Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

DSpace at VNU: Quá trình hình thành quan niệm về đối tượng và phương pháp của triết học Hy Lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.77 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***********

NGUYỄN THỊ VUI

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH QUAN NIỆM VỀ
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP CỦA TRIẾT
HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

Tóm tắt luận văn thạc sĩ triết học

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.80

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Đặng Hữu Toàn

Hà Nội, 2008

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhƣ chúng ta đã biết, triết học ra đời từ rất sớm trong lịch sử tƣ tƣởng
nhân loại. Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, triết học đã trải qua nhiều
giai đoạn thăng trầm, khi thì đƣợc coi là sự thông thái của mọi sự thông thái,
khi thì đƣợc coi là khoa học của các khoa học, khi thì bị coi là những lời nói
vô bổ của những ngƣời không có việc gì để làm… Thực ra, nếu xét về mặt


lợi ích mà nói, triết học không mang lại lợi ích thực tế vị lợi cho con ngƣời
nhƣ các lĩnh vực hoạt động khác. Nó không cần thiết đến mức không thể
thiếu nhƣ cơm ăn, áo mặc… Vậy, triết học có vai trò gì trong đời sống con
ngƣời?
Để trả lời câu hỏi này thì có lẽ, câu nói sau đây của Aristotle là có cơ sở
và xứng đáng đƣợc coi là câu trả lời xuất sắc. Aristotle nói: Tất cả mọi khoa
học đều là cần thiết, nhƣng không có khoa học nào tốt hơn triết học. Ở
đây, ông muốn nói đến giá trị của triết học là về phƣơng diện tinh thần,
đạo đức chứ không phải về phƣơng diện vật chất.
Trƣớc khi triết học với đúng nghĩa của nó ra đời ở Hy Lạp cổ đại, thế giới
quan thần thoại (logos - thần ngôn) đã chi phối đời sống của con ngƣời. Thực
chất của thế giới quan thần thoại đó là các hệ giá trị không thuộc về con
ngƣời, về bản tính ngƣời, mà nó là các thế lực, lực lƣợng trực tiếp chi phối
đời sống con ngƣời: nƣớc, lửa, đất đá, cỏ cây… Các thế lực, lực lƣợng này
bao giờ cũng đƣợc nhân hoá nhƣng những kẻ cầm quyền luôn có tham vọng
trở thành thần, khi các thần bị thế tục hoá thì con ngƣời thấy thần cũng nhƣ
mình và do vậy quyền uy tối cao của thần đối với cuộc sống của con ngƣời
không còn sức mạnh nhƣ trƣớc nữa.
Mặt khác, tất cả các tập quán pháp: những quy tắc, quy định chi phối
quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời trong cộng đồng, khi bị chính trị hoá
nhân danh các thần đã dẫn đến chỗ, con ngƣời buộc phải phản ứng chống lại

2


thần, ngƣời ta không còn tin vào thần, vào logos nữa. Điều này, đến lƣợt nó
đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng hệ giá trị thần thoại, mà biểu hiện rõ nhất
của sự khủng hoảng này nằm trong quan niệm của phái ngụy biện. Trong bối
cảnh đó, các nhà triết học đã đi tìm con đƣờng để khắc phục sự khủng hoảng
này, tìm chỗ dựa tinh thần mới không phải trong tự nhiên, mà là trong con

ngƣời. Do vậy, có thể nói, sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại, về thực chất,
là sự thay thế một hệ giá trị mới cho một hệ giá trị đã không còn phù hợp (hệ
giá trị thần thoại đƣợc thay bằng hệ giá trị mới – đó là sự thông thái.
Cuộc sống hiện đại cũng cho thấy, khoa học và công nghệ đã mang lại
cho con ngƣời cuộc sống vật chất tƣơng đối đầy đủ, khẳng định đƣợc sức
mạnh của con ngƣời trong việc cải tạo tự nhiên, nhƣng con ngƣời vẫn
luôn cảm thấy thiếu một cái gì đó mà bản thân những giá trị vật chất đó
không thể đáp ứng đƣợc. Căn nguyên của tình trạng này là do các khoa
học đều đƣa ra những cách giải thích khác nhau về thế giới và do vậy,
nếu không có một cái nhìn thống nhất về những thành tựu đó thì tất yếu,
sẽ xuất hiện một cái nhìn phiến diện theo kiểu “thầy bói xem voi” về thế
giới. Nếu tình trạng này diễn ra, thế giới nội tâm của con ngƣời sẽ luôn
trong tình trạng hỗn loạn, không biết nên tin theo cái gì. Do vậy mà:
“Triết học có mặt ở nơi cần tìm kiếm sự thống nhất của đời sống tinh
thần theo con đƣờng hợp lý hóa nó” [16, tr. 15].
Lịch sử triết học, từ trƣớc tới nay, luôn là lịch sử tìm kiếm và xác định đối
tƣợng và phƣơng pháp của triết học. Thực vậy, đối với nhiều khoa học, việc
xem xét lịch sử đối tƣợng và phƣơng pháp không phải là cái quá cần thiết.
Để trở thành nhà vật lí học hay nhà hoá học giỏi, ngƣời ta chỉ cần nắm đƣợc
tri thức hiện đại về các khoa học đó… Đối với triết học lại khác. Triết học là
một lĩnh vực đặc biệt của của văn hoá tinh thần. Triết học giúp con ngƣời xác
định đƣợc hệ thống giá trị, tìm đƣợc ý nghĩa cuộc sống, giải quyết vấn đề:

3


“Con ngƣời là gì?”, “Trong thế giới này, con ngƣời có thể hy vọng vào cái
gì?”, “Thế giới có liên quan gì đến con ngƣời không?”… Đó đều là những
vấn đề cấp thiết mà bất cứ ngƣời nào và bất cứ lúc nào cũng đặt ra. Ở mọi
thời đại kể cả thời đại hiện nay, khoa học, văn hoá và triết học châu Âu nói

riêng, thế giới nói chung đều quay về với triết học cổ đại nhƣ là nguồn gốc
và là cái nôi, là mẫu mực tƣ duy của mình. Ngay cả thuật ngữ "Triết học"
cũng xuất hiện từ cái nôi này.
F.Engles đã từng khẳng định: "Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh
cao của khoa học thì không thể không có tƣ duy lý luận" và để phát triển,
hoàn thiện tƣ duy lý luận ấy thì "không có một cách nào khác hơn là nghiên
cứu toàn bộ triết học thời trƣớc" [27, tr. 489, 487]. Và nghiên cứu "triết học
thời trƣớc", chúng ta không thể không nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại, vì
nhƣ F.Engles đã khẳng định: “Từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết
học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới
quan sau này” [27, tr. 491].
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn: Quá trình hình thành quan niệm về
đối tượng và phương pháp của triết học Hy Lạp cổ đại làm đề tài nghiên
cứu.
Nhƣng, do điều kiện thời gian và trình độ, trong luận văn này, chúng tôi
chỉ tìm hiểu quan niệm của Socrates và Plato về đối tƣợng và phƣơng pháp
của triết học. Vì, đối với phần lớn các nhà triết học phƣơng Tây, cả cổ đại lẫn
hiện đại, Socrates đƣợc coi là nhân vật trung tâm của triết học Hy Lạp cổ đại,
là ngƣời đã tạo nên bƣớc ngoặt căn bản trong lịch sử tƣ tƣởng triết học.
Ngƣời kế tục sự nghiệp của Socrates một cách xuất sắc nhất và cũng là ngƣời
học trò tâm phúc nhất của ông là Plato – ngƣời đƣợc thừa nhận là một trong
những nhà tƣ tƣởng sáng tạo nhất, có ảnh hƣởng lớn nhất trong lịch sử triết
học phƣơng Tây. Nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại, chúng ta không thể

4


không nghiên cứu triết học Socrates và Plato, nhất là quan niệm của các ông
về đối tƣợng và phƣơng pháp của triết học.
2. Tình hình nghiên cứu

Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về lịch sử triết học nói chung và
lịch sử triết học của Socrates và Plato tƣơng đối nhiều, kể cả các nhà triết học
mácxít lẫn các nhà triết học phi mácxít. Bởi lẽ, các nhà triết học, trƣớc khi
xây dựng học thuyết của mình, bao giờ họ cũng phải nghiên cứu lịch sử triết
học trƣớc đó. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về
Socrates và Plato nhƣ: Tác giả A. Losev với tác phẩm Cuộc đời và sự nghiệp
sáng tạo của Plato; Losev và A.Takho (1993) – Godi, Plato, Aristote, M.;
K.Popper (1992), Xã hội mở và kẻ thù của nó, t.1, M.; André Cresson
(1956), Socrates, Presses universitaires de France, Paris; Platoierre –
Maxime Schuhl (1954), L’oeuvre de Plato, Paris, Jean Brun (1963),
Socrates, Presses universitaires de France, Paris… Và những công trình
nghiên cứu về triết học cổ đại: Công trình nghiên cứu của tập thể các nhà
triết học Liên Xô, Lịch sử triết học (t.1, M.,1940), Lịch sử triết học (t.1, M.,
1957); một số công trình chuyên về thời cổ đại: V.Ph.Asmuxo (1965), Lịch
sử triết học cổ đại, M., A.O.Macovenxki (1967), Lịch sử logic học, M.,
A.Ph.Losev (1963), Lịch sử mỹ học cổ đại, t.1, M., A.Ph.Losev với tác phẩm
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tạo của Plato, M., …
Ở Việt Nam thì chỉ trong một vài năm trở lại đây, việc nghiên cứu và dịch
thuật các công trình về lịch sử triết học ngoài mácxít mới đƣợc coi trọng. Có
thể kể đến một số công trình chuyên nghiên cứu về lịch sử triết học, trong đó
có triết học của Socrates và triết học của Plato sau:
Tác phẩm Socrates của Lê Tôn Nghiêm (1974), nhà xuất bản Sài Gòn ấn
hành. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã trình bày những quan
điểm khác nhau về thân thế, về sự nghiệp sáng tạo triết học của Socrates, đặc

5


biệt là: nhận thức, phƣơng pháp, đạo đức. Song, hƣớng quan tâm chủ yếu
của tác giả là tóm tắt hai khuynh hƣớng đối nghịch nhau hoàn toàn trong việc

đánh giá vị thế của triết học Socrates. Khuynh hƣớng thứ nhất – khuynh
hƣớng hiện sinh do Kierkegaard cầm đầu coi Socrates nhƣ khởi điểm nguyên
thủy cho triết học hiện sinh, và họ lấy những luận điểm của Socrates để minh
chứng. Khuynh hƣớng thứ hai – khuynh hƣớng duy lý do Nietzsche lãnh đạo
coi Socrates nhƣ ngƣời sáng lập ra phong trào suy tƣ bằng lý trí, nhƣng lại
lấy những luận điểm tiêu biểu của Socrates để công kích ông.
Triết học Hy Lạp cổ đại do Thái Ninh biên soạn (1987), nhà xuất bản
sách giáo khoa Mác-Lênin ấn hành. Trong đó, tác giả đã trình bày triết học
Hy Lạp từ khi hình thành đến triết học thời kỳ Hy Lạp hoá, thời kỳ suy tàn
của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại. Quan điểm của Socrates đƣợc
trình bày với bốn nội dung chính. Thứ nhất, về triết học, tác giả khẳng định
triết học của Socrates chỉ nhằm lý giải đạo đức của chủ nô qu‎ý tộc; rằng
Socrates thù địch với khoa học tự nhiên, mục đích nghiên cứu triết học của
ông chỉ là để truyền bá, giáo dục về phẩm hạnh. Thứ hai, về lý luận nhận
thức, tác giả khẳng định: “Mục đích luận của Socrates thể hiện rõ quan niệm
duy tâm chủ quan mang nặng tính chất tôn giáo. Đó là những quan niệm sai
lầm và rất thô kệch về mục đích luận” [36, tr. 104]. Thứ ba, về quan niệm
đạo đức, tác giả khẳng định đạo đức học của Socrates là thứ đạo đức duy tâm
tôn giáo. Thứ tư, về phương pháp nghiên cứu triết học của Socrates, tác giả
chỉ trình bày một cách vắn tắt và nhìn chung, tác giả cho rằng, Socrates đã
giải quyết mọi vấn đề triết học trên quan điểm duy tâm và lý giải những vấn
đề đạo đức trên lập trƣờng qu‎ý tộc phản động để bảo vệ quyền lợi mọi mặt
cho bọn chủ nô quý tộc. Đối với triết học của Plato, tác giả trình bày: học
thuyết về vũ trụ, lý luận nhận thức, quan niệm về đạo đức, quan niệm về nhà
nƣớc, quan niệm về mỹ học. Trong đó, chủ yếu trình bày những đánh giá,

6


nhận định của bản thân tác giả và của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác để phê

phán, chỉ ra những điểm bất hợp lý trong học thuyết ý niệm, trong phƣơng
pháp đi-a-léc-tích của Plato. Từ đó, tác giả khẳng định rằng, Plato hoàn toàn
không có một phát hiện mới nào về phép biện chứng, một số yếu tố có tính
chất biện chứng duy tâm mà Plato nêu ra (nhận thức chân lý – ý niệm thông
qua những khái niệm đối lập, thông qua phƣơng pháp đối chiếu những mặt
đối lập) chẳng qua chỉ là sự lặp lại các yếu tố của các nhà biện chứng duy
tâm thuộc phái Elea, phái xô-phi-stơ mà thôi. Ngoài ra, tác giả còn trình bày
quan niệm của các trƣờng phái Socrates, Plato và một số triết gia khác… Do
vậy, có thể nói, trong công trình này, vấn đề đối tƣợng và phƣơng pháp của
triết học còn ít đƣợc nghiên cứu chuyên sâu.
Cũng đề cập đến những vấn đề trên là một số công trình nghiên cứu về
triết học Hy Lạp cổ đại của tác giả Hà Thúc Minh (1993): Triết học cổ đại
Hy Lạp – La Mã, Viện khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản;
Tác giả Trần Văn Phòng (2006): Triết học Hy Lạp cổ đại, Nhà xuất bản Lý
luận chính trị, Hà Nội; Tác giả Đinh Ngọc Thạch (1999): Triết học Hy Lạp
cổ đại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội; ...
Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu về lịch sử triết học nói
chung, trong đó có bàn tới cả triết học Hy Lạp cổ đại, triết học Socrates và
triết học Plato nhƣ:
Lịch sử phép biện chứng, tập I. Phép biện chứng cổ đại, Viện Hàn lâm
khoa học Liên Xô (Đỗ Minh Hợp dịch, Đặng Hữu Toàn hiệu đính), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1998, trong đó chủ yếu quan tâm đến
lịch sử ra đời và phát triển của phép biện chứng. Do vậy, phƣơng pháp
nghiên cứu của Socrates và Plato cũng đƣợc quan tâm nghiên cứu nhƣng nó
chỉ đƣợc quan tâm với tƣ cách là một mắt xích trong lịch sử phát triển của
phép biện chứng.

7



Lịch sử triết học, tập 1. Triết học cổ đại do các tác giả Nguyễn Thế
Nghĩa, Doãn Chính chủ biên, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm
2002. Trong đó, Socrates đƣợc trình bày một cách vắn tắt với tƣ tƣởng về
đạo đức, về phƣơng pháp. Tƣ tƣởng của Plato đƣợc trình bày chi tiết hơn với
học thuyết ý niệm, tâm lý học, nhận thức luận, lôgíc học, triết học xã hội, tƣ
tƣởng thẩm mỹ – nghệ thuật.
Đại cương lịch sử triết học phương Tây, do các tác giả Đỗ Minh Hợp,
Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn biên soạn, Nhà xuất bản Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2006. Trong đó, quan điểm nhân học, học
thuyết về phƣơng pháp của Socrates; học thuyết ý niệm, nhận thức của
Plato… đƣợc bàn luận tƣơng đối nhiều trên quan điểm hiện sinh chủ nghĩa
và ở mức độ khái quát cao, nên đối với những ngƣời mới bƣớc đầu nghiên
cứu triết học thì tƣơng đối khó hiểu.
Lịch sử triết học và các luận đề của tác giả Samuel Enouch Stumpf (Đỗ
Văn Thuấn, Lƣu Văn Hy dịch), Nhà xuất bản Lao động ấn hành năm 2004.
Trong tác phẩm này, quan niệm của Socrates đƣợc trình bày theo chủ đề về
lý thuyết nhận thức, vấn đề định nghĩa, tƣ tƣởng đạo đức. Quan niệm của
Plato đƣợc trình bày theo chủ đề về lý thuyết nhận thức, triết học đạo đức,
triết học chính trị và vũ trụ quan.
Ngoài những công trình đó, còn có một số công trình trong nƣớc nghiên
cứu về lịch sử triết học trong đó có cả triết học của Socrates và triết học của
Plato: Tác giả Đặng Thai Mai (1950) với tác phẩm Lịch sử triết học phương
Tây, Nhà xuất bản sách giáo viên ấn hành; Tác giả Lê Tôn Nghiêm (2000):
Lịch sử triết học Tây phương, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn
hành; Tác giả Bùi Thanh Quất (2000): Lịch sử triết học, Nhà xuất bản Giáo
dục ấn hành; Tác giả Nguyễn Hữu Vui (1998): Lịch sử triết học, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội ấn hành;…Và một số các tác phẩm dịch của

8



các tác giả: Tác giả Samuel Enouch Stumpf và Donal C.Abel (Lƣu Văn Hy
dịch) (2004): Nhập môn triết học phương Tây, Nhà xuất bản Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành; Các tác phẩm do tác giả Đặng Thai Mai
dịch (1956): Lịch sử triết học phương Tây, Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội; Tác
giả Forrest E.Baird (Đỗ Văn Thuấn và Lƣu Văn Hy dịch) (2006): Tuyển tập
danh tác triết học từ Plato đến Derrida, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn
hành…
Nói chung, các công trình nghiên cứu này mới chỉ nghiên cứu sơ lƣợc
hoặc là tổng quan về Socrates và Plato, hoặc là nghiên cứu về phƣơng pháp
biện chứng của các ông… Đặc biệt, các công trình nghiên cứu trong nƣớc
chủ yếu nghiên cứu các quan niệm của Socrates và Plato với tƣ cách là
những quan niệm của các nhà duy tâm khách quan, nên thái độ phê phán là
chủ yếu, mà chƣa bàn nhiều đến những đóng góp của hai ông cho lịch sử
triết học. Có thể nói, cho đến nay, ở Việt Nam ta vẫn chƣa có một công trình
nào chuyên nghiên cứu về quan niệm của Socrates và Plato về đối tƣợng và
phƣơng pháp nghiên cứu của triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích:
Tái hiện một cách tƣơng đối có hệ thống quan niệm của Socrates và Plato
về đối tƣợng và phƣơng pháp của triết học để qua đó, chỉ ra những điểm tiến
bộ, những đóng góp và những hạn chế của hai ông đối với lịch sử tƣ tƣởng
triết học của nhân loại sau này.
Nhiệm vụ:
* Nghiên cứu và phân tích một cách khái quát về cuộc đời, sự nghiệp và
quan niệm của Socrates và Plato về đối tƣợng và phƣơng pháp của triết học.
* Đƣa ra một số nhận xét và đánh giá về những quan niệm của
Socrates và Plato về đối tƣợng và phƣơng pháp của triết học.

9



4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện trên nền tảng lý luận là quan
điểm của các nhà sáng lập triết học Mác-Lênin về lịch sử triết học nói
chung, triết học cổ đại nói riêng; đồng thời kế thừa, tham khảo có chọn
lọc các công trình của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng kết hợp những phƣơng pháp
nghiên cứu của lịch sử triết học, cụ thể là: phƣơng pháp lôgíc kết hợp với
phƣơng pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, hệ thống hoá và so sánh…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là: Quá trình hình thành quan
niệm về đối tƣợng và phƣơng pháp của triết học Hy Lạp cổ đại. Nhƣng,
do điều kiện về thời gian và trình độ, luận văn chỉ giới hạn phạm vi
nghiên cứu là: Quan niệm Socrates và Plato về đối tƣợng và phƣơng
pháp nghiên cứu của triết học. Trong quá trình luận chứng, tác giả có đề
cập đến một số quan niệm khác của hai ông và một số quan điểm, tƣ
tƣởng của một số nhà tƣ tƣởng khác trong chừng mực mà chúng có liên
quan đến đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong quan
niệm về đối tƣợng và phƣơng pháp của hai triết gia tiêu biểu cho nền triết
học Hy Lạp cổ đại – Socrates và Plato mà cho đến nay vẫn còn có ảnh
hƣởng không nhỏ đến tƣ tƣởng nhân loại – chủ đề mà ở Việt Nam còn
chƣa đƣợc nghiên cứu chuyên sâu.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu quá trình hình
thành quan niệm về đối tƣợng và phƣơng pháp trong triết học cổ đại Hy
Lạp nói chung, trong triết học của Socrates và Plato nói riêng.


10


Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục
vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử triết học nói chung, lịch sử
triết học Hy Lạp cổ đại nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm:
2chƣơng, 6 tiết..

…………………………………………….

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Alan C.Bowen (2004), Khoa học và triết học Hy Lạp cổ đại, Bản dịch của
trung tâm dịch thuật (Lê Sơn hiệu đính), Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội.
[2]. Calaro R, Ceniza, Romualdo E. Abulad tuyển chọn, giới thiệu, Nhập môn
triết học: Siêu hình học – Thần học và vũ trụ luận, Lƣu Văn Hy dịch, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh
[3]. Tống Văn Chung, Nguyễn Quang Thống (1990), Lịch sử triết học cổ Hy La, t.1, Nxb. Đại học Tổng hợp Hà Nội.
[4]. C.Brinton, J.B.Christopher (1971), Văn minh Tây Phương, Nguyễn Văn
Lƣợng dịch, t.1, Nxb. Sài Gòn.
[5]. A.Dantê (1978), Thần khúc, Nxb. Văn học, Hà Nội.
[6]. Dave Robinsn & Judy Groves (2006), Nhập môn – Plato, Trần Tiễn Cao
Đăng dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh
[7]. Dƣơng Ngọc Dũng (2006), Đường vào triết học, Nxb. Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh.
[8]. Trần Đỗ Dũng (1967), Lý luận và tƣ tƣởng trong huyền thoại, Sài Gòn.

[9]. W.Durant (1974), Nguồn gốc của văn minh, Nguyễn Hiến Lê, Nxb. Sài Gòn.
[10]. Will Durant (2000), Câu chuyện triết học, Tí Thảo và Bửu Đính dịch, Nxb.
Đà Nẵng.
[11]. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hoá tâm linh, Nxb. Hà Nội.
[12]. Phạm Cao Dƣơng (1972), Nhập môn lịch sử các nền văn minh thế giới, t.1,
Sài Gòn.
[13]. Mặc Đỗ (1974), Thân nhân và thần thoại Tây Phƣơng, Sài Gòn.
[14]. Forrest E. Baird (2006): Tuyển tập danh tác triết học từ Plato đến Derrida,
Đỗ Văn Thuấn – Lƣu Văn Hy dịch, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
12


[15]. Võ Thị Diệu Hằng & Phạm Văn Tuấn (2005): Plato (427 – 347 TCN), nhà
đại hiền triết cổ đại Hy Lạp, website:
/>[16]. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn (2006), Đại cương lịch sử
triết học phương Tây, Nxb. Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
[17]. Đỗ Minh Hợp (2002), Đối tượng của triết học – Lịch sử vấn đề, Tạp chí triết
học, số 1, tr.32.
[18]. J.Gaarder (1998), Thế giới của Sophie, Huỳnh Phan Anh dịch, Nxb. Văn hoá
thông tin.
[19]. E.V.Ilencov, Lôgic học biện chứng, Nguyễn Anh Tuấn dịch, Nxb. Văn hoá
thông tin.
[20]. Nguyễn Văn Khoả (1998), Thần thoại Hy Lạp, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà
Nội.
[21]. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t.18, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[22]. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t.23, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[23]. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
[24]. C.Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t.1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
[25]. C.Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.
[26]. C.Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t.12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
[27]. C.Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t.20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.

13


[28]. C.Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t.40, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
[29]. Đặng Thai Mai (1950), Lịch sử triết học Phƣơng Tây, Nxb. Sách giáo viên,
Hà Nội.
[30]. E.E Nexmeyanov (2005), Triết học hỏi và đáp, Trần Nguyên Việt chủ biên
dịch, Nxb. Đà Nẵng.
[31]. Hà Thúc Minh (1993), Triết học cổ đại Hy Lạp – La mã, Viện Khoa học xã
hội tại thành phố Hồ Chí Minh.
[32]. Nguyễn Thế Nghĩa và Doãn Chính (chb) (2002), Lịch sử triết học - tập I:
Triết học cổ đại, Nxb. Khoa học xã hội.
[33]. Lê Tôn Nghiêm (1974), Xôcrát, Ca Dao, Sài Gòn.
[34]. Lê Tôn Nghiêm (2000), Lịch sử triết học Tây phương, t.1: Thời kỳ khai
nguyên triết lý Hy Lạp, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh
[35]. F.Nietzche (1975), Triết lý Hy Lạp thời bi kịch, Trần Xuân Kiêm dịch, Sài
Gòn.
[36]. Thái Ninh (1987), Triết học Hy Lạp cổ đại, Nxb. Sách giáo khoa Mac –
Lênin, Hà Nội
[37]. Vũ Ngọc Pha (1997), Lịch sử triết học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[38]. Vƣơng Đức Phong và Ngô Hiểu Minh (2003), Mười nhà tư tưởng lớn thế
giới, Phong Đảo dịch, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội.
[39]. Trần Văn Phòng (2006), Triết học Hy Lạp cổ đại, Nxb. Lý luận chính trị, Hà

Nội.
[40]. Platôn (1974), Nhà ngụy biện, Lê Tôn Nghiêm dịch, Viện triết học.
[41]. Platôn (1960), Gorgias, Trịnh Xuân Ngạn dịch, Sài Gòn.
[42]. Platôn (1961), Phedon, Trịnh Xuân Ngạn dịch, Sài Gòn.
14


[43]. Platôn (1963), Cộng hòa, Trần Thái Đỉnh dịch, Sài Gòn.
[44]. Platon (2005): The Republic I → X, Phạm Văn Tuấn và Võ Thị Diệu Hằng
sƣu tầm, website: />[45]. Plato (2005): Socrates tự biện, Phạm Trọng Luật dịch, website:
/>[46]. Plato – Xenophon (2006), Socrates tự biện, Nguyễn Văn Khoa dịch, Nxb.
Tri thức, Hà Nội.
[47]. Bùi Thanh Quất (2000), Lịch sử triết học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[48]. Lê Thanh Sinh (2001), Triết học Tây Âu trước Mác, Nxb. Thành Phố Hồ
Chí Minh.
[49]. Nguyễn Văn Sanh (2003), Vấn đề tự ý thức trong lịch sử triết học Phương
Tây (từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học Mác), Luận án tiến sĩ triết học, Hà
Nội.
[50]. Samuel Enoch Stumpf và Donald C.Abel (2004), Nhập môn triết học
phương Tây, Lƣu Văn Hy dịch, Nxb. Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
[51]. Samuel Enoch Stumpf (2004), Lịch sử triết học và các luận đề, Đỗ Văn
Thuấn, Lƣu Văn Hy dịch, Nxb. Lao động.
[52]. Stanley Rosen (2004), Triết học nhân sinh: Những tác phẩm của các triết
gia Phương Tây từ Plato đến Kant, Nguyễn Minh Sơn & Lƣu Văn Hy dịch, Nxb.
Lao động.
[53]. P.S.Taranốp (2000), 106 nhà thông thái, Đỗ Minh Hợp dịch và hiệu đính,
Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội.
[54]. Chiêm Tế (1977), Lịch sử thế giới cổ đại tập II, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[55]. Đinh Ngọc Thạch (1999), Triết học Hy Lạp cổ đại, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.

15


[56]. Trần Đức Thảo (1995), Lịch sử tư tưởng trước Marx, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
[57]. Nguyễn Ngọc Thu, Bùi Văn Mƣa (chb) (2003), Giáo trình đại
cương lịch sử triết học, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh
[58]. Đặng Hữu Toàn, Trần Nguyên Việt, Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Kim
Lai (2005), Các nền văn hoá thế giới tập II, Nxb. Từ điển Bách khoa.
[59]. Viện thông tin khoa học xã hội (1996), Triết học Đông Tây.
[60]. Viện triết học Liên Xô (1998), Lịch sử phép biện chứng tập I. Phép
biện chứng cổ đại, Đỗ Minh Hợp dịch, Đặng Hữu Toàn hiệu đính, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[61]. Viện nghiên cứu triết học Liên Xô (1956), Lịch sử triết học phương
Tây, Đặng Thai Mai dịch, Nxb. Xây dựng, Hà Nội.
[62].

thichmactien

(2007):

Phép

thử

của

Socrates,

website:


/>[63]. Hoàng Xuân Việt (2004), Lịch sử triết học Phương Tây, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh.
[64]. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị Quốc
gia.
[65]. Đinh Thanh Xuân (2004), Tư tưởng biện chứng trong triết học
Hy Lạp cổ đại, Luận văn thạc sĩ triết học, Viện Triết học, Hà Nội.

16


17



×