình tiên tiến các cấp, tiến tới Đại hội thi đua yêu
nước ngành Tư pháp lần thứ IV nhằm biểu dương, tôn vinh các tập thể, cá nhân
tiêu biểu, đạt nhiều thành tích trong 5 năm qua (2011-2015) và phát động các
phong trào thi đua yêu nước của Ngành giai đoạn 2016-2020.
6. Tổ chức tổng kết giai đoạn 1 (2012-2015) phong trào “Ngành Tư pháp
chung sức góp phần xây dựng nông thôn mới” và tổng kết phong trào “Cán
bộ Tư pháp tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” (2012-2015), đánh giá việc tổ chức thực hiện phong trào thi đua
này trong toàn Ngành, xét khen thưởng theo thẩm quyền và xét, đề nghị cấp có
thẩm quyền khen thưởng theo quy định.
7. Nâng cao chất lượng công tác khen thưởng đảm bảo chính xác, công
khai, minh bạch và kịp thời, tăng cường khen thưởng cho các đối tượng là người
23


lao động trực tiếp, các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, đột xuất... Phát
huy vai trò của các đơn vị, các tổ chức đoàn thể, các kênh thông tin và Hội đồng
Thi đua - Khen thưởng trong việc phát hiện các điển hình để đề xuất việc khen
thưởng.
II. GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Ngay từ những tháng đầu năm, các cơ quan, đơn vị, cấp uỷ, tổ chức
Đảng tiếp tục phổ biến, quán triệt nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức,
viên chức và người lao động về vị trí, vai trò, tác dụng to lớn của công tác thi
đua, khen thưởng, về các chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và pháp luật
của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng; tập trung đẩy mạnh thực hiện
các phong trào thi đua do Bộ phát động, bám sát các nhiệm vụ chính trị được
giao trong chương trình, kế hoạch công tác của đơn vị đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt thông qua các chỉ tiêu cụ thể, các giải pháp thực sự hiệu quả để
tổ chức triển khai thực hiện.
2. Phát huy vai trò định hướng chỉ đạo của Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị,
của cấp uỷ, tổ chức Đảng, sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức chính trị - xã hội
ở từng cơ quan, đơn vị trong tổ chức phong trào thi đua, tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ trong phong trào thi đua, phấn đấu 100% cơ quan, đơn vị, cán bộ, công
chức, viên chức và người lao động hoàn thành và hoàn thành xuất sắc về số
lượng, tiến độ và chất lượng các nhiệm vụ, chỉ tiêu được giao, đặc biệt là các
nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2015.
3. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Vụ Thi
đua – Khen thưởng tiếp tục tham mưu, đề xuất xây dựng, sửa đổi, bổ sung các
văn bản hướng dẫn của Bộ ban hành cho phù hợp các quy định của Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng, các văn bản hướng dẫn thi
hành và điều kiện thực tiễn, nhằm giải quyết, tháo gỡ kịp thời những khó khăn,
vướng mắc về thi đua, khen thưởng trong ngành Tư pháp; tập trung xây dựng hệ
tiêu chí, chấm điểm, xếp hạng đối với các cơ quan, đơn vị đảm bảo thực chất,
hiệu quả. Triển khai kịp thời các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản hướng dẫn để
thống nhất thực hiện trong toàn Ngành.
4. Đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức phong trào thi đua, lựa
chọn mô hình, cách làm điểm để chỉ đạo, gắn nội dung phong trào thi đua của
Bộ với các địa phương, đặc biệt là các phong trào thi đua theo chuyên đề. Phối
hợp với các cơ quan thông tin, truyền thông đẩy mạnh việc tuyên truyền Chỉ thị

số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng; Chỉ thị số 35/CT-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính
phủ. Tăng cường phát hiện, xây dựng, biểu dương, nhân điển hình tiên tiến, mô
hình mới, cách làm hay, gương người tốt, việc tốt.
5. Tăng cường kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, đánh giá phong trào thi
đua, công tác khen thưởng gắn với kiểm tra, sơ kết, tổng kết thực hiện nhiệm vụ
24


công tác năm 2015 tại các các cơ quan, đơn vị và Hội đồng Thi đua – Khen
thưởng các cấp, đưa phong trào thi đua, công tác khen thưởng ngày càng đi vào
nề nếp, thực chất, hiệu quả.
6. Củng cố, kiện toàn và nâng cao vai trò, trách nhiệm, hoạt động của Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng và vai trò tham mưu của cơ quan chuyên trách, cán
bộ làm công tác thi đua, khen thưởng các cấp để tham mưu cho Bộ trưởng, Thủ
trưởng các đơn vị trong tổ chức triển khai phong trào thi đua và thực hiện chính
sách khen thưởng. Phân công cụ thể cho các thành viên Hội đồng Thi đua Khen thưởng Ngành kiểm tra, giám sát việc tổ chức phong trào thi đua và công
tác khen thưởng của các địa phương, đơn vị. Tăng cường công tác bồi dưỡng,
tập tuấn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm
công tác thi đua, khen thưởng trong toàn Ngành.
7. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ thông tin,
vào các lĩnh vực công tác, cải cách hành chính trong quản lý hồ sơ khen thưởng
nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác.
Phát huy những kết quả đạt được trong phong trào thi đua yêu nước năm
2014, hướng tới kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp Việt Nam và
các ngày kỷ niệm lớn trong năm, mỗi cán bộ, công chức không ngừng phấn đấu
vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, thiết thực góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị năm 2015 và các mục tiêu phong trào thi đua của
ngành Tư pháp giai đoạn 2011-2015./.
Nơi nhận:

- Ban TĐKT Trung ương (để báo cáo);
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để biết);
- Các đơn vị thuộc Bộ;
- Sở Tư pháp, Cục THADS các tỉnh, thành phố trực
thuộc TW;
- Lưu: VT, Vụ TĐKT.

KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG

Nguyễn Thúy Hiền

25


×