Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nghiên cứu sản xuất phân sinh học đa chủng bón cho lúa cao sản, bắp lai, mía đường và khóm trồng trong tỉnh hậu giang phần 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.23 MB, 14 trang )

3.3 Khóm
Bảng 6. Thành phần lý hoá tính của 4 điểm thí nghiệm KHÓM ở tỉnh Hậu Giang
Địa điểm thí nghiệm

pH
N tổng số
P dễ tiêu
K trao đổi Chất hữu

(Nước)
(%)
(mg P2O5/ 100 (meq/100 g
đất)
(%)
g đất)

Xã Hoả Tiến, TX. Vị Thanh 2,98
(ô. Đáng)

0,028

1,156

0,109

6,328

Xã Hoả Tiến, TX. Vị Thanh 3,48
(Ô. Văn)

0,066



1,539

0,207

0,688

Xã Hỏa Lựu, TX. Vị Thanh
(Ô. Sen)

3,02

0,035

3,071

0,100

0,789

Xã Hỏa Lựu, TX. Vị Thanh
(Ô. Võ)

3,10

0,059

3,839

0,241


0,822

Từ bảng 6 cho thấy cả 4 điểm thí nghiệm Khóm có độ pH quá thấp, hàm lượng dinh
dưỡng thấp và chỉ có 1 điểm có hàm lượng chất hữu cơ khá, 3 điểm còn lại có chất hữu
cơ quá thấp; đây là đặc trưng của vùng trồng khóm ở Hậu Giang [địa danh Khóm Cầu
Đúc ở vùng Hoả Lựu - Hoả Tiến, Vị Thanh](hình 16)

Hình 15. Toàn cảnh của một thí nghiệm Khóm ở xã Hoả Lựu, thị xã Vị Thanh
22


Kết quả từ bảng 11 [xem phần phụ chương] cho thấy phân sinh học và phân hóa học
làm tăng chiều dài (cao), đường kính và trọng lượng trái khóm so với đối chứng thế
nhưng bón phân hóa học làm giảm độ Brix so với các nghiệm thức một có ý nghĩa thống
kê. Trong hình 27 [xem phần phụ chương] cho thấy bón phân sinh học và phân hóa học
gia tăng năng suất khóm trái, điều đặc biệt là nghiệm thức bổ sung thêm 100 lít dịch vi
khuẩn lên men chứa IAA cho năng suất khóm trái cao nhất và không khác biệt ý nghĩa so
với nghiệm thức bón phân hóa học.
Điều đáng chú ý là hàm lượng N tổng số trong đất trước khi thí nghiệm thấp nhưng
sau khi thí nghiệm đất được phân tích cho thấy hàm lượng N tổng số tăng gấp 5 đến 7 lần
so với lúc ban đầu, điều này cho thấy nông dân có lẻ bón thêm phân đạm hóa học (hình
28) [xem phần phụ chương] nhưng hàm lượng P dể tiêu trong đất sau khi thu hoạch trái
khóm lại giảm thấp 10 lần so với lúc ban đầu (hình 29) [xem phần phụ chương] có lẻ do
nhu cầu phát triển của trái khóm cần nhiều lân nhưng nông dân lại không bón bổ sung
như phân đạm hóa học tuy nhiên nghiệm thức có sử dụng phân sinh học có hàm lượng P
dể tiêu cao so với nghiệm thức bón phân hóa học.
Kết quả từ bảng 12 [xem phần phụ chương] cho thấy hiệu quả phân sinh học và phân
hóa học trên thành phần năng suất và độ Brix trái khóm trồng trên đất phèn xã Hỏa Tiến
tương tự như thí nghiệm của ông Đáng, điều đặc biệt là năng suất khóm trái của nghiệm

thức có bổ sung dịch vi khuẩn lên men cao nhất và khác biệt với nghiệm thức bón phân
hóa học (hình 30); kết quả hàm lượng N tổng số và P dể tiêu trong đất tương tự như thí
nghiệm của ông Đáng (hình 31 và hình 32)[xem phần phụ chương].
Kết quả từ bảng 13 [xem phần phụ chương] cho thấy bón phân hoá học gia tăng đường
kính trái khóm đáng kể cũng như gia tăng độ Brix trong trái khóm tươi tuy nhiên bón
phân sinh học bổ sung thêm 100 lít dịch vi khuẩn lên men có thành phần năng suất cũng
như độ Brix cao nhất; hình 33 cho thấy năng suất khóm trái bón phân sinh học và một
phân nửa lượng phân hoá học có hay không bổ sung dịch vi khuẩn lên men cao và khác
biệt ý nghĩa so với nghiệm thức chỉ bón phân hoá học hay sinh học [không bổ sung thêm
phân hoá học] tuy nhiên không có sự khác biệt về hàm lượng N tổng số trong đất giữa
các nghiệm thức (hình 34)[xem phần phụ chương] nhưng hàm lượng Lân dể tiêu trong
đất sau khi thu hoạch khóm có sự sụt giảm so với ban đấu như hai thí nghiệm trước
nhưng hai nghiệm thức bón phân sinh học bổ sung phân hoá học và dịch lên men vi
khuẩn có hàm lượng P dễ tiêu cao (hình 35)[xem phần phụ chương].
Trong bảng 14 [xem phần phụ chương] cho thấy hiệu quả của phân sinh học và phân
hoá học trên chiều dài trái khóm và trọng lượng trái khóm so với đối chứng tuy nhiên bón
phân hoá học có khuynh hướng làm giảm độ Brix của trái khóm; năng suất khóm trái cao
nhất ở nghiệm thức bón phân sinh học bổ sung phân hoá học và dịch lên men vi khuẩn kế
đến là nghiệm thức bón phân hoá học (hình 36)[xem phần phụ chương]; tương tự như các
thí nghiệm trước hàm lượng N tổng số trong đất tăng sau khi thu hoạch trái lại hàm lượng
P dễ tiêu lại giảm rỏ rệt (hình 37 và hình 38)[xem phần phụ chương].
Tổng kết trung bình 4 thí nghiệm khóm tại thị xã Vị Thanh cho thấy bón phân hoá học
và phân sinh học làm tăng chiều dài trái, đường kính trái và trọng lượng trái khóm so với
đối chứng không bón phân tuy nhiên bón phân sinh học tăng độ Brix của trái khóm có ý
nghĩa thống kê so với khóm chỉ bón phân hoá học hay không bón phân (đối chứng), điều
này cho thấy phân sinh học cải thiện chất lượng trái khóm (bảng 7); bón phân sinh học bổ
sung thêm phân nủa lượng phân hoá học và 100 lít vi khuẩn cho năng suất khóm trái cao
nhất (hình 16) so với đối chứng (hình 17 và hình 18) nhưng không ảnh hưởng đến lượng
N và P trong đất (hình 19 và hình 20).


23


Bảng 7. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên thành phần năng suất và độ
Brix của trái Khóm trồng trên đất phèn trong thị xã Vị Thanh (trung bình 4 TN)
Nghiệm
thức

Chiều cao
trái khóm
(cm)

Đường kính
trái khóm
(cm)

Trọng
lượng trái
khóm
(kg)

Độ
Brix

Đối chứng

18,30

10,32


1,083

11,470

4 g urê, 2 g lân, 4 g kali/gốc

18,96

10,81

1,165

11,427

50 g phân sinh học/gốc

19,09

10,70

1,182

11,895

50 g phân sinh học + 2 g urê, 1 g
lân, 2 g kali/gốc

19,24

10,64


1,190

11,981

50 g phân sinh học + 2 g urê, 1 g
lân, 2 g kali + 0,2 lít/gốc

19,39

10,69

1,234

12,293

LSD.05

0,30

0,32

0,038

0,423

CV (%)

1,05


2,01

2,19

2,42

nang suât (T/ha) khóm trái trung bình 4 thí nghiêm

LSD.05 = 0,597 T/ha

23,774

24,405

23,774

23,382

21,992

doi chung

4 g urê, 2 g lân, 4 g 50 g phân SH/gôc
kali/gôc

50 g phân SH+2 g 50 g phân SH+2 g
urê, 1g lân, 2 g
urê, 1g lân, 2 g kali
kali/gôc
+0,2 lí t dich

vk/gôc

Hình 16. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên năng suất khóm trái (T/ha)
[trung bình 4 vụ] trồng trên đất phèn trong thị xã Vị Thanh vụ 2006-2007

24


Hình 17. Trái khóm của nghiệm thức đối chứng

Hình 18. Trái khóm của nghiệm thức bón phân sinh học (thí nghiệm ở xã Hỏa Lựu, Vị
Thanh [thí nghiệm Ô. Đáng]
25


ham luong N tông sô (%) trong dât trông khóm (TB 4 thí nghiê m)

0,2062

50 g phân SH+2 g urê, 1g lân,
2 g kali +0,2 lít dich vk/gôc

0,1975

50 g phân SH+2 g urê, 1g lân,
2 g kali/gôc

0,1913

50 g phân SH/gôc


0,1889

4 g urê, 2 g lân, 4 g kali/gôc

0,1843

doi chung

ban dâu

0,047

Hình 19. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên hàm lượng N tổng số (%)
[trung bình 4 vụ] trong đất trồng khóm trong thị xã Vị Thanh vụ 2006-2007

ham luong P de tiê u trong dât trông khóm (TB 4 thí nghiê m)

50 g phân SH+2 g urê, 1g lân,
2 g kali +0,2 lít dich vk/gôc
50 g phân SH+2 g urê, 1g lân,
2 g kali/gôc

50 g phân SH/gôc

4 g urê, 2 g lân, 4 g kali/gôc

doi chung

ban dâu


0,6281
0,5415
0,4832
0,4168
0,3842
2,651

Hình 20. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên hàm lượng P dể tiêu (mg
P2O5/100 g đất) [trung bình 4 vụ] trong đất trồng khóm trong thị xã Vị Thanh vụ 20062007
26


Ở đồng bằng sông Cửu Long, cây Khóm được trồng tập trung ở 2 vùng đất phèn đặc
trưng là Đồng Tháp Mười (vùng Tân Phước, Tiền Giang và Bến Lức, Thủ Thừa, Đức
Hoà, Đức Huệ, tỉnh Long An) và vùng tam giác nổi tiếng Vị Thanh, Bạc Liêu, Kiên
Giang (Vĩnh Thuận) và một số ít ở Hòn Đất. Đa số cây Khóm trồng ở vùng này thuộc
nhóm Queen và Vị Thanh với 2 xã Hoả Lựu và Hoả Tiến với cây Khóm Cầu Đúc. Để có
những thành tựu trên, nông dân phải bón một lượng lớn phân hoá học cho cây Khóm từ 6
đến 10 g N/cây, 2 đến 4 g P2O5/cây và 6 đến 10 g K2O/cây khóm nhóm Queen trồng ở các
tỉnh miền Bắc ở mật độ 40.000 cây/ha (Trần thế Tục và Vũ Mạnh Hải, 2000) có thể năng
suất đạt >30 tấn trái/ha, những kết quả trồng khóm ở Hawaii với công thức phân bón là
209 k N, 55 kg P2O5, 667 kg K2O và 105 kg CaO/ha năng suất có thể đạt trên 55 tấn/ha
( trích từ Trần thế Tục và Vũ Mạnh Hải, 2000) tuy nhiên các công thức phân bón có kèm
theo một số lượng lớn Magiê và Canxi, có lẻ vùng đất này thiếu dinh dưỡng hay pH thấp;
kết quả thí nghiệm ở Vị Thanh cho thấy chỉ với 50 g phân sinh học, 2 g urê, 1 g lân , 2 g
kali và 0,2 lít dịch vi khuẩn lên men/gốc cho trọng lượng trái, độ Brix và năng suất trái
cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng N tổng số trong đất sau khi thu hoạch trái quá cao so với
ban đầu cho nên chúng tôi nghỉ nông dân sử dụng phân đạm hoá học quá nhiều trong khi
phân lân quá ít hay không bón (kết quả từ hình 17 cho thấy hàm lượng P dể tiêu trong đất

quá thấp so với ban đầu). Những kết quả bước đầu của Tapia-Hernandez et al. (2000) cho
thấy hiệu quả tích của vi khuẩn Gluconacetobacter diazotrophicus trong việc cung cấp
đạm sinh học cho cây khóm và mở ra triển vọng sử dụng vi khuẩn này làm phân sinh
học; trong phân sinh học của thí nghiệm sử dụng hai chủng vi khuẩn Gluconacobacter
diazotrophicus cố định đạm và Pseudomonas stutzeri hoà tan lân khó tan đã góp phần
mang lại kết quả trên. Kết quả thí nghiệm ở xã Hỏa Lựu, thị xã Vị Thanh (thí nghiệm ông
ĐÁNG) tiêu biểu cho mô hình thí nghiệm phân sinh học trên cây KHÓM trồng ở tỉnh
Hậu Giang
3.4 Mía đường
Bảng 8. Đặc tính lý hoá tính của đất thí nghiệm MÍA ĐƯỜNG trong tỉnh Hậu Giang
pH
Địa điểm thí nghiệm

(Nước)

N tổng
số

P dễ tiêu

K trao đổi

(%)

(mg P2O5/
100 g đất)

(meq/100 g
đất)


Chất
hữu cơ
(%)

xã Hiệp Hưng, huyện Phụng
Hiệp

4,26

0,021

7,400

0,184

2,277

TT cây Dương, huyện Phụng
Hiệp

4,47

0,014

4,639

0,308

4,815


Xã Hỏa Tiến, thị xã Vị Thanh

4,41

0,028

9,083

0,258

4,333

Xã Vĩnh Viển, huyện Long Mỹ

4,85

0,098

7,972

0,237

3,439

Trong bảng 7 cho thấy thành phần dinh dưỡng trong 4 điểm thí nghiệm mía có độ phì
trung bình đến khá, đặc biệt là lân dễ tiêu và chất hữu cơ {mức tương đối].
27


Kết quả từ bảng 15 [xem phần phụ chương] cho thấy phân sinh học và phân hóa học làm

tăng số cây mía/40 m2, đường kính cây mía so với đối chứng thế nhưng bón phân hóa học
hay phân hóa học không thay đổi độ Brix một có ý nghĩa thống kê. Trong hình 39 [xem
phần phụ chương] cho thấy bón phân sinh học và phân hóa học gia tăng năng suất mía
cây, điều đặc biệt là nghiệm thức bổ sung thêm 100 lít dịch vi khuẩn lên men chứa IAA
cho năng suất mía cây cao nhất và không khác biệt ý nghĩa so với nghiệm thức bón phân
hóa học.
Điều này đã giúp tổng lượng đường trong 1 ha của nghiệm thức bón phân sinh học và bổ
sung 100 lít dịch vi khuẩn lên men cao nhất (hình 40)[xem phần phụ chương]; đáng chú ý
là hàm lượng N tổng số trong đất trước khi thí nghiệm thấp nhưng sau khi thí nghiệm đất
được phân tích cho thấy hàm lượng N tổng số tăng so với lúc ban đầu, điều này cho thấy
nông dân bón nhiều phân đạm hóa học cho cây mía đường (hình 41)[xem phần phụ
chương] nhưng hàm lượng P dể tiêu trong đất sau khi thu hoạch vụ 1 lại giảm thấp hơn
10 lần so với lúc ban đầu (hình 42)[xem phần phụ chương] có lẻ do nhu cầu phát triển
của cây mía cần nhiều lân nhưng nông dân lại không bón bổ sung như phân đạm hóa học
tuy nhiên nghiệm thức có sử dụng phân sinh học có hàm lượng P dể tiêu cao so với
nghiệm thức bón phân hóa học.
Trong điểm thí nghiệm ở xã Hiệp Hưng với giống mía VD 86-368, hiệu quả của phân
sinh học bổ sung ¼ phân đạm hóa học có thêm 100 lít dịch vi khuẩn lên men hay không
đều tăng chiều cao cây mía, trọng lượng cây mía và độ Brix (bảng 16)[xem phần phụ
chương], và giúp năng suất mía tương đương với mía bón phân hóa học (hình 43)[xem
phần phụ chương] cũng như tổng lượng đường trong 1 ha (hình 44)[xem phần phụ
chương]. Trái với thí nghiệm ở thị trấn Cây Dương, hàm lượng N tổng số trong đất giảm
rất thấp vì cây mía rất cần nhiều phân đạm hóa học để phát triển (hình 45)[xem phần phụ
chương] trong khi đó hàm lượng P dễ tiêu trong đất trồng mía sau khi thu hoạch giảm
thấp nhất là nghiệm bổ sung dịch vi khuẩn lên men mặc dù không có sự khác biệt ý nghĩa
giữa các nghiệm thức (hình 46)[xem phần phụ chương].
Trong bảng 17 [xem phần phụ chương]cho thấy thành phần năng suất mía ở vùng này
thấp hơn 2 thí nghiệm trước nhưng độ Brix trong nước mía cao có lẻ do giống mía tuy
nhiên bón phân sinh học thêm 50 kg N/ha [bổ sung 100 lít dịch vi khuẩn hay không] đều
tăng số mía cây/40 m2 và trọng lượng 1 cây mía, điều này giúp năng suất mía cây cao và

tương đương với năng suất mía bón phân hóa học (hình 47) cũng như tổng lượng đường
trong 1 ha (hình 48). Tương tự như hai thí nghiệm trên, hàm lượng N tổng số trong đất
giảm thấp sau khi thu hoạch mía so với lúc ban đấu (hình 49) và lượng P dễ tiêu trong đất
cũng giảm thấp dù trong đất lượng P dễ tiêu đang ở mức thấp, có lẻ do nông dân ít chú ý
đến đầu tư phân lân so với phân đạm hóa học (hình 50)[xem phần phụ chương].
Bảng 18 [xem phần phụ chương] trình bày những kết quả khác thường như chiều cao cây
mía của nghiệm thức đối chứng cao nhất tuy nhiên các nghiệm thức bón phân hóa học và
phân sinh học bổ sung phân đạm hóa học gia tăng số lượng cây mía trên 40 m 2, trọng
lượng cây mía và độ Brix của cây mía; chính những yếu tố này tăng năng suất mía cây
(hình 51) và tổng lượng đường trong 1 ha (hình 52) một cách đáng kể. Thí nghiệm này
cũng cho thấy cây mía phát triển ở vùng Long Mỹ kém hơn ba vùng trên, điều có thể giải
thích kết quả này là thành phần dinh dưỡng của vùng đất này kém thông qua lượng N
tổng số (hình 53) và hàm lượng P dễ tiêu trong đất (hình 54)[xem phần phụ chương].
Bảng 9 trình bày số liệu trung bình của 4 thí nghiệm mía trong tỉnh Hậu Giang trong
đó chỉ tiêu chiều cao cây và đường kính cây mía không ảnh hưởng bởi phân bón hóa học
hay phân sinh học mà chủ yếu hai chỉ tiêu này chịu sự tác động của giống mía hơn là của
phân bón, trái lại phân hóa học và phân sinh học tác động mạnh lên số cây mía/ 40 m 2
28


(hình 21 và hình 22) và trọng lượng cây mía trong đó bón phân hóa học và phân sinh học
bổ sung thêm 50 kg N/ha (một phần tư của lượng phân N phổ biến) và tưới 100 lít dịch vi
khuẩn lên men/ha cho số mía cây và trọng lượng 1 cây mía tương đương với bón 200 kg
N và 90 kg P2O5/ha. Chính hai thành phần năng suất của cây mía tác động đến năng suất
mía cây/ha (bảng 10), điều này được chứng minh qua sự tương quan giữa số cây mía và
năng suất (hình 23) và trọng lượng cây mía với năng suất (hình 24). Mặc dù bộ Brix
không khác biệt giữa các nghiệm thức nhưng sự tương qua giữa năng suất mía cây và
tổng lượng đường rất chặt chẻ (hình 25).
Bảng 8. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên thành phần năng suất và độ
Brix của cây mía đường trồng trên đất phù sa trong tỉnh Hậu Giang (TB 4 thí nghiệm)

Nghiệm thức

Chiều
cao cây
mía

Số cây
mía /
40 m

2

(m)

Đường
kính cây
mía

Trọng
lượng 1
cây mía

(cm)

(kg)

Độ
Brix

Đối chứng (không bón phân N và

P)

3,10

257,88

2,47

1,42

18,66

200 kg N + 90 kg P2O5/ha

3,28

308,39

2,58

1,77

19,99

100 kg phân sinh học/ha

3,03

271,00


2,55

1,56

19,15

100 kg phân sinh học/ha + 50 kg
N/ha

3,24

296,60

2,56

1,71

19,43

100 kg phân sinh học/ha + 50 kg
N/ha + 100 lít dịch vi khuẩn lên
men

3,22

305,21

2,57

1,77


20,10

LSD.05

n.s

17,37

n.s

0,13

n.s

F tính

-

**

-

**

-

CV (%)

4,21


5,76

3,97

5,49

4,61

Phân sinh học và phân hoá học tác động đến số cây mía trong 1 đơn vị diện tích và trọng
lượng cây mía rỏ rệt trong khi đó chiều cao cây mía, đường kính cây mía và độ Brix
không có ảnh hưởng, có lẻ những đặc tính này do giống mía quyết định và ít có biến
động bởi phân bón (bảng 8); phân bón lại quyết định nhiều đến năng suất mía và điều này
dẩn đến tổng lượng đường thu được trong một đơn vị diện tích cao hơn hẳn (bảng 9)
trong nghiệm thức bón 100 kg phân sinh học và 50 kg N/ha [bổ sung 100 lít/ha dịch vi
khuẩn lên men hay không] cho năng suất mía cây và tổng lượng đường tương đương với
cây mía chỉ bón 200 kg N và 90 kg P2O5/ha, sự tương quan giữa năng suất mía cây với số
cây mía (hình 6), với trọng lượng cây mía (hình 7) và tổng lượng đường (hình 8) rất chặt
chẻ (1%), điều này cho thấy tác động của phân bón đến số cây, trọng lượng cây mía đến
năng suất và tổng lượng đường thu được.
29


Hình 21. Số mía cây con trên một diện tích của nghiệm thức đối chứng

Hình 22. Số mía cây con trên một diện tích của nghiệm thức bón phân sinh học
(Cả hai hình được chụp từ thí nghiệm mía ở thí nghiệm xã Hoả Tiến, thị xã Vị Thanh)
30



Trong các khuyến cáo trong canh tác mía đuờng, các cơ quan khuyến nông thường
khuyên nông dân sử dụng một lượng lón phân đạm hoá học bên cạnh đó một lượng lớn
phân lân và phân kali có nguồn gốc từ phân khoáng và để đãm bảo một năng suất mía cây
có lãi, số lượng phân đạm hoá học cần bón từ 180 đến 200 kg N/ha (khuyến cáo của
Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ [Casuco]), phân lân hoá học từ 60 đến 90 kg
P2O5/ha và phân Kali từ 80 đến 90 K2O/ha trên nhiều vùng đất có đặc tính khác nhau.
Chính vì sử dụng một lượng lớn phân hoá học cũng như thời gian canh tác khá lâu (từ 10
đến 12 tháng tùy giống mía) cho nên khi gần thời điểm thu hoạch, nếu có những biến
động về giá cả, nông dân sẽ chịu thiệt thòi về thu nhập do giá thành khá cao.
Bên cạnh đó những thành tựu khoa học kỹ thuật đặc biệt về canh tác mía đường ở những
quốc gia thâm canh mía đường như Brasil chẳng hạn đã có những tiến bộ đáng kể, nổi bật
nhất là loài vi khuẩn Gluconacobacter diazotrophicus nội sinh trong cây mía và cố định
đạm sinh học cung cấp cho cây mía được khám phá từ lâu (Calvacante và Dobereiner,
1988) và được nhiều nhà khoa học Ấn độ nghiên cứu sâu hơn và họ đề xuất như là một
loài vi khuẩn lý tưởng không những cho cây mía đường mà còn cho nhiều cây trồng
thuộc họ hoà bản khác để cung cấp đạm sinh học (Muthukumarasamy et al, 2002;
Boddey et al, 2003). Những kết quả thí nghiệm của chúng tôi trên giống mía đường
VĐNL-7 trồng trên đất phèn huyện Bến Lức, tỉnh Long An cho thấy hiệu quả phân sinh
học gồm 2 chủng vi khuẩn Gluconacobacter diazotrophicus cố định đạm và
Pseudomonas stutzeri hoà tan lân khó tan đã có kết quả tích cực làm giảm phân nửa
lượng phân đạm hoá học (92 kg thay vì 184 kg N/ha/2 vụ) và không bón phân lân hoá
học như vậy nông dân tiết kiệm được 92 kg N và 96 kg P2O5/ha mà năng suất mía cây và
tổng lượng đường/ha còn cao hơn nghiệm thức chỉ bón phân đạm và lân hoá học (Cao
Ngọc Điệp và Bùi thị Kiều Oanh, 2006).
Bảng 9. Hiệu quả của phân sinh học và phân hóa học trên năng suất mía cây và tổng
lượng đường của mía trồng trên đất phù sa trong tỉnh Hậu Giang (TB 4 thí nghiệm)
Nghiệm thức

Năng suất mía cây
(T/ha)


Tổng lượng đường
(kg/ha)

Đối chứng

93,97

1734,50

200 kg N + 90 kg P2O5/ha

138,46

2748,36

100 kg phân sinh học/ha

108,37

2041,79

100 kg phân sinh học/ha + 50 kg N/ha

129,05

2520,74

100 kg phân sinh học/ha + 50 kg N/ha + 100 lít
dịch vi khuẩn lên men

LSD.05

CV (%)

400

350
s? cây mía/40 m2

F tính

tuong quan năng suât va so m ía cây/ha

300

137,39

2732,52

13,95

336,67

**

**

7,45

9,65


250

y = 1,0656x + 158,4
R2 = 0,5884

200

31

150
40

90

140
năng suât

190

240


Hình 23. Tương quan giữa số cây mía/40 m2
và năng suất mía cây rất chặt chẻ

tuong quan năng suât voi TL cây mia
2.2
2


Hình 24. Tương quan giữa TL một cây mía và
năng suất mía cây rất chặt chẻ (1%)

TL. cây mia (kg)

1.8
1.6
1.4

y = 0.0061x + 0.9056
2

R = 0.9347

1.2
1
40

90

năng suât

140

190

tuong quan nang suat va tông luong duong
4000
3500
3000

tông luơng duong (kg/ha)

Hình 25. Tương quan giữa năng suất mía cây
và tổng lượng đường
rất chặt chẻ (1%)

2500
2000
1500

y = 15.191x + 510.72
R2 = 0.6352

1000
500
40

90

140

190

240

năng suât (T/ha)
Kết quả tổng hợp từ 4 thí nghiệm đánh giá hiệu quả phân sinh học
(gồm 2 chủng vi
khuẩn trên) ở 4 điểm trồng mía trong tỉnh Hậu Giang (huyện Phụng Hiệp, thị xã Vị


32


Thanh, huyện Long Mỹ) cho thấy bón 100 kg phân sinh học bổ sung 50 kg N/ha (chỉ
bằng ¼ lượng phân đạm khuyến cáo) và có tưới thêm dịch vi khuẩn lên men hay không
đều cho năng suất và tổng lượng đường không thua nghiệm thức mía chỉ bón phân đạm
và lân hoá học, điều này cho thấy trong đất phù sa ở tỉnh Hậu Giang, lượng phân đạm tiết
kiệm hay chỉ sử dụng ban đầu ít hơn so với cây mía trồng ở Bến Lức hay nói khác hơn
đất phù sa có độ phì cao hơn đất phèn Bến Lức nên lượng phân đạm chỉ bón ít hơn; như
vậy bón phân sinh học tiết kiệm được 150 kg N và 90 kg P2O5/ha, giá thành cây mía có
thể hạ xuống nhiều lần và nông dân có thể thu nhập cao hơn; điều quan trọng là sự tận
dụng chất thải MÙN MÍA của nhà máy đường làm chất mang cho vi khuẩn sống và phát
triển trong đó; sự hoàn trả phế phẩm của cây mía sau khi chế biến là biện pháp kinh tế
không những giúp cho nhà máy giải quyết chất thải để không bị ô nhiễm môi trường
đồng thời tận dụng thành phân bón sinh học cho chính cây mía đường. Kết quả thí
nghiệm từng điểm cụ thể trong đó thí nghiệm ở xã Hỏa Tiến, thị xã Vị Thanh (thí nghiệm
ở điểm ông LÓNG) tiêu biểu cho mô hình thí nghiệm phân sinh học trên cây MÍA trồng
trong tỉnh Hậu Giang
3.5 Lợi nhuận từ sự tiết kiệm phân bón
Trong phần tính toán hiệu quả kinh tế, chúng tôi chỉ so sánh giữa nghiệm thức bón phân
sinh học có năng suất (hay chất lượng) tương đương với nghiệm thức bón phân hoá học;
qua đó nông dân có thể tiết kiệm được số tiền phải bỏ ra để mua phân hoá học bón cho
cây trồng
1. Bắp Lai
Với kết quả 4 thí nghiệm trong tỉnh Hậu Giang, năng suất bắp lai (giống G49) có bón
180 kg N/ha và 60 kg P2O5 tương đương với năng suất lô bón 60 kg N như vậy tiết kiệm
được 120 kg N và 60 kg P2O5 tương đương với 260,87 kg ure và 400 kg phân lân supe trị
giá 1.173.915 đồng (260,87 x 4.500 đ/kg ure) và 480.000 đồng (400 kg x 1.200 đ/kg
phân lân) tổng cộng là 1.653.915 đồng.
2. Lúa cao sản

Kết quả thí nghiệm lúa cao sản ở huyện Châu Thành A và huyện Vị Thủy cho thấy
nghiệm thức bón 100 kg N/ha + 60 kg P2O5/ha có năng suất tương đương với nghiệm
thức bón 100 kg phân sinh học + 20 kg N/ha nên nông dân tiết kiệm được 80 kg N/ha =
174 kg ure x 5.500 đ/kg = 957.000 đồng và 60 kg P 2O5/ha = 400 kg SP x 1.500 đ/kg =
600.000 đồng. Tổng chi phí là 1.557.000 đồng - 200.000 đồng (tiền phân sinh học và
dịch vi khuẩn lên men) = 1.457.000 đồng.
3. Mía đường
Thí nghiệm tổng kết mía đường 4 điểm trong tỉnh Hậu Giang cho thấy nghiệm thức
bón 200 kg N/ha + 90 kg P2O5 cho mía đường có năng suất và tổng lượng đường tương
đương với nghiệm thức bón 100 kg phân sinh học + 50 kg N/ha nên nông dân có thể tiết
kiệm được 150 kg N = 326 kg ure x 5.500 đ/kg = 1.760.000 đồng + 90 kg P 2O5 = 600 kg
SP x 1.500 đ/kg = 900.000 đồng, như vậy nông dân tiết kiệm được số tiền là 2.660.000
đồng/ha - 200.000 đồng (tiền phân sinh học và dịch vi khuẩn lên men) = 2.460.000
đồng.
4. Khóm

33


Trung bình 4 thí nghiệm khóm ở 2 xã Hoả Lựu và Hoả Tiến, thị xã Vị Thanh cho thấy
nghiệm thức bón 50 g phân sinh học/gốc tương đương với nghiệm thức bón 4 g urê, 1 g
lân và 4 g kali/gốc [160 kg urê, 40 kg supe lân, 160 kg KCl] nên nông dân tiết kiệm được
1.120.000 đồng (160 kg urê x 5.500 đ/kg = 880.000 đồng, 40 kg supe lân x 1.500 đ/kg =
60.000 đồng và 160 kg KCl x 3.000 đ/kg = 480.000 đồng) – (200 kg phân sinh học x
1.500 đ/kg = 300.000 đồng).

IV. Kết luận và đề nghị
Qua những kết quả thí nghiệm trình bày ở phần trên, chúng tôi rút ra được những kết
luận sau:
1. Bón 100 kg phân sinh học và 60 kg N/ha [có thể bổ sung dịch vi khuẩn lên men

hay không] cho năng suất bắp hột tương đương bắp bón 180 kg N và 90 kg P2O5 /ha
2. Bón 100 kg phân sinh học, 20 kg N và 100 lít vi khuẩn lên men/ha cho cây lúa cao
sản có năng suất thấp lúa bón 100 kg N và 60 kg P 2O5 /ha nhưng tổng lượng protein trong
gạo/ha tương đương.
3. Bón 100 kg phân sinh học và 50 kg N/ha [có thể bổ sung dịch vi khuẩn lên men
hay không] cho năng suất mía cây và tổng lượng đường/ha tương đương với mía bón 200
kg N và 90 kg P2O5 /ha.
4. Bón 50 g phân sinh học/gốc cho năng suất khóm tương đương với bón 4 g urê, 1 g
lân và 4 g kali/gốc [160 kg urê, 40 kg supe lân, 160 kg KCl].
Tuy nhiên, phần chuyển giao công nghệ không thực hiện đuợc như mục tiêu đề ra là
do Công ty CASUCO nhận chuyển giao công nghệ sản xuất phân sinh học lúc bảo vệ đề
cương nhưng đến khi kết thúc đề tài công ty vẩn không trả lời về vấn đề này hơn nửa
phần kinh phí không có nên không thể thực hiện được như đã đề ra.
Qua kết luận trình bày ở phần trên, chúng tôi đề nghị Sở Khoa học và Công nghệ hổ
trợ chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về hiệu quả phân sinh học trên lúa cao sản và khóm ở
trong tỉnh Hậu Giang hầu tìm ra biện pháp canh tác tối ưu và hiệu quả nhất.
Hai sinh viên Cử nhân Công nghệ sinh học đóng góp nghiên cứu vào đề tài
1. Lê thị Cẫm Tú. 2006. Phân lập và nhận diện vi khuẩn Gluconacetobacter
diazotrophicus bằng kỹ thuật PCR. Luận văn tốt nghiệp Cử nhân CNSH K28, Đại Học
Cần Thơ
2. Nguyễn thị Mộng Thu. 2006. Khả năng hòa tan lân và tổng hợp IAA của vi khuẩn
Gluconacetobacter diazotrophicus. Luận văn tốt nghiệp Cử nhân CNSH K1, Đại Học An
Giang.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI NÀY
Antoun, H.; C. J. Beauchamp; N. Goussard; R. Chabot and R. Lalande. 1998. Potential of
Rhizobium and Bradyrhizobium species as plant growth promoting rhizobacteria on nonlegumes: Effect on radishes (Raphanus sativus L.). Plant and Soil 204, 57-67.
Belimov, A. A.; A. P. Kojemiakov and C.V. Chuvarliyeva. 1995. Interaction between barley and
mixed cultures of nitrogen fixing and phosphate-solubilizing bacteria. Plant and Soil 173,
29-37.
Biswas, J.C, J.K. Ladha and F.B. Dazzo. 2000a. Rhizobia Inoculation Improves Nutrient Uptake

and Growth of Lowland Rice. Soil Sci. Soc. Am. J. 64,1644-1650.
34


Biswas, J.C., J.K.Ladha, F.B.Dazzo, Y.G. Yanni and B.G.Rolfe. 2000b. Rhizobial Inoculation
Influences Seedilings Vigor and Yield of Rice. Agro. J. 92,880-886.
Cavacante V.A. and J. I. Dobereiner. 1988. A new acid - tolerant nitrogen-fixing bacterium
associated with sugarcane. Plant and Soil 108, 23-31.
Chabot, R; H. Antoun and M. P. Cescas. 1996. Growth promotion of maize and lettuce by
phosphate-solubilizing Rhizobium leguminosarum biovar. phaseoli. Plant and Soil 184,
311-321.
Cao Ngọc Điệp. 2005. Hiệu quả chủng vi khuẩn nốt rễ và vi khuẩn Pseudomonas spp. trên cây
lúa cao sản trồng trên đất phù sa Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ số
3,1-7, 2005.
Cao Ngọc Điệp và Bùi thị Kiều Oanh. 2006. Hiệu quả phân sinh học trên cây mía đường
(Saccharum officinarum L.)(giống VĐNL-7) trồng trên đất phèn huyện Bến Lức, tỉnh
Long An, Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ 6,23-30.
Nguyễn văn Được và Cao Ngọc Điệp. 2002. Hiệu qủa phân lân sinh học dể tan trên cây lúa cao
sản trồng trên đất phù sa Kiên giang. Kỷ yếu hội nghị khoa học các Sở Khoa học Công
nghệ - Môi trường lần thứ 18 khu vực đồng bằng song Cửu Long tổ chức tại Kiên giang.
Fuentes-Ramirez, L.E., R. Bustillos-Cristales, R.A. Tapia-Hernendez, J. Jimenez-Salgado, E.T.
Wang, E. Martinez-Romero, J. Cabellero-Melledo. 2001. Novel nitrogen-fixing acetic
acid bacteria, Gluconacetobacter jahanae sp. nov. and Gluconacetobacter azotocaptans
sp. nov., associated with coffee plants. Int. J. Syst. Evol. Microbiol. 51,1305-1314.
Elbeltagy A, K. Nishioka, T. Sato, H. Suzuki; B.Ye, T. Hamada; T. Isawa, H. Mitsui and K.
Minamisawa. 2001. Endophytic colonization and in planta Nitrogen Fixation by
Herbaspirillum sp. isolated from wild rice species. Applied and Environmental
Microbiology 67,5285 - 5293 .
Nguyễn Hữu Hiệp và Cao Ngọc Điệp. 2002. Ảnh hưởng của việc chủng vi sinh vật cố định đạm
và phân giải lân lên năng suất bắp lai C919 trồng tại Lai vung, tỉnh Đồng tháp. Kỷ yếu

hội nghị khoa học các Sở Khoa học Công nghệ - Môi trường lần thứ 18 khu vực đồng
bằng song Cửu Long tổ chức tại Kiên giang.
Madhaiyan, M., V.S. Saravaran, D. Bhakiya, S.S. Jori, H. Lee, R. Thenmozhi, K. Hari, T. Sa.
2004. Occurrence of Gluconacetobacter diazotrophicus in tropical and subtropical plants
of Western Ghants, India. Microbiological Research 159,233-243.
Muthukumarasamy, R. I, G. Revathi, P. Loganathan. 2002. Effect of inorganic N on the
population in vitro colonization and morphology of Acetobacter diazotrophicus (syn.
Gluconacetobacter diazotrophicus). Plant and Soil 243,91-102.
Muthukumarasamy, R. I, Cleenweek, G. Revathi, V. Muthaiyan, D. Janssens, B. Hoste, K.U.
Gum, K.D. Kark, C.Y. Son, T. Sa, J. Caballero-Mellado. 2005. Natural association of
Gluconacetobacter diazotrophicus and diazotrophic Acetobacter peroxydans with
wetland rice. Systematic and Applied Microbiol. 28,277-286.
Rasul, C.; M. S. Mirza; F. Latif and K. A. Malik. 1998. Identification of plant growth hormones
produced by bacterial isolates from rice, wheat and kallar grass. In: K. A. Malik et al
(eds.) Nitrogen Fixation with non-Legumes, 25-37.Kluwer Academic Publishers, UK.
Tapia-Hernandez,A., M.R. Bustillos-Cristales, T. Jimenez-Salgado, J. Caballero-Mellado and
L.E. Fuentes-Ramirez. 2000. Natural Endophytic Occurrence of Acetobacter
diazotrophicus in Pineapple Plants. Microbial Ecology. 39,49-55.
Trần Thế Tục và Vũ Mạnh Hải. 2000. Kỹ thuật trồng Dứa. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà nội,
Việt nam
Yanni Y.G, R.Y. Rizk, V. Corich, A. Squartini, K. Ninlee, S. Philip-Hollingsworth, G.
Orgambide, F.de Bruijn, J. Stoltzfen, D. Buckley, J.M. Schmidt, P.I. Mateos, J.K. Ladha
and F.B. Dazzo .1997. Natural endophytic association between Rhizobium leguminosum
bv. trifolii and rice roots and assessment of its potential to promote rice growth. Plant
and Soil 194,99 – 114.
35




×