Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

tài liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.04 KB, 33 trang )

CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI
Việt Nam là một nước nông nghiệp với trên 80% dân số sống ở nông
thôn cho nên hầu hết là nông dân chuyên sống về nông nghiệp và lợi thế
cạnh tranh khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới, lao động đóng một vai trò
hết sức quan trọng. Nguồn nhân lực này đã phát triển rất nhanh theo đà tăng
trưởng của dân số trong cả nước. Hiện nay, nguồn nhân lực trong cả nước có
hơn 40 triệu người chiếm gần 60% tổng dân số trong cả nước. Lao động nông
nghiệp chiếm đa số: 68%. Nhiều nhà nghiên cứu cho r8a2ng tỷ lệ thất nghiệp
ở nông thôn không cao mà đa số chỉ là thiếu việc làm hay nông nhàn xảy ra
giữa các vụ mùa. Hệ số sử dụng quỹ thời gian trong nông nghiệp chỉ vào
khoảng 72 – 73 % tức chỉ khoảng 250 ngày trong năm, thay vì trong công
nghiệp tính chuẩn số ngày lao động là 300 ngày trong năm. Ngay như trong
công nghiệp và dòch vụ thuộc khu vực nhà nước, đa số lao động cũng rơi vào
tình trạng thiếu việc làm, thường không sử dụng hết 8 giờ lao động trong
ngày như đã được trình bày ở phần trên.
Trong ngày đầu của nền kinh tế thò trường, hàng hóa lương thực thực
phẩm vẫn là nguồn cung cấp chính từ khu vực nông nghiệp. Tới thời kỳ mở
cửa hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, sản xuất nông nghiệp nói
chung vẫn là cơ bản theo hướng đẩy mạnh sản xuất gạo để vừa bảo đảm đủ
tiêu dùng trong nước vừa dành một phần cho xuất khẩu. Trên cơ sở này, từ
sau đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta đã bắt đầu sản xuất
gạo cho tới đại hội VIII thì số lượng gạo xuất khẩu ra nước ngoài trên dưới 3
triệu tấn/năm, trở thành quốc gia xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 – 3 thế giới.
Như vậy tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp vào GDP rất lớn. Mặc khác, chiến
lược phát triển công nghiệp ở thời kỳ sau đó vào những năm mở cửa tất
nhiên phải dựa vào tích lũy từ nông nghiệp. Nông nghiệp phát triển mạnh thì
mới tạo khả năng tích lũy cho công nghiệp. Đó cũng là qui luật chung co cả
nước nông nghiệp đi lên công nghiệp.
Vấn đề cơ bản để tăng tích lũy từ nông nghiệp là dực vào lực lượng


nông nghiệp- nguồn nhân lực và lao động nông dân ở nông thôn, các nước
phát triển và công nghiệp hóa trên thế giới, nhất là ở Châu Á như Nhật Bản,
n Độ, Đài Loan… là những quốc gia điển hình về vai trò đóng góp vào tích
lũy của nông nghiệp trong thời kỳ đầu của quá trình phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước. Sau khi triển khai chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1
đất nước Việt Nam đã thực hiện chương trình kết hợp công – nông nghiệp
theo hướng coi trọng “ phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, thực hiện
thủy lợi hóa, điện khí hóa, sinh học hóa, phát triển công nghiệp chế biến
nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày càng cao, gắn nguồn nguyên liệu và
liên kết với công nghiệp đô thò… từng bước hình thành nông thôn với văn
minh hiện đại…” theo báo cáo của BCHTU khóa VI về các vaa8n kiện trình
đại hội VII của Đảng CSVN).
Trong quá trình nhất quán phát triển kinh tế – xã hội từ sau thời kỳ
mở cửa vào năm 1986, sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta tính theo GDP
đã tăng liên tục nhiều năm liền. Điều này cho thấy sự đóng góp tích cực của
nguồn nhân lực trong thời kỳ mới từ điểm xuất phát của nền kinh tế nông
nghiệp truyền thống là được chuyển đồi sang nền kinh tế thò trường mang
tính chất công nghiệp hóa. Quan điểm của con người là yếu tố sản xuất chính
vẫn tồn tại và được phát huy qua hai thời kỳ của nền kinh tế nông nghiệp
sang nền kinh tế công nghiệp đang diễn ra ở nước ta.
I. Nhân lực đối với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội :
A. Quan điểm con người là yếu tố sản xuất chính:
“ Con người” là lao động hay nguồn nhân lực luôn luôn đóng vai trò
chính và trung tâm cho mọi sự phát triển , ngay cả phát triển công nghiệp và
đóng góp phần làm tăng trưởng nhanh chóng nền kinh tế quốc gia. Quan
điểm này không phải lúc nào cũng được các nhà làm kinh tế và quản lý nhà
nước coi trọng. Khi cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ ở Anh vào thế kỷ
thứ 18 thì nhiều quốc gia nhanh chóng tiếp thu và nhân rộng các mô hình kỹ
thuật cơ khí và ứng dụng máy móc vào quá trình phát triển đất nước. Lúc này

quan điểm cơ khí và máy móc được quan tâm hàng đầu. Suốt cả thế kỷ thứ
19 và tới giữa thế kỷ thứ 20, nhiều quốc gia Châu âu, Châu Mỹ đều nỗ lực
chạy đua sản xuất và trang bò máy móc từ cơ khí tới điện tử, nền kinh tế
phương Tây của các quốc gia phát triển thường được nhìn dưới góc cạnh sự
thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp và công nghệ. Người ta đã xa rời
quan điểm con người, lao động là yếu tố chủ yếu trong các hàm số của tăng
trưởng và phát triển . nhưng về sau, người ta mới nhận ra rằng chỉ có máy
móc hiện đại không mà không có con người, nhất là không có tri thức và
trình độ tay nghề để sử dụng , điều khiển những thứ ấy chỉ là những cổ máy
bất động không khác những đống sắt thép bình thường. Từ những năm 90
của thế kỷ 20, khi nền tin học công nghệ ra đời và được ứng dụng nhanh
chóng vào sản xuất, dòch vụ có tác dụng mang lại hiệu quả cao thì người ta
mới nhận rỏ vai trò con người thật sự ngày càng tăng cao, trở thành trung tâm
của hệ thống sản xuất công nghiệp lẫn nông nghiệp được công nghiệp hóa.
Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia đang phát triển đổ xô nhập thiết bọ mới,
2
công nghệ hiện đại nhưng vẫn giữ nguyên trạng lao động cũ không đào tạo
lại cho thích hợp hoặc có đào tạo lại nhưng không đến nơi đến chốn đều nhận
lấy thất bại.
Như vậy, quan điểm coi” con người là trung tâm” có một vai trò trọng
yếu trong sản xuất dù là công nghiệp, dòch vụ hay nông nghiệp cũng không
thể kgo6ng chú trọng tới một số điều kiện cần và đủ giúp cho yếu tố nguồn
nhân lực này phát triển tương ứng khã dó có tác dụng đẩy nhanh sự tăng
trưởng của nền kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước. Dưới đây là các điều kiện chủ yếu để coi con người là “ trung
tâm”.
1. Phải từ bỏ lối sản xuất theo hướng công nghiệp hóa hẹp đi để đi
theo sự chuyển dòch cơ cấu nền kinh tế một cách sâu rộng giữa các ngành,
đòa phương và vùng lãnh thổ.
2. Cần có cơ chế quản lý dân chủ, mềm dẻo, linh hoạt nhưng phải

phân công lao động” đúng người đúng việc, đúng ngành nghề” và có chính
sách đãi ngộ, động viên, khen thưởng trong đó đặc biệt có chính sách giáo
dục và đào tạo thích đáng để tạo ra động lực cho sự phát triển .
3. Nên tôn trọng người lao động và coi người là thành viên của tổ
chức và là mục tiêu chớ không là phương tiện trong quá trình phát triển kinh
tế – xã hội .
B. Vai trò của nguồn nhân lực với sự tăng trưởng kinh tế:
Sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế xã hội được xem như là
kết quả đầu ra của một chiến lược xây dựng và phát triển quốc gia với việc
sử dụng những yếu tố đầu vào phù hợp. Các yếu tố đầu vào cơ bản của nền
kinh tế hay hệ thống sản xuất gồm có: vốn đầu tư ( tư bản ), nguồn nhân lực (
lao động), tài nguyên ( đất đai), khoa học kỹ thuật hay công nghệ
( Technonogy) và sự quản trò hay tổ chức ( Management). Các nhà kinh tế
học thường mô hình hóa bằng công thức tính toán theo một hàm số:
Y = f ( K,L,R,T,M )
Trong đó : Y là xuất lượng hay là kết quả của hệ thống sản xuất của
nền kinh tế, còn gọi là tổng sản phẩm xã hội hay GDP ; f là biến số và K: Tư
bàn ; L : Lao động ; R : đất đai – tài nguyên ; T : công nghệ ; M : sự quản lý.
Mô hình sản xuất của nền kinh tế cổ điển chỉ bao gồm hai yếu tố đầu
vào lao động và tư bản. Về sau có thêm đất đai hay tài nguyên thiên nhiên.
Gần đây, năm 1996 nhà kinh tế Gillis và các cộng sự đã đề xuất mô hình sản
xuất mới :
Y = f ( K,L,R, a )
Trong đó, K : Tư bản, L : Lao động ; R : đất đai – tài nguyên và a :
năng suất hay công nghệ.
3
ng Trần Võ Hùng Sơn và Châu Văn Thành, giảng viên của trường
ĐH kinh tế TP.HCM đã phân tích và ứng dụng mô hình trên bằng cách
chuyển đổi thành phương trình toán học với cách s8a1p xếp các yếu tố đầu
vào thành các tỷ số tương thích để giải ra kết quả của sự đóng góp các yếu tố

sản xuất trong hàm số trên vào sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta theo
ba thời kỳ sau đổi mới, tính từ 1987 – 1995 :
ĐVT : %
Thời kỳ Y K L a
1987-1989
1990-1992
1993-1995
100
100
100
23,7
22,45
26,9
52,8
35,32
21,7
23,5
42,23
51,4
Nguồn : tạp chí phát triển kinh tế số 96 tháng 10-1998, trang 18.
Thời kỳ 1987 – 1989 : để có xuất lượng 100 cho nền kinh tế, nhà nước
phải sử dụng yếu tố vốn (K) 23,7% và thâm dụng lao động ( L ) 52,8% với
năng suất ( a ) thấp 23,5% ( do trình độ tay nghề chưa cao nên năng suất đạt
thấp). Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta ở thời kỳ » trước ngưỡng
cửa đổi mới » còn thấp : 3,4 ( 1987), 4,6% ( 1988) và 2,7% ( 1989).
Thời kỳ 1990-1992 : vốn 22,45% và lao động ( 35,32%) được đầu tư ít
lại nhưng năng suất tăng lên tới 43,23% ( do lao động được nâng cao tay
nghề và có thêm công nghệ mới). Tốc độ tăng trưởng của nước ta ở thời kỳ
này ( đi vào giai đoạn đầu của đổi mới bắt đầu có tiến bộ : 5,1% ( 1990),
6,0% ( 1991) và 8,6% ( 1992 ).

Thời kỳ 1993 – 1995 : vốn có tăng nhưng không bao nhiêu ( 26,9%)
trong khi lao động lại giảm ( 21,7%) nhưng năng suất tăng lên rất cao
( 51,4%) do thâm dụng kỹ thuật tay nghề công nhân và đội ngủ quản lý, công
nghệ được đổi mới, ứng dụng với giai đoạn tiến hành cải cách tinh giản biên
chế, thực hiện công tác sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước như phần trên đã
nêu. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tính theo GDP lên cao nhất : 8,08% (
1993), 8,83% ( 1994) và 9,54% ( năm 1995).
Lao động và năng suất có mối quan hệ với khoa học công nghệ hay
kỹ thuật. Chính lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ càng nhiều thì càng tạo
ra nhiều năng suất. Điều này cũng có nghóa khi thiếu thốn công nghệ thì cần
thâm dụng lao động, ứng với các quốc gia chưa phát triển . theo đònh luật
Rybzynski, trong điều kiện giá sản phẩm không đổi, sự gia tăng một yếu tố
4
sản xuất sẽ làm tăng xuất lượng của sản phẩm thâm dụng yếu tố đó theo tỷ
lệ cao hơn trước.
Còn theo nhà kinh tế học John Hicks đạt giải thưởng Nobel 1972 về
nền kinh tế thì có loại tiến bộ kỹ thuật làm tiết giảm lao động ( labor saving
technicak progress ), có tiến bo6 kỹ thuật làm tiết giảm tư bản ( capital
saving teachnical progress). ( Theo kinh tế quốc tế – tóm tắt bài giảng « ,
trường ĐH tổng hợp TP.HCM – 1995, trang 82 – 83).
Mặc khác, chúng ta xét thấy trong hàm số nói trên chỉ có yếu tố lao
động là quan trọng nhất vì nó được biểu hiện ở hai mặt : một, lao động gồm
có thể chất và tinh thần, trong đó tri thức và kinh nghiệm có liên quan đến
chất lượng của nguồn lực và hai, lao động là con người sử dụng tri thức và
kinh nghiệm của mình vào việc quản lý, điều khiển và khai thác các yếu tố
còn lại là tư bản, công nghệ để chế tạo ra kết quả – hiệu quả. Con người
chiếm tỷ trọng hàm lượng lớn nhất ở đầu vào và trong số kết quả đầu ra khi
thâm dụng lao động, thiếu công nghệ. Nói cách khác nguồn lực tạo ra sự tăng
trưởng của nền kinh tế gồm có 3 nguồn chính : nhân lực, tài lực và vật lực
trong đó suy cho cùng nhân lực là nhân tố quan trọng bậc nhất vì lao động

vừa là nguồn nhân lực chủ yếu vừa là động lực tạo ra hai nguồn lực kia.
Vai trò của người lao động đối với sự tăng trưởng kiunh tế thường
được xem xét qua các chỉ tiêu : số lượng lao động tham gia quá trình sản xuất
trong hệ thống kinh tế, trình độ chuyên môn, sức khỏe người lao động và sự
tác động và kết hợp hài hòa các yếu tố liên quan trong hàm số qua quá trình
quản lý và tổ chức. Các yếu tố đó kết hợp lại có trong nguồn nhân lực được
gọi là chất lượng lao động. Chúng ta sẽ xét tới ở mục dưới.
« Chiến lược ổn đònh và phát triển kinh tế –xã hội đến năm 2000 »
của Chính phủ đã được đề ra từ đại hội VII của Đảng CSVN tức đại hội sau
thời kỳ đổi mới, đã xác đònh rõ : « Mục tiêu và động lực chính của sự phát
triển là vì con người và do con người ».
C. Chất lượng lao động quyết đònh sự phát triển kinh tế –xã hội :
Chất lượng lao động biểu hiện ở các mặt đ8ạc trưng hay tính chất
riêng của mỗi người lao động thông qua tay nghề, trình độ , tuổi tác, sức
khỏe, khả năng tiếp thu, truyền đạt và thích nghi với môi trường, điều kiện
và hoàn cảnh sống.
Hàm số về sản xuất hay tăng trưởng trình bày ở trên [ Y=f(K,
L,R,T,M)] cho thấy lao động chỉ là một yếu tố cấu thành như lại là phần tử
mấu chốt có tác động trực tiếp tới các yếu tố còn lại của hàm số. Tư bản (K),
tài nguyên( R), công nghệ (T) và sự quản lý ( M) đều phụ thuộc vào con
người lao động( L). Bởi vì lao động nằm trong hàm số không chỉ là yếu tố sức
lao động đơn thuần mà nó còn là con người- chủ thể tác động tới các đối
5
tượng lao động còn lại. Hơn nữa cụm 5 yếu tố nằm bên vế phải của hàm số
không chỉ là phương trình toán học mà còn là một mô hình kinh tế- một cơ
chế hay một hệ thống do con người chủ động điều khiển để phát triển về
chất lẫn lượng.
Khi ấy con người bằng chức năng và đ85c tính của mình trực tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất( chuyển hóa) để biến đổi các yếu tố ấy thành
ra kết quả ngang bằng với xuất lượng Y. Quá trình này được diễn giải như

sau :
- Con người sử dụng đồng vốn để đầu tư nguyên vật liệu, máy móc
thiết bò, nhà xưởng bằng sức lao động, trong đó có tài năng và trí tuệ của
mình để tạo ra của cải vật chất cho xã hội theo các phương thức sản xuất tối
ưu khác nhau một cách có hiệu quả.
Do đó, chất lượng lao động hay chất lượng của nguồn nhân lực có liên
quan tới năng suất và hiệu suất lao động. Yếu tố a của phương trình toán học
Y= f ( K,L,R,a) trình bày ở phần trên chính là năng suất+ công nghệ+ quản
lý, một bộ phận cấu thành của phương trình- mô hình kinh tế, trong đó có yếu
tố lao động, và lao động, vốn, tài nguyên có thể tăng, giảm theo biến số f với
một tỷ lệ thích hợp để tạo ra hiệu suất hay năng suất mong muốn.
Trong quản lý con người- nguồn nhân lực cũng được các nhà kinh tế
học bố trí trong một sơ đồ nhân quả-chất lượng mà người ta thường gọi sơ đồ
xương cá, công trình sáng tạo của Kaoru Ishikawa đã trở thành tiêu chuẩn
công nghiệp Nhật Bản ( JIS-japanese Industrial Standard). Sơ đồ này cấu tạo
bởi 5 yếu tố làm thành bộ xương cá có 5 nhánh- 5 M : men ( con
người),Materials ( nguyên vật liệu), Machines ( máy móc), phương pháp
( Mthods) và Measuring ( đo lường).
Men Materials Measuring
Tiêu
Chuẩn chất lượng

Method Machin
Chất lượng con người lao động gắn liền với các yếu tố sau đây:
- Cấp bậc đào tạo, bồi dưỡng ( giáo dục – đào tạo).
- Thời gian đào tạo, bồi dưỡng.
- Trình độ tay nghề ( kỹ năng-Skills và kỹ thuật – Technics).
- Tuổi tác giới tính, sức khỏe.
- Hoàn cảnh gia đình
- Quan hệ xã hội

- Tính tình, cá tính
6
- Chức vụ đang đảm nhiệm…
Trình độ tay nghề được kể tới:
- Kỹ ăng thực hiện
- Kỹ năng điều hành
- Khả năng ứng xử các tình huống kỹ thuật
- Khã năng ứng xử các tình huống xã hội trong công đồng
- Tính gắn bó và trách nhiệm về chất lượng …
Kỹ thuật điều hành gắn với:
- Trình độ hiểu biết công nghệ( tri thức)
- Khả năng cập nhật hóa thông tin mới
- Giao tế nhân sự trong tổ chức
- Khả năng gương mẫu.
- Khã năng tự kích thích và kích thích mọi người ( động viên).
- Đánh giá đúng mình và hiểu biết mọi người…
( Theo: Quản trò chất lượng , viện đào tạo mở rộng-1992, trang 206-
207).
Kỹ thuật điều hành còn có thể hiểu là kỹ năng hay năng lực lãnh đạo
cần có ở một người lao động khi phải đứng vào vò trí chỉ huy ở cấp cơ sở, cấp
trung hay cấp cao:
- Kỹ năng kỹ thuật ( chuyên môn nghiệp vụ).
- Kỹ năng quan hệ ( giao tiếp theo hệ thống dọc, ngang, bên trong và
bên ngoài một tổ chức).
- Kỹ năng lý luận ( tu duy, nhận thức, diễn đạt).
Hành vi đạo đức ( phẩm chất con người) không tách rời với chất lượng
lao động. Đó là đạo đức lao động hay đạo đức nghề nghiệp- một thứ lương
tâm chức nghiệp. Không có nó, người lao động không thể hiện được sự chân
chính, tuân thủ luật pháp, văn hóa của tổ chức và sẽ dẫn tới những hành vi
gọi là “ Phi đạo đức” trong tổ chức hay xã hội . hành vi đạo đức là việc hành

xử theo hệ thống giá trò và chuẩn mực của con người nói chung và cộng
đồng- nơi mà người lao động sinh ra nuôi dưỡng lớn lên, được giáo dục ( trình
độ văn hóa và tay nghề) để thích nghi và hội nhập vào cộng đồng hay tổ
chức mà người lao động tham gia, lao động…
Nguồn nhân lực trong nền kinh tế hay trong hệ thống của quá trình
sản xuất đều cần tới chất lượng lao động. Vấn đề này đặt ra ở đây nhằm giải
quyết yêu cầu nhân lực trong xã hội đổi mới của chúng ta hiện nay đang trở
nên một nhu cầu cấp thiết, hôn nữa rất bức xúc và quan trọng bậc nhất. Hơn
bao giờ hết nó trở thành một nguyên động lực chủ yếu quyết đònh sự phát
triển kinh tế –xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới với bối cảnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7
Chất lượng lao động vì thế còn chòu sự tác độngcủa văn hóa và truyền
thống dân tộc. Sự cần cù, nhẫn nại, siêng năng, khéo tay, có kỹ xảo và tiếp
thu nhanh khoa học kỹ thuật hay tinh hoa văn hóa nước ngoài vốn có của con
người lao động Việt Nam đã được hình thành và tích lũy lâu dài trong suốt
tiến trình lòch sử văn minh từ thời dựng nước cho tới nay.
Chất lượng lao động ấy đã xuất phát từ ne6n2va8n minh nông nghiệp
tiến lên nền văn minh công nghiệp coi như chưa có gì mà chỉ mới tiếp cận
với nền công nghiệp- khoa học kỹ thuật chưa đầy một thế kỷ, trong khi các
nước phát triển ở Châu u, Châu Mỹ phải trải qua gần hai thế kỷ. Tuy nhiên,
chất lượng lao động ấy đã được tôi luyện trong nền văn hóa dân tộc nhiều
truyền thống nên đã đóng góp rất nhiều cho công cuộc xây dựng nền kinh tế
–xã hội có trên bốn ngàn năm văn hiến. Chất lượng lao động ấy đã xây
dựng nên nền văn minh công nghiệp phương Tây mà tới nay đã có lợi thế
xuất khẩu một bộ phận lao động tuy chất lượng chưa cao trên thế giới và nổi
tiếng với các chiến công lừng lẩy chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc vững bền
trong độc lập, tự chủ.
Với chất lượng lao động tuy còn thấp kém ấy nhưng cũng đã từng
bước hội nhập được vào nền kinh tế thế giới theo xu thế toàn cầu hóa từ sau

ngày giành được độc lập và thống nhất đất nước. Từ ngưỡng cửa này, nguồn
nhân lực nước ta đang tiến dần lên để nâng cao chất lượng mà Karl Marx cho
rằng đó là yếu tố đồng nhất và cách mạng nhất trong sản xuất.
Để có được đội ngũ những người lao động có chất lượng như trên đã
phân tích thì phải có đầu tư cao trong lónh vực giáo dục và đào tạo. Đó là vai
trò của giáo dục và đào tạo mà chúng ta sẽ thấy ở chương sau:
II. Nhân lực với công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước:
1. nền kinh tế Việt Nam từ bò lệ thuộc tới độc lập tự chủ:
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phát triển theo con đường công
nghiệp hóa từ xuất phát điểm của nền công nghiệp tự cung tự cấp ở dưới các
chế độ trước tư bản chủ nghóa, trước cuộc cách mạng công nghiệp thế kỹ 18:
năng suất nông nghiệp thấp mang tính chất tự nhiên.
Nông nghiệp trở thành một ngành của nền kinh tế quốc dân từ khi có
cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỹ 18 và cách mạng khoa học công
nghệ vào giữa thế kỷ 20 cùng với sự xuất hiện của chủ nghóa tư bản. Lúc ấy,
nông nghiệp là nguồn lương thực chính đáp ứng nhu cầu sống, nông nghiệp là
nguồn lương thực chính đáp ứng nhu cầu sống của dân chúng ở thành thò tăng
lên và là nguồn nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp. Sau đó, nông
nghiệp đã được công nghiệp hóa nhanh chónh ở những nước phát triển và
những nước công nghiệp hóa Châu u và Châu Mỹ, tạo ra sự phát triển hết
sức lớn lao của lực lượng sản xuất. Trong đó có nguồn năng lực và sự phân
8
công lao động xã hội dẫn đến nhiều ngành sản xuất mới ra đời và phát triển
lớn mạnh. Trong khi đó, các nước đang phát triển hay còn bò sự chiếm đóng
của thực dân và đế quốc đều còn kẹt lại ở trong tình cảnh của nền nông
nghiệp lạc hậu và sản xuất nhỏ.
Việt Nam là một nước điển hình tồn tại lâu dài trong tình cảnh ấy cho
tới khi giành được độc lập và chủ quyền ở một nữa nước thuộc Miền Bắc vào
năm 1954 để tiến hành xây dựng chủ nghóa xã hội trong thời kỳ qúa độ
nhưng lại phải tập trung sức người, sức của chi viện quá lớn lao cho Miền

Nam cho tới năm 1975 thì mới thống nhất hai miền đất nước và từ đó mới
thực sự đi vào con đường phát triển kinh tế –xã hội của một quốc gia XHCN
thời bình.
Từ thời kỳ này là thuộc đòa của Pháp trở về trước, nền kinh tế nông
nghiệp của nước ta không còn giữ vai trò độc tôn như dưới các chế độ phong
kiến theo chủ trương” Dó nông vi bản” nữa. Từ năm 1897 tới năm 1954, Thực
dân Pháp đã thực hiện công cuộc khai thác thuộc đòa ngày càng mở rộng
bằng hình thức xây dựng nền kinh tế công nghiệp theo kiểu TBCN với các
hoạt động đầu tư to lớn bởi các nhà tư bản Pháp và nước ngoài khác về thiết
lập cơ sở hạ tầng, mở mang công thương nghiệp, trong đó đẩy mạnh khai thác
khoáng sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến nhằm mục đích xuất khẩu
sản phẩm hàng hóa ra nước ngoài hoặc chuyển vận của cải về phục vụ chính
quốc. Bên cạnh hoạt động của các nhà máy, xí nghiệp và công ty lớn là các
cơ sở tài chính, ngân hàng ra đời để độc quyền phát hành tiền giấy lưu hành
trong toàn xứ Đông Dương và kinh doanh tiền tệ. Như vậy là gần một thế kỷ
đô hộ, thực dân Pháp đã đẩy mạnh phát triển kinh tế nước ta theo mô hình
kinh tế TBCN với qui mô lớn nên cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Nhưng kết
quả của chính sách cai trò của thực dân Pháp là xây dựng nền kinh tế công
nghiệp phát triển thuộc đòa theo kiểu” nuôi tằm để rút ruột lấy tơ!”, nói
chung vẫn rơi vào tình trạng yếu kém của một đất nước chưa phát triển . cả
công nghiệp và nông nghiệp đều bò trì trệ, ốm yếu, chỉ khi nào có độc lập tự
chủ và hòa bình thực sự, có sự tham gia toàn bộ của nguồn nhân lực tại chỗ
thì đất nước ta mới xây dựng thành công nền kinh tế –xã hội .
Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 bò chia cắt hai miền gồm:
một nữa phía Bắc tiến hành xây dựng kinh tế XHCN và một nữa phía Nam
đan xen vừa kinh tế giải phóng ở vùng tự do vừa kinh tế TBCN kiểu Mỹ dưới
sự lệ thuộc của đế quốc. Và thời kỳ sau 1975 thống nhất đất nước và hòa
bình lập lại tới khi thực hiện chính sách” đổi mới” ( 1986) để chuyển đổi
sang cơ chế thò trường với bước đi ban đầu theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì nền kinh tế xã hội mới gặt hái được nhiều thành tựu

đáng kể. mỗi giai đoạn, nền kinh tế nước ta có nhiều nét đặc thù chuyển
9
biến theo tình hình và điều kiện của đất nước nên đã được tổng kết với các
mức tăng trưởng có khác nhau suốt chặn đường 40 năm ( 1955 – 1995) với 4
giai đoạn như sau:
Giai đoạn Năm cuối so với năm
đầu ( lần)
Bình quân 1 năm( % )
1/ 1955 – 1965
2/ 1966 – 1975
3/ 1976 – 1985
4/ 1986 – 2000
2,4871
1,0449
1,4189
2,5750
9,54
0,44
3,56
6,51
Nguồn: kinh tế Việt nam 1955 – 2000 – NXB Thống kê hà Nội 12-
2000.
Nếu xét về mặt cơ cấu thì suốt 45 năm nền kinh tế nước ta đã ó sự
chuyển dòch theo thứ tự của ba ngành công nghiệp, nông nghiệp và dòch vụ
qua 5 giai đoạn như sau:
Giai đoạn Vò trí 1 Vò trí 2 Vò trí 3
1955 – 1959
1960 – 1975
1976 – 1991
1992 – 1993

1994 – 1999
Nông nghiệp
Dòch vụ
Nông nghiệp
Dòch vụ
Dòch vụ
Dòch vụ
Nông nghiệp
Dòch vụ
Nông nghiệp
Công nghiệp
Công nghiệp
Công nghiệp
Công nghiệp
Công nghiệp
Nông nghiệp
Nguồn: như trên.
Quá tổng kết quá trình xây dựng nền kinh tế 45 năm, trong đó có hai
mươi năm chiến tranh chống Mỹ ở Miền Nam ( quân đội Mỹ và đồng minh
trợ lực cho chính quyền Sài Gòn) lẫn Miền Bắc ( tàu chiến và máy bay của
Mỹ đánh phá), nước ta có nhiều mức tăng trưởng đạt bình quân 5,13%/năm,
trong đó có nhiều năm cao hơn như năm 1995 là cao nhất ( 9,54%). Mặc dù
sự chuyển dòch cơ cấu diễn ra chậm nhưng giai đoạn gần đây nhất 1994 –
1999 và tới nay cơ cấu kinh tế có sự chuyển dòch tiến bộ theo đúng xu thế
toàn cầu hóa với thứ tự tối ưu: dòch vụ, công nghiệp và nông nghiệp.
Toàn bộ những thành quả nói trên đều thuộc về nguồn nhân lực được
sử dụng đáng kể trong quá trình lao động sản xuất ở cả ba khu vực: Quốc
doanh, hợp tác xã và tư nhân.
Bảng thống kê năm 1989 cho thấy tổng số lực lượng lao động trong hệ
thống kinh tế nước ta là 28.477.000 người, trong khi dân số cả nước là 65

10
triệu người và nguồn nhân lực chiếm 32 triệu người, tỷ lệ tăng trưởng GDP
8,3%, thu nhập bình quân đầu người là 220 USD.
Đvt: người
Lực lượng lao động được sử dụng Năm 1989
Khu vực Quốc doanh:
- Hành chính sự nghiệp
- Xí nghiệp quốc doanh
Khu vực HTX
Khu vực tư nhân
Tổng cộng:
3.801.000
1.455.000
20.658.000
3.768.000
28.477.000
Đến năm 1994, theo số liệu của Cục thống kê, lao động cả nước tính
theo khu vực kiểu mới như sau:
Khu vực công nghiệp: 2.108.900 người
Khu vực dòch vụ công: 1.110.000
- Khu vực nông lâm nghiệp: 24.300.500
- Khu vực phi công nghiệp: 5.986.900
- ( Thuộc sản xuất nhỏ)
Cộng: 33.506.300
- Khởi đầu những năm 90, cương lónh xây dựng đất nước của Đảng
Cộng Sản Việt Nam xác đònh: “ phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn đònh tình hình
kinh tế –xã hội đồng thời tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp, mở rộng
kinh tế dòch vụ theo hướng huy động triệt để để các khả năng sản xuất hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đẩy mạnh thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí

và một số khoáng sản, phát triển có chọn lựa một số ngành trong công
nghiệp tư liệu sản xuất khác và các cơ sở thuộc kết cấu hạ tầng, trong đó ưu
tiên phát triển điện, giao thông thủy lợi và thông tin liên lạc”. ( văn kiện Đại
hội Đảng khóa VII).
Từ nội dung khái quát đó, chúng ta có thể hiểu trọng tâm của vấn đề
hiện nay là tập trung nguồn lực của cả nước để thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nề kinh tế –xã hội , trong đó chú trọng tới công nghiệp hóa
nông nghiệp và nông thôn. Như vậy do hoàn cảnh lòch sử để lại, đất nước
chúng ta tiến hành công nghiệp hóa rất muộn màng trong điều kiện còn lạc
hậu và nghèo đói so với các nước phát triển và một số nước NIC
s
trong khu
vực. Dù vậy chúng ta vẫn tự hào với tiến bộ của nền kinh tế –xã hội ngày
càng lạc quan. Thu nhập bình quân đầu người tính theo GDP chưa tới 220
USD vào năm 1989 với tổng số dân là 64,774 triệu người, tỷ giá VND/USD
là 3.950. hơn nữa, trong tình hình trước đổi mới, chúng ta lại đi ngược một
11
bước từ khởi điểm trong việc” ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” càng
khiến cho công cuộc xây dựng kinh tế –xã hội bò chậm lại một số năm. Cho
nên có không biết bao nhiêu là thách thức đặt ra trước mắt cho chúng ta. Cho
tới nay, trước sự tiến bộ đáng kể đó, thu nhập bình quân đầu người đã được
nâng lên trên 400 USD.
Cũng như một số nước đang phát triển , chiến lược phát triển công
nghiệp ở nước ta trong giai đoạn đầu chủ yếu dựa vào tích lũy từ nông
nghiệp. Nơi đây có 70% lực lượng lao động trong dân số nông thôn. Sau đó,
có thêm đầâu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn ODA ( vay ưu đãi cho phát
triển KT –XH ). Với chiến lược này, Nghò quyết của Đại Hội Đảng Cộng Sản
lần thứ VIII đã xác đònh: đến năm 2020 nước ta sẽ trở thành một nước công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, dựa trên một nền khoa học công nghệ tiên tiến.
2. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa:

Trước hết” công nghiệp” ( Industry) hàm chứa một ngữ nghóa rất rộng
nhưng ở đây nó được hiểu theo ý nghóa hạn chế, nó có liên quan tới hoạt
động sản xuất hàng hóa, đặc biệt là được hoàn thiện toàn bằng máy móc- cơ
khí rồi điện tử. Sau đó nó lại mang thêm ý nghóa và nội dung của thuật ngữ “
công nghiệp hóa” ( Industrialization): là sự chuyển đổi một nền kinh tế trên
diện rộng có sự tham gia của máy móc trong việc sản xuất hàng hóa bằng
việc tập trung hóa lực lượng nhân công lao động nhất là ở tỉnh thành. Hoạt
động sản xuất, chế biến trước đây chủ yếu bằng tay( thủ công) nay trở thành
bằng cơ giới( cơ khí hóa , điện tử hóa- công nghệ kỹ thuật cao) diễn ra trong
các xí nghiệp, nhà máy hay cơ sở công nghiệp khác. Quá trình công nghiệp
hóa được mô tả như là sự chuyển đổi từ một xã hội nông nghiệp sang một xã
hội công nghiệp. Lòch sử của kinh tế học đã chứng minh trong quá trình này
mức thu nhập trên đầu người tăng cao đồng thời với sự tăng cao của năng
suất lao động.
Công nghiệp hóa hiện đại ( Modeern industrialization) thường được
đánh dấu bắt nguồn từ cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra ở Anh vào cuối
thế kỷ 18. quá trình này có tác động làm thay đổi đời sống từ nông thôn tới
thành thò và làm chuyển dòch sản xuất từ hộ gia đình tới nhà máy. Nó còn tạo
ra cơ giới hóa trong nông nghiệp dẫn đến tăng năng suất trong nông nghiệp.
Ngược lại năng suất trong nông nghiệp gia tăng là cần thiết cho sự tăng
trưởng công nghiệp hóa hiện đại hóa để trở thành tự cung tự cấp và có tích
lũy đầu tư lại cho công nghiệp.
Nếu xét về mặt nội dung của quá trình phát triển kinh tế –xã hội trên
thế giới trong nhiều thế kỷ qua thì công nghiệp hóa là quá trình trang bò máy
móc và công nghệ hiện đại cùng với việc sử dụng các phương pháp quản lý
tiên tiến vào các hoạt động sản xuất trong nền kinh tế, dù là sản xuất vật
12
chất hay dòch vụ nhằm nâng cao hiệu quả đưa đến tốc độ phát triển nhanh và
bền vững về giá trò tổng sản phẩm xã hội hay trong nước ( GDP). Đó là quá
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.

Trong ý nghóa này, công nghiệp hóa được tập trung vào mọi ngành
chớ không chỉ riêng cho ngành nào của nền kinh tế xã hội với đặc thù về sử
dụng lao động và khai thác các tài nguyên. Điều này cũng có nghóa là một
nước muốn công nghiệp hóa cần phải có ít nhất hai nguồn lực lớn: lao động
và tài nguyên . điều kiện kiện rất giống với đất nước của chúng ta, vốn có
nguồn nhân lực dồi dào và nông nghiệp lâu đời, tài nguyên thiên
nhiện( rừng, mỏ- đặc biệt than đá, dầu khí , thủy hải sản) phong phú. Vốn
tiền- vàng thì có thể tích lũy bằng hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và hoạt
động ngoại thương cùng với chính sách thu hút dòng tiền chảy vào từ bên
ngoài bằng đầu tư trực tiếp của nước ngoài hoặc nhận viện trợ, vay ưu đãi
ODA. Khi ấy tùy thuộc vào chính sách đối ngoại của nhà nước mà công cuộc
đầu tư trực tiếp hay gián tiếp của nước ngoài thông qua các công ty đa quốc
gia sẽ diễn biến tốt đẹp hay không. Nhiều quốc gia đang phát triển cho thấy
rằng đó là những “ cú huých” tạo ra nguồn lực thúc đẩy nền kinh tế –xã hội
phát triển .
Tác động của công nghiệp hóa dẫn đến cơ giới hóa nông nghiệp,gia
tăng phát triển đô thò, biến nông dân thành thò thành dân trong ngành công
nghiệp và dòch vụ.
Quá trình công nghiệp hóa tập hợp từng bước đi trong mỗi thập kỹ
qua. Mặc dù một số lượng đáng kể của hoạt động chế biến và sản xuất xảy
ra ở nông thôn nhưng nhiều ngành công nghiệp lại xuất hiện ở tỉnh thành và
đã thu hút dòng chảy lao động từ nông thôn.
Dân chúng bò thu hút bởi công ăn việc làm của các trung tâm này nên
đã kéo dài theo các tiến trình đo thò hóa và công nghiệp hóa một cách gắn
bó. Năm 1800, nước Anh chỉ có 25% dân chúng sinh sống ở đô thò và tỉnh
thành nhưng tới năm 1881, con số này tăng lên tới 80%. Hầu hết sản phẩm
hàng hóa là bông sợi đều được sản xuất nhằm cung cấp cho các thò trường Âán
độ và Nam Mỹ. Sau đó là các mặt hàng than đá, sắt, thép được sản xuất với
qui mô lớn nhằm phục vụ cho công nghiệp đóng tàu và chế tạo xe lửa và các
ngành cơ khí khác. Tới khi công nghiệp nặng phát triển hì công nghệ chế

biến và vận tải được cải tiến và những vùng có công nghiệp phát triển là Bắc
nước Anh, thu lũng Ruuhr của Đức, Đông Bắc của Pháp và thu lũng Meuse
của Bỉ.
Hoa kỳ được công nghiệp hóa với qui mô lớn đã dựa vào mô hình của
Châu u. Vào cuối thế kỷ 19, Mỹ đã qua mặt Anh về sản xuất sắc và thép.
Sự phong phú của nguyên vật liệu và sự tăng trưởng nhanh của dân số và
13

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×