Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Nghiên cứu sản xuất phân sinh học đa chủng bón cho lúa cao sản, bắp lai, mía đường và khóm trồng trong tỉnh hậu giang phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.83 MB, 12 trang )

III. Kết quả và Thảo luận
3.1 Bắp lai
Nhìn chung, độ phì của dất thí nghiệm tương đối khá (trừ điểm thí nghiệm ở xã Hoà
Mỹ) trong đó điểm thí nghiệm xã Phụng Hiệp tương đối tốt nhất
Bảng 2. Thành phần lý hoá tính của 4 điểm thí nghiệm bắp lai ở tỉnh Hậu Giang

Địa điểm thí nghiệm

pH

N

(Nước)

tổng số
(%)

P dễ tiêu

K trao đổi

Chất
(mg P2O5/ (meq/100 g hữu cơ
đất)
(%)
100 g đất)

Thị Trấn Một Ngàn, huyện Châu
Thành A

4,93



0,203

6,861

0,215

4,677

Xã Nhơn Nghĩa A, huyện Châu
Thành A

4,51

0,147

11,306

0,285

4,402

Xã Hòa Mỹ, huyện Phụng Hiệp

4,60

0,025

3,839


0,244

3,645

Xã Phụng Hiệp, huyện Phụng
Hiệp

5,02

0,182

13,333

0,251

2,751

Kết quả từ bảng 1 [xem phần phụ chương] cho thấy hiệu quả bón 100 kg phân sinh
học bổ sung 60 kg N/ha và 100 lít vi khuẩn cung cấp thêm IAA cùng các nguồn dinh
dưỡng khác như P dễ tan… đã giúp cho thành phần năng suất của cây bắp lai (giống G49)
tương đương với cây bắp chỉ bón phân hóa học (180 kg N và 90 kg P 2O5 /ha) khi trồng
trên đất phù sa thị trấn MỘT NGÀN của huyện Châu Thành A. Không bón phân (hình 1),
năng suất chỉ có 486 kg/ha, bón 100 kg phân sinh học cho năng suất gấp 3 lần và nếu bổ
sung 60 kg N không hay bổ sung 100 lít vi khuẩn/ha cho năng suất gấp 8 đến 10 lần so
với đối chứng (hình 2), tuy nhiên bón 180 kg N và 90 kg P 2O5 /ha cho năng suất cao nhất
(hình 1)[xem phần phụ chương]; trồng bắp lai làm hàm lượng N tổng số và P dễ tiêu
giảm thấp so với trước khi trồng đặc biệt là nghiệm thức bón phân hóa học, điều này cho
thấy cây bắp lấy đi một lượng dưỡng chất rất lớn để cho năng suất cao (hình 2 và hình 3)
[xem phần phụ chương]. Tương tự như kết quả ở điểm thí nghiệm thị trấn MỘT NGÀN,
bón 100 kg phân sinh học bổ sung 60 kg N và 100 lít vi khuẩn chứa IAA giúp cho cây

bắp phát triển tốt như cây bắp bón phân hóa học khi trồng trên đất phù sa xã NHƠN
NGHĨA (bảng 2), (hình 3) năng suất bắp ở nghiệm thức 5 tương đương với năng suất bắp
lai chỉ bón phân hóa học (hình 4))[xem phần phụ chương] đồng thời hàm lượng N tổng số
trong đất không giảm bao nhiêu so với lúc đầu (hình 5)[xem phần phụ chương] có lẻ do
nông dân bón quá nhiều phân N vô cơ hơn nửa đất thí nghiệm phì nhiêu hơn đất thí
nghiệm của điểm thị trấn MỘT NGÀN (bảng 1)[xem phần phụ chương] tuy vậy lượng P
dễ tiêu trong đất giảm thấp so với ban đầu đặc biệt là nghiệm thức 2 (chỉ bón phân hóa
học)(hình 6))[xem phần phụ chương], điều này cho thấy nông dân ít chú ý đến phân lân
mà chú trọng nhiều đến phân đạm hóa học và năng suất bắp ở nghiệm thức bón phân hóa
học cao chứng tỏ cây bắp đã lấy một lượng dưỡng chất rất lớn trong đó lượng lân vô cơ
(90 kg P2O5) không đủ bù đắp sự cân bằng lượng lân trong đất [xem phần phụ chương].
10


Hình 1.Nghiệm thức đối chứng
(không bón phân N và P)

Hình 2. Nghiệm thức bón phân
sinh học + 60 kg N/ha

Hình 3. Toàn cảnh thí nghiệm bắp lai ở huyện Châu Thành A cho thấy sự khác biệt giữa
các nghiệm thức đối chứng (không bón phân) và nghiệm thức bón phân sinh học
11


A: đối chứng (không bón phân N và P), B:180 kg N – 90 P2O5/ha, C: 100 kg phân sinh học/ha, D: C + 60
kg N/ha, E: D + 100 lít vi khuẩn lên men chứa IAA/ha

Hình 4. Hiệu quả của các nghiệm thức bón phân trên hình dạng trái bắp lai (giống G49)
Tương tự như hai kết quả đã trình bày ở trên, bón 100 kg phân sinh học bổ sung 60 kg

N và 100 lít vi khuẩn chứa IAA giúp cho cây bắp phát triển tốt như cây bắp bón phân hóa
học khi trồng trên đất phù sa xã HÒA MỸ, huyện Phụng Hiệp (bảng 4)[xem phần phụ
chương], năng suất bắp ở nghiệm thức 5 tương đương với năng suất bắp lai chỉ bón phân
hóa học (hình 7)[xem phần phụ chương] nhưng với nghiệm thức 4 cũng cho năng suất
khá cao và như vậy chỉ bổ sung 100 lít dịch vi khuẩn/ha sẽ có hiệu quả tương đương như
nghiệm thức 2 đồng thời hàm lượng N tổng số trong đất không giảm bao nhiêu so với lúc
đầu (hình 8)[xem phần phụ chương] có lẻ do nông dân bón quá nhiều phân N vô cơ do
đất ở đây kém phì nhiêu hơn đất thí nghiệm của điểm xã NHƠN NGHĨA (bảng 1) tuy vậy
lượng P dễ tiêu trong đất giảm thấp so với ban đầu trừ nghiệm thức đối chứng (hình 9)
[xem phần phụ chương], điều này cho thấy nông dân ít chú ý đến phân lân mà chú trọng
nhiều đến phân đạm hóa học và năng suất bắp ở nghiệm thức bón hóa học cao chứng tỏ
cây bắp đã lấy một lượng dưỡng chất rất lớn trong đó lượng lân vô cơ (90 kg P 2O5) không
đủ bù đắp sự cân bằng lượng lân trong đất bên cạnh đó vi khuẩn hòa tan lân thỏa mãn
nhu cầu lân cho cây bắp [xem phần phụ chương].
Trái với những kết quả trên, bảng 5 [xem phần phụ chương]cho thấy bón phân sinh
học và không hay có bổ sung phân đạm đều cho thành phần năng suất khá cao ngay cả
nghiệm thức đối chứng cây bắp cũng phát triển tốt có lẻ đất thí nghiệm quá phì nhiêu
(bảng 2) so với 3 điểm thí nghiệm trước; năng suất bắp ở nghiệm thức 4 cao nhất (như
vậy đất quá tốt không cần thiết bổ sung dịch vi khuẩn) gấp đôi năng suất bắp không bón
phân (đối chứng)(hình 10)[xem phần phụ chương], hàm lượng N tổng số trong đất sau
khi thu hoạch bắp vẩn còn khá cao (hình 11) và hàm lượng P dễ tiêu cũng có kết quả
tương tư như N tổng số (hình 12)[xem phần phụ chương]. Như vậy, với một loại đất phù
sa phì nhiêu, nhiều dưỡng chất trồng bắp lai chỉ cần bón một lượng phân sinh học sẽ cho
năng suất bắp tương đối và nông dân chấp nhận có lãi và đất ít bị biến đổi. Để đánh giá
12


hiệu quả phân sinh học trên cây bắp lai trồng trên đất Hậu Giang, phân tích số liệu trên
với 4 điểm là 4 lần lập lai, kết quả trình bày trong bảng 3 cho thấy bón 100 kg phân sinh
học bổ sung 60 kg N và 100 lít dịch vi khuẩn chứa IAA cho thành phần năng suất tương

đương với bắp bón phân hóa học mà thôi.
Tuy nhiên, tổng kết 4 thí nghiệm về bắp lai tại 4 địa bàn khác nhau trong tỉnh cho
thấy Kết quả từ hình 4 và hình 5 cho thấy bắp lai bón 100 kg phân sinh học bổ sung 60
kg N/ha và có thể bổ sung thêm hay không 100 lít dịch vi khuẩn cho năng suất không
khác biệt ý nghĩa thống kê so với bắp bón phân hóa học (180 kg N và 90 kg P 2O5/ha), nếu
so với lúc ban đầu chưa trồng thì hàm lượng N tổng số và P dễ tiêu đều giảm tuy nhiên
các nghiệm thức bón phân sinh có hàm lượng N tổng số và P dễ tiêu cao hơn lúc ban đầu
mặc dù giữa các nghiệm thức không có sự khác biệt ý nghĩa (hình 14 và hình 15), điều
này bón phân sinh học không làm suy thoái hàm lượng các dưỡng chất trong đất (đạm và
lân) mà vẩn đãm bảo năng suất hột bắp vẩn cao .
Bảng 3. Hiệu quả phân sinh học và phân hoá học trên cây bắp lai (G.49) trồng trên đất
phù sa tỉnh HẬU GIANG năm 2006 (trung bình của 4 thí nghiệm ở 4 địa điểm trong tỉnh)
Nghiệm

Chiều cao
cây

Chiều dài
trái

Chiều
hoành trái

Trọng
lượng trái

số hột

Tl. 100 hột


(cm)

(cm)

(cm)

(g)

/trái

(g)

NT 1

164,76

11,12

11,64

56,41

220,63

16,91

NT 2

224,60


18,11

13,98

126,53

474,94

23,35

NT 3

184,23

13,68

12,76

82,69

290,81

20,52

NT 4

208,94

15,88


13,67

107,71

405,50

23,06

NT 5

216,11

17,43

13,80

117,15

436,00

23,16

**

**

**

**


**

**

LSD.05

15,88

2,95

0,79

19,51

86,27

3,41

C.V

5,16%

12,54%

3,9%

12,91%

15,31%


10,35%

thức

F tính

NT 1 = đối chứng, NT 2 = 180 kg N và 90 kg P2O5 /ha , NT 3 = 100 kg phân sinh học/ha, NT 4
= NT 3 + 60 kg N/ha, NT 5 = NT 4 + 100 lít dịch vi khuẩn lên men

Những thí nghiệm của chúng tôi trước đây được thực hiện ở huyện Lai Vung, tỉnh Đồng
Tháp cho thấy bón phân sinh học bổ sung dịch vi khuẩn lên men cùng với phân nửa
lượng phân đạm hóa học cho kết quả năng suất tương đương với bắp lai chỉ bón phân hóa
học (Nguyễn Hữu Hiệp và Cao Ngọc Điệp, 2002) sau đó thí nghiệm này được lập lại ở
huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang cho thấy hiệu quả phân lân sinh học tương đương với
bón 60 kg P2O5/ha (Cao Ngọc Điệp và Nguyễn văn Được, 2004) và thí nghiệm gần đây
được thực hiện tại địa bàn này cho thấy bón 100 kg phân sinh học bổ sung 60 kg N/ha và
13


50 lít vi khuẩn lên men/ha cho năng suất cao nhất và tương đương với bón 180 kg N và
bón 60 kg P2O5/ha (Cao Ngọc Điệp, 2006a) tuy nhiên ở vùng đất xám bạc màu ở huyện
Đức Huệ, tỉnh Long An thì nghiệm thức bón 100 kg phân sinh học cộng với 180 kg N/ha
cho năng suất cao nhất tương đương với bón 180 kg N và 90 kg P 2O5/ha (Cao Ngọc Điệp,
2006b) như vậy ở vùng đất kém phì nhiêu sự hổ trợ của vi sinh vật có ích trong phân sinh
học chỉ đáp ứng được nhu cầu lân (và 90 kg P 2O5/ha ) trong khi đó 4 thí nghiệm ở vùng
đất phù sa trong tỉnh Hậu Giang cho thấy chỉ cần bón 100 kg phân sinh học bổ sung 60
kg N/ha (có hoặc không bổ sung dịch vi khuẩn lên men) cho năng suất tương đương với
bón phân hóa học (180 kg N và 90 kg P2O5/ha).

Nang suat (kg/ha) bap lai trung binh cua 4 thi nghiem


5940
5125

5498

LSD.05 = 1279
kg/ha
3075

1748

đôi chung

180 N - 90 P2O5 100 kg phân SH

100 kg phân SH + 100 kg phân SH +
60 N
60 N + 100 lít d?ch
VK

Hình 5. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên trung bình năng suất (kg/ha)
bắp lai (giống G49) của 4 điểm thí nghiệm trồng trên đất phù sa của tỉnh Hậu Giang vụ
Xuân Hè 2006
Thông qua những kết quả của những thí nghiệm phân sinh học được thực hiện trên nhiều
vùng đất khác nhau ở đồng bằng sông Cửu Long cho thấy bón phân sinh học bổ sung một
lượng (một phần ba) phân đạm hóa học và không cần bón phân lân hóa học và có thể bổ
sung dịch vi khuẩn lên men hay không tùy vùng đất có độ phì khác nhau sẽ cho kết quả
tương đương với bón nghiệm thức chí bón phân hóa học. Điển hình là thí nghiệm ở xã
Nhơn Nghĩa, huyện Châu Thành A [thí nghiệm ông VINH] có thể tiêu biểu cho hiệu quả

phân sinh học + 60 kg N/ha bổ sung hay không bổ sung 100 lít dịch vi khuẩn lên men/ha
cho hiệu quả tương đương với nghiệm thức bón 180 kg N + 90 kg P2O5/ha..

14


hamluong N tongso trong dat trong bap lai cua 4 thi nghiem

0.2166
NT5
0.2063

NT4
0.1281

NT3

0.125

NT2

NT1

0.1051
0.1392

ban đâu

NT 1 = đối chứng, NT 2 = 180 kg N và 90 kg P2O5 /ha , NT 3 = 100 kg phân sinh học/ha, NT 4 = NT 3 +
60 kg N/ha, NT 5 = NT 4 + 100 lít dịch vi khuẩn lên men


Hình 6. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên hàm lượng N tổng số (%) trung
bình 4 điểm thí nghiệm của đất phù sa trồng bắp lai (giống G49) của tỉnh Hậu Giang
trong vụ Xuân Hè 2006
ham luong P de tieu trong bap trung binh 4 thinghiem

NT5

8.856
6.464

NT4
NT3
NT2

5.816
5.812
8.805

NT1
ban đâu

5.5347

NT 1 = đối chứng, NT 2 = 180 kg N và 90 kg P2O5 /ha , NT 3 = 100 kg phân sinh học/ha, NT 4 = NT 3 +
60 kg N/ha, NT 5 = NT 4 + 100 lít dịch vi khuẩn lên men

Hình 7. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên hàm lượng P dễ tiêu (mg
P2O5/100 g đất) trung bình của 4 điểm thí nghiệm của đất phù sa trồng bắp lai (giống
G49) của tỉnh Hậu Giang trong vụ Xuân Hè 2006

15


3.2 Lúa cao sản
Trong hai địa điểm thí nghiệm lúa cao sản, điểm thí nghiệm ở huyện Châu Thành A có
độ phì cao hơn đặc biệt hàm lượng N tổng số trong khi đó ở điểm thí nghiệm Vị Thủy,
đất có hàm lượng N tổng số quá thấp (bảng 4).
Bảng 4. Thành phần lý hoá tính của 2 điểm thí nghiệm lúa cao sản ở tỉnh Hậu Giang
Địa điểm
thí nghiệm

pH
(Nước)

N
P dễ tiêu
K trao đổi Chất hữu
tổng số (mg P2O5/ 100 (meq/100 g

(%)
đất)
(%)
g đất)

Xã Tân Thuận, huyện Châu
Thành A

5,20

0,217


4,361

0,217

1,720

Thị trấn Nàng Mau, huyện Vị
Thủy

4,09

0,035

5,500

0,419

1,522

Kết quả từ bảng 7 [xem phần phụ chương] cho thấy bón 100 kg phân sinh học bổ sung 20
kg N/ha và 100 lít dịch vi khuẩn chứa IAA cho cây lúa cao sản trồng đất phù sa xã Tân
Thuận, huyện Châu Thành A trong vụ Xuân Hè 2006 cho thành phần năng suất tương
đương với cây lúa cao sản bón phân hóa học (100 kg N và 60 kg P 2O5/ha) đặc biệt là số
hạt chăc/bông lúa (hình 8), trọng lượng 1000 hột lúa và hàm lượng protein trong gạo;
trong vụ Hè Thu, hiệu quả phân sinh học cũng cho kết quả tương tự như vụ Xuân hè 2006
nhưng hàm lượng protein trong gạo của những nghiệm thức bón ít phân đạm hóa học
thấp hơn nghiệm thức bón phân hóa học (bảng 8).

A: đối chứng (không bón phân N và P), B:100 kg N – 60 P2O5/ha, C: 100 kg phân sinh học/ha, D: C + 20

kg N/ha, E: D + 100 lít vi khuẩn lên men chứa IAA/ha

Hình 8. Hiệu quả bón phân sinh học và hoá học trên bông lúa cao sản (giống OM 3536)

16


Hình 16 [xem phần phụ chương] trình bày năng suất lúa trong 2 vụ lúa liên tiếp (vụ
Xuân hè và Hè Thu 2006) đều cho thấy năng suất lúa có bón phân sinh học bổ sung 20 kg
N/ha và 100 lít dịch vi khuẩn chứa IAA tương đương với năng suất lúa chỉ bón phân hóa
học (100 kg N/ha + 60 kg P2O5/ha) và trung bình tổng lượng protein trong gạo cả 2 vụ lúa
cao sản dưới ảnh hưởng của phân sinh học không khác biệt ý nghĩa với lúa chỉ bón phân
hóa học (hình 17). Đồng thời tổng lượng protein gạo trong 1 ha trong cả 2 vụ của lúa bón
phân sinh học bổ sung 20 kg N/ha và 100 lít dịch vi khuẩn (hình 18) qua 2 vụ lúa liên tiếp
trên một miếng đất đã làm hàm lượng N tổng số và lượng P dễ tiêu trong đất giảm thấp so
với ban đầu và nghiệm thức đối chứng (hình 19 và hình 20)[xem phần phụ chương] .
Trong bảng 9 và bảng 10 [xem phần phụ chương] cho thấy bón phân sinh học bổ sung
20 kg N/ha và 100 lít dịch vi khuẩn cho cây lúa trồng ở thị trấn Nàng Mau, huyện Vị
Thủy có thành phần năng suất tương đương với lúa bón phân hóa học tuy nhiên năng suất
lúa còn thấp hơn lúa bón phân hóa học trong cả 2 vụ (hình 21 và hình 22) nhưng tổng
lượng protein trong gạo không khác biệt ý nghĩa (hình 23 và hình 24). Tương tự như thí
nghiệm ở huyện Châu Thành A, hàm lượng N tổng số và hàm lượng P dễ tiêu trong đất
sau 2 vụ đều giảm thấp so với ban đầu nhưng hàm lượng N tổng số không khác biệt giữa
các nghiệm thức trái lại hàm lượng P dễ tiêu có sự khác biệt đáng kể trong đó nghiệm
thức 5 có lượng P dễ tiêu trong đất thấp nhất, điều này cho thấy đất thí nghiệm ở đây (thị
trấn Nàng Mau) có lượng P dễ tiêu thấp hay sự mất cân đối giữa N và P trong đất nếu so
sánh với kết quả phân tích đất ở thí nghiệm Châu Thành A (hình 25 và hình 26)[xem
phần phụ chương].
Tổng kết 4 thí nghiệm lúa ở 2 địa điểm (Châu Thành A và Vị Thủy) cho thấy thành
phần năng suất lúa có bón phân hóa học cao nhất (hình 9 và hình 10) trong đó sự khác

biệt đáng kể là số bông lúa/buội (bảng 5).

Hình 9. Hiệu quả của phân sinh học bổ sung 20 kg N/ha trên lúa cao sản trồng trên đất
phù sa huyện Châu thành A
17


Hình 10. Hiệu quả của phân sinh học bổ sung 20 kg N và 100 lít dịch vi khuẩn lên
men/ha trên lúa cao sản trồng trên đất phù sa huyện Châu thành A
Bảng 5. Hiệu quả phân sinh học và phân hóa học trên cây lúa cao sản (OM 3536) trồng
trên đất phù sa trong tỉnh Hậu Giang [trung bình của 4 thí nghiệm]
Chiều dài

số hột

Nghiệm

Chiều cao
cây lúa

TL.1000

chắc

số bông
lúa

bông lúa

thức


(cm)

(cm)

/bông lúa

/buội

(g)

NT 1

74,65

17,19

43,75

2,30

25,64

6,171

NT 2

90,08

21,77


72,74

3,95

26,35

6,671

NT 3

74,38

17,43

43,73

2,55

25,63

6,521

NT 4

82,38

19,75

57,67


2,94

26,08

6,431

NT 5

86,23

21,27

71,08

3,18

26,34

6,440

F tính

**

**

**

**


**

n.s

LSD.05

5,93

2,13

12,17

0,42

0,39

-

C.V

4,72

7,08

13,88

9,23

0,96


4,82

hột lúa

Hàm lượng
protein trong
gạo
(%)

NT1 = Đối chứng, NT 2 = 100 kg N – 60 P 2O5/ha, NT 3 = 100 kg phân sinh học/ha, NT 4 = 100
kg phân sinh học + 20 kg N/ha, NT 5 = 100 kg phân sinh học + 20 kg N + 100 lít dịch VK/ha

n.s = không khác biệt ý nghĩa thống kê
18


Nangsuat (kg/ha) luacaosan o Hau Giang

LSD.05 = 223
kg/ha

4493
4193

3581

2734
2383


NT1

NT2

NT3

NT4

NT5

nghiêmthuc
Hình 11. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên năng suất (kg/ha) trung bình 4
vụ lúa cao sản trồng trên đất phù sa trong tỉnh Hậu Giang
Điều này dẩn đến năng suất lúa của nghiệm thức này cao nhất kế đến là nghiệm thức 5
[bón phân sinh học bổ sung 20 kg N/ha và 100 lít dịch vi khuẩn ](hình 11) tuy nhiên tổng
lượng protein trong gạo của 2 nghiệm thức không khác biệt ý nghĩa (hình 12); điều đặc
biệt là hàm lượng N tổng số và P dể tiêu trong đất của các nghiệm thức không khác biệt ý
nghĩa, điều này cho thấy phân sinh học với những dòng vi khuẩn huy động dưỡng chất
cung cấp cho cây lúa nhưng không làm ảnh hưởng đến dinh dưỡng của đất (hình 13 và
hình 14). Tuy nhiên, hàm lượng dưỡng chất (N và P) trong đất thấp có lẻ do đất trồng lúa
sau 2 vụ mới phân tích còn đất trồng bắp chỉ có 1 vụ nên hàm lượng N và P khá hơn.
tông luong protein (kg/ha) o hau giang

195.9

NT5
167.8

nghiêm thuc


NT4
129

NT3

LSD.05 = 29,17
kg/ha

NT2
202.3
NT1

105.3

NT1 = Đối chứng, NT 2 = 100 kg N – 60 P 2O5/ha, NT 3 = 100 kg phân sinh học/ha, NT 4 = 100 kg phân
sinh học + 20 kg N/ha, NT 5 = 100 kg phân sinh học + 20 kg N + 100 lít dịch VK/ha

Hình 12. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên tổng lượng protein trong gạo
(kg/ha) trung bình 4 vụ lúa cao sản trồng trên đất phù sa trong tỉnh Hậu Giang
19


ham luong N tong sô (% ) trung binh cua 4 thí nghiem lua

0.176

0.0091

ban đ âu


đ ôi chung

0.0044

0.0054

100 N - 60 P 2O5

100 kg phân SH

0.0069

0.0047

100 kg phân SH + 100 kg phân SH +
20 N
20 N +100 lít dich
VK

Hình 13. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên hàm lượng N tổng số (%)
trong đất trung bình của 4 vụ lúa cao sản trồng trên đất phù sa tỉnh Hậu Giang
ham luong P de tieu trung binh cua 4 thi nghiem lua
4.9305

0.72

ban đ âu

đ ôi chung


0.608

100 N - 60 P 2O5

0.335

100 kg phân SH

0.623
0.167

100 kg phân SH + 100 kg phân SH +
20 N
20 N +100 lít dich
VK

Hình 14. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên hàm lượng P dễ tiêu trong đất
(mg P2O5/100 g đất) trung bình 4 vụ lúa cao sản trồng trên đất phù sa trong tỉnh Hậu
Giang
Diện tích trồng lúa cao sản ở đồng bằng sông Cửu Long chiếm một diện tích chủ lực vì
thế có nhiều thí nghiệm thực hiện trên đối tương này trong đó phân sinh học trên cây lúa
cao sản cũng được nghiên cứu nhằm thay thế một phần hóa học. Những thí nghiệm của
chúng tôi được thực hiện ở 3 địa điểm trong tỉnh Kiên Giang (Hòn Đất, Tân Hiệp và Vĩnh
20


Thuận) trên cây lúa cao sản (Jasmin 85) cho thấy bón 100 kg phân sinh học cùng với 20
kg N/ha và bổ sung dịch vi khuẩn lên men (100 đến 150 lít/ha) cho năng suất cao nhất và
không khác biệt ý nghĩa với nghiệm thức chỉ bón phân hóa (100 kg N và 60 kg P 2O5/ha),
đây là những địa phương rất gần với địa điểm thí nghiệm ở Hậu Giang (Cao Ngọc Điệp,

2006b). Ở vùng đất phù sa ven sông Vàm Cỏ (ba huyện Tân Thạnh, Thủ Thừa, Thạnh
Hóa) thuộc tỉnh Long An, 6 thí nghiệm thực hiện với 2 vụ liện tiếp cho thấy bón 100 kg
phân sinh học và bổ sung 20 kg N/ha cùng với 100 lít dịch vi khuẩn lên men/ha cho năng
suất tương đương với bón 100 kg N và 60 kg P 2O5/ha (Cao Ngọc Diệp, 2006a) trên lúa
cao sản (giống VND 95-20), ngoài ra những thí nghiệm trên lúa đặc sản như Một Bụi
Vĩnh Thuận (Cao Ngọc Điệp, số liệu chưa công bố), Tài Nguyên và Nàng Thơm Chơ
Đào (Cao Ngọc Điệp, 2006a) đều cho kết quả tích cực. Kết quả thí nghiệm 2 địa điểm
trồng lúa trong tỉnh Hậu Giang (Châu Thành A và Vị Thủy) trong 4 vụ cho thấy bón 100
kg phân sinh học và 20 kg N/ha cùng với 100 lít vi khuẩn lên men cho năng suất còn thấp
hơn năng suất lúa bón phân hóa học nhưng tổng lượng protein trong gạo/ha thì không
khác biệt với nghiệm thức bón phân hóa học có lẻ vùng đất phù sa ở huyện Vị Thủy có
độ phì kém hơn so với thí nghiệm thực hiện ở xã Tân Thuận, huyện Châu Thành A [thí
nghiệm của ông HẢI] và là thí nghiệm điển hình cho hiệu quả phân sinh học trên cây lúa
cao sản trồng ở tỉnh Hậu Giang, đây cũng là điểm mà chúng tôi đề nghị qúi Sở tiếp tục
ủng hộ chúng tôi nghiên cứu sâu hơn và nhiều địa điểm hơn để có kết quả cụ thể với công
thức phân sinh học cùng với phân hóa học ở mức tối ưu nhất.
+ Số lượng hột lúa gia tăng so với đối chứng (không bón phân N và P):
NT 2 [100 kg N – 60 kg P2O5/ha] = 2110 kg/ha
NT 3 [100 kg phân sinh học/ha] = 351 kg/ha
NT 4 [NT 3 + 20 kg N/ha] = 1148 kg/ha
NT 5 [NT 4 + 100 lít vi khuẩn lên men/ha] = 1810 kg/ha
Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng N nông học ( ΔANUE = Agronomic N use-efficiency)
NT 2 = 21,1%
NT 3 = 35,1%
NT 4 = 59,9%
NT 5 = 90,5%
Như vậy, bổ sung 100 lít vi khuẩn lên men/ha góp phần tăng thêm 612 kg/ha so với
NT 4 hay hiệu quả sử dụng ΔANUE = 30,6% tăng thêm
* Tổng lượng protein trong gạo
NT 1 = 105,3 kg/ha protein

gia tăng so với đối chứng
NT 2 = 202,3
97,0 kg/ha protein
NT 3 = 129,0
23,7
NT 4 = 167,8
62,5
NT 5 = 195,9
90,6
Như vậy bổ sung 100 lít/ha dịch vi khuẩn thêm được 28,1 kg protein/ha và thêm 66,9 kg
protein/ha so với bón 100 kg phân sinh học/ha
** Tổng lượng N trong gạo
NT 1 = 18,155 kg N/ha
gia tăng so với đối chứng
NT 2 = 34,879
16,724 kg N/ha
NT 3 = 22,241
4,086
NT 4 = 28,931
10,776
NT 5 = 33,776
15,621
Như vậy bổ sung 100 lít/ha dịch vi khuẩn thêm được 4,845 kg N/ha và thêm 11,535 kg
N/ha so với bón 100 kg phân sinh học/ha
21



×