Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

LỊCH SỬ PHÁT MINH VÀ CÁC GIAI THOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.08 KB, 19 trang )

LỊCH SỬ CÁC PHÁT MINH VÀ NHỮNG GIAI THOẠI
1. PHÁT MINH DO... NGỦ QUÊN
Một đêm Carothers – nhà hóa học Mĩ, sau nhiều ngày đêm làm việc căng thẳng, đinh
chợp mắt ít phút. Nhưng... ông đã ngủ liền tới sáng. Tỉnh dậy, ông hốt hoảng lo cho
tất cả công sức thí nghiệm: Có lẽ đã tan thành mây khói? Ai ngờ, khi vừa nhấc chiếc
đũa thủy tinh ở trong bình phản ứng lên, ông thấy chiếc đũa mềm nhũn và kéo theo
một hỗn hợp có dạng sợi nhỏ mỏng manh óng ánh rất đẹp. Đó là sợi tổng hợp
poliamit đầu tiên trên thế giới – sợi nilon ngày nay.
2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH XÁC
Người phát minh ra phương pháp lưu hóa cao su là Ch.Goodyear. Ông là người nghèo
túng nhưng kiên trì theo đuổi công việc của mình.
Một hôm có một chủ xưởng máy hỏi người bạn của mình làm thế nào tìm gặp được
Goodyear, người này bèn bảo:
- Anh cứ tìm người nào mặc quần cao su, áo cao su, đi giày cao su, độ mũ cao su, có
một cái ví bằng cao su nhưng không có lấy một đồng xu thì... đó chính là Goodyear.”
3. CHỈ ĐƠN GIẢN LÀ TÔI ỨNG DỤNG HÓA HỌC
Năm 1943 Niels Bohr – nhà vật lý học người Đan Mạch, để thoát khỏi tay bọn Đức
quốc xã, ông phải rời khỏi Copenhangen. Nhưng trong tay ông còn có hai huy
chương Nobel bằng vàng của các bạn đồng nghiệp là James Franck (Mỹ) và Max
Laue. (Huy chương Nobel của Bohr đã được đưa ra khỏi Đan Mạch trước đó).
Không muốn liều mang các huy chương này theo mình, nhà bác học bèn hòa tan
chúng trong nước cường toan (hỗn hợp của HNO3 và HCl) vào các chai “không có gì
đáng chú ý” và đặt chúng vào một xó trên sàn nhà – nơi có nhiều chai lọ bụi bặm
bám đầy.
Sau chiến tranh, khi trở lại phòng thí nghiệm của mình, trước tiên Bohr tìm cái chai
quý báu đó và theo yêu cầu của ông, những người cộng sự đã tách vàng ra rồi làm
lại hai tấm huy chương.
Đáp lại sự cảm kích của các chủ nhân của hai tấm huy chương, Niels Bohr chỉ nói:
“Đơn giản là tôi ứng dụng hóa học mà thôi”.
4. NGƯỜI LẤY VÀNG TỪ MẶT TRỜI
Nhà vật lý học Kirchhoff trong một buổi nói chuyện khoa học, ông thuyết giảng về


quang phổ của mặt trời. Ông nói rằng những vạch đen trong quang phổ mặt trời
chứng tỏ rằng trên mặt trời có vàng. Một ông chủ nhà hàng cũng có mặt trong buổi
nói chuyện nghe vậy liền hỏi: “Thưa ngài! Liệu vàng ấy có ý nghĩa gì nếu ta không
lấy được chúng”. Kirchhoff không nói gì cả.
Ít lâu sau, Kirchhoff được nhận huy chương vàng nhờ phát minh phân tích phổ mặt
trời. Ông bèn đưa cho nhà tư bản nọ xem và nói: “Ông thấy sao! Dù sao tôi vẫn lấy
được vàng từ mặt trời”.
5. CHUYỆN VỀ MENDELEYEV
Sau khi vợ nhà bác học Mendeleyev qua đời, ông cưới một phụ nữ khác. Nhưng luật
pháp của nước Nga dưới thời Nga hoàng bấy giờ không cho phép lập gia đình khi vợ
hoặc chồng vừa chết trong vòng ba năm. Ông đã nhờ một giáo sĩ làm lễ cho mình
mà không sợ luật pháp hà khắc. Và người mục sư ấy sau khi giúp Mendeleyev đã bị
khai trừ khỏi giáo hội.
Một vị tể tướng của Sa Hoàng cũng trong hoàn cảnh của Mendeleyev và cũng đã làm
lễ cưới. Nhưng Sa Hoàng đã hủy bỏ hôn ước của ông ta. Vị tể tướng thắc mắc tại sao
hôn ước của Mendeleyev lại được nhà vua chấp nhận. Sa Hoàng trả lời ông ta: “Bởi vì
người như khanh ta có rất nhiều, còn người như Mendeleyev ta chỉ có một”.
6. H2
Thế kỷ XVIII, nhà hóa học Pilatrơ Rôzơ người Pháp đã quan tâm đến vấn đề nếu hít
khí hidro vào phổi thì cái gì sẽ xảy ra. Trước ông chưa ai từng thử hít hidro bao giờ.
Và câu chuyện bắt đầu:
Thoạt đầu, chẳng lưu tâm đến là liệu có hậu quả gì không nên Rôzơ quyết định thử
hít hidro vào phổi. Ông ta lại liên tục hít hidro vào thật sâu hơn nữa, ông thở khí đó
hướng vào ngọn nến đang cháy. Tất nhiên, hidro là thứ khí khi hỗn hợp với không khí
sẽ gây nổ! Về sau Rôzơ đã viết lại rằng: “Tôi tưởng là tôi đã bị bay toàn bộ hàm răng
và cả lợi nữa”. Chí ít thì ông cũng thỏa mãn với kết quả thí nghiệm mà với nó ông đã
coi thường tính mạng của chính mình.
NHÀ HÓA HỌC THỬ KHÍ HIDRO XIANUA HCN
Các nhà hóa học đã làm thế nào để có thể nhận ra được HCN trong một hỗn hợp khí?
“Ta chỉ cần ngửi hỗn hợp đó. Nếu chúng ta chết ngay lập tức, chứng tỏ hỗn hợp chứa

khí HCN”.
8. SỐ PHẬN TRỚ TRÊU
Nhà bác học người Anh nổi tiếng Giô-det Giôn Tôm-xơn cũng giống như đa số các
nhà bác học khác ở thế kỷ 19, tin tưởng mãnh liệt rằng nguyên tử là những phần tử
nhỏ bé của vật chất không thể có cấu tạo nào bên trong hết.
Một hôm người trợ giáo của Tôm-xơn hỏi ông: “Ông nghĩ gì về cấu tạo bên trong
nguyên tử...
- Anh bạn trẻ ạ! Tôi nghĩ rằng – nhà bác học tức giận ngắt câu hỏi – Nếu anh biết
tiếng Latinh thì anh sẽ không hỏi như thế. “Nguyên tử” dịch từ tiếng Latinh có nghĩa
là “không thể chia cắt được”.
Nhưng chẳng bao lâu sau, vào năm 1903 chính Tôm-xơn đã đưa ra mô hình đầu tiên
giải thích cấu tạo bên trong của nguyên tử.
9. NHẦM LẪN KIM CƯƠNG VỚI THỦY TINH
Một lần vào năm 1820 ở London đã xảy ra một chuyện om sòm. Trong một buổi tối
chiêu đãi các nhân vật quyền quý, một người thợ kim hoàn nổi tiếng đã nói với bá
tước phu nhân (chủ nhân): “Thưa quý bà, trên ngón tay bày không phải là kim cương
mà là đồ giả”.
Vào năm 1790, Straxơ – thợ kim hoàn người Viên, lần đầu đã điều chế được thủy
tinh pha chì, còn gọi là phalê, với thành phần chì oxit PbO đến gần 50%. Tính chất
quang học của thủy tinh này và kim cương khá giống nhau: Đều có “tia sáng” và
“ánh kim cương”. Những mẩu vụn pha lê làm ta liên tưởng đến các hột xoàn. Những
cục pha lê nhỏ gọi là “stras” theo tên Straxơ. Nhìn dạng bên ngoài của stras khó
phân biệt với kim cương nhưng nếu tìm hiểu kỹ nó thì thấy độ cứng của nó không
đạt: Nó không làm xước thủy tinh. Rõ ràng những hạt giả kim cương này đã được
đem bán cho bá tước phu nhân và vì thế bà đã đeo hột xoàn lớn nhất.
Để nhuộm lại “Stras”, người ta thêm vào phối liệu nóng chảy một lượng nhỏ
(0,0001%) vàng Au dưới dạng hợp chất bất kỳ của kim loại này và nhận được ngọc
rubi giả màu đỏ rực. Cho coban oxit CoO vào thì sẽ biến “stras” thành thủy tinh xanh
đẹp, giống như ngọc xaphia. Còn thêm vào phối liệu khi nấu pha lê một ít crôm (III)
oxit (Cr2O3) thì làm cho “stras” giống như ngọc rubi (lumzud).

10. CHẾ TẠO MÁU NHÂN TẠO
Trong máu có mọi thành phần chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể: Có chất kích
thích, men, kháng thể. Máu vận chuyển oxi, thải khí CO2 trong toàn bộ cơ thể. Máu
gắn liền với sự sống con người. Nguồn máu chủ yếu dựa vào sự hiến máu nhân đạo
của những người khỏe mạnh nhưng số người hiến máu có hạn.
Vậy tại sao không chế ra máu nhân tạo?
Năm 1966, tại Đại học Y Cincinati ở Mỹ, giáo sư Clank đã tiến hành thí nghiệm: Đem
một con chuột thả vào dung dịch cacbon florua trong bình khí dung. Con chuột bị
chìm xuống đáy bình khí dung. Sau một thời gian dài nó không bị chết ngạt mà vẫn
sống khỏe mạnh, còn con chuột mà ngâm nước như thế sẽ chết ngạt nhanh chóng.
Ông đã kết luận rằng: Cacbon florua có khả năng phân giải cho oxi lớn hơn nước 20
lần. Chuột sống trong dung dịch đủ oxi nên không chết ngạt.
Tháng 4/1979, lần đầu tiên trên thế giới công bố việc chế tạo máu nhân tạo: Gồm
các thành phần sau:
Cacbon florua.
Glixerol.
Natri clorua.
Kali clorua.
Canxi clorua.
Natri cacbonat.
Máu nhân tạo có đặc điểm là:
- Tính chất của cacbon florua rất ổn định nên có khả năng hòa tan rất nhiều oxi. Khả
năng vận chuyển oxi so với protein màu đỏ trong máu lớn hơn và có thể thải được
CO2 ra ngoài.
- Máu nhân tạo có những tính chất lí, hóa ổn định, bảo quản từ 1 đến 3 năm có thể
tùy ý sử dụng cho bất kỳ loại máu nào.
Song máu nhân tạo cũng có những nhược điểm:
- Không có bạch huyết cầu, không có tác dụng đề kháng.
- Không có khả năng phòng bệnh.
- Không có khả năng đông khi bị chảy máu.

Để khắc phục vấn đề này các nhà y học và hóa học tương lai có thể làm được không?
11. NỮ THẦN VALADIS
Nhà hóa học Friedrich Wohler (1800 – 1882) đáng lẽ là người phát minh ra nguyên
tố vanađi, nhưng ông đã bỏ qua nguyên tố này vì không nghĩ rằng đó là một nguyên
tố mới. Hai năm sau, nhà hóa học Thụy Điển Niels Sefstrem (1787 – 1845), học trò
của Berzelius, tìm được vanađi và chứng minh nó là một nguyên tố mới, nên lịch sử
hóa học ghi công đó thuộc về ông.
Berzelius liền sáng tác một câu chuyện nhỏ để trêu Wohler: “Ở phương Bắc xa xôi,
nữ thần Valadis ngự trong lâu đài tráng lệ. Một ngày đẹp trời, có ai đó gõ cửa. Nàng
kiêu ngạo “Hãy để hắn gõ thêm một lần nữa”, nhưng tiếng bước chân đã xa dần.
Nàng nhìn qua cửa sổ, thoáng thấy bóng Wohler đã bỏ đi. Hai năm sau, lại có người
gõ cửa. nữ thần vội vàng ra mở cửa. Sefstrem bước vào. Kết quả của cuộc gặp gỡ
hạnh phúc ấy làm một đứa con mang tên Vanađi.
12. PHÁT HIỆN CHẤT NỔ HÓA HỌC
Từ một tai nạn ở phòng thí nghiệm Munich (Đức), các nhà khoa học tình cờ phát hiện
ra khả năng giải phóng năng lượng của bọt silic. Sau nhiều năm nghiên cứu, họ kết
luận chất bọt này có sức công phá gấp 7 lần TNT.
Cách đây 3 năm, tại phòng thí nghiệm ở Munich, người ta chỉ tìm hiểu tính phản
quang của bọt Si. Để tránh hiện tượng oxi hóa, mẫu thử được đặt trong môi trường
chân không, sau đó người ta hạ thấp nhiệt độ xuống –1800C. Nhưng do một sự rò rỉ,
oxi lọt vào bên trong và ngay lập tức chuyển thành thể lỏng bám lên trên bề mặt bọt
Si tạo ra một chuỗi phản ứng hóa học dẫn đến sự bùng cháy. “Đó là một tiếng nổ
long trời lở đất. Thoạt tiên chúng tôi không làm gì cả, may mà lúc đó không có ai
trong phòng thí nghiệm” – Kovalev kể lại.
Sau khi phát hiện thủ phạm chính của vụ nổ là bọt Si, nhóm các nhà khoa học đã lập
lại thí nghiệm trên nhiều lần. Theo Kovalev, mẫu thử Si sở dĩ có khả năng bùng phát
mạnh như vậy vì hai nguyên nhân: Thứ nhất nhờ cấu trúc “bọt” nên nó có bề mặt
tiếp xúc cực rộng, thứ hai ở môi trường nhiệt độ -1800C, oxi hóa lỏng nên khả năng
tiếp xúc với bề mặt của bọt Si tốt hơn và toàn diện hơn oxi ở thể khí. Vì vậy chỉ trong
1 phần triệu giây, mẫu vật có thể bị đốt cháy hoàn toàn giải phóng ra năng lượng vô

cùng lớn.
“Bọt Si hoàn toàn không nguy hiểm, để có thể bùng nổ phải có những điều kiện đặc
biệt nên nó rất an toàn trong điều kiện thường” – Kovalev nói.
Hiện giới khoa học đã công nhận kết quả của Kovalev. Tuy nhiên làm thế nào để sử
dụng nguồn năng lượng tiềm ẩn trong Si lại là cả một vấn đề. Nhà vật lý Leigh
Canham (Mỹ) đã thành lập một phòng thí nghiệm riêng để nghiên cứu chất nổ theo
gương Alfred Nobel. Mới đây trên tờ Scientist, ông tuyên bố rằng tương lai sẽ có
nhiều vệ tinh chạy bằng Si. Tuy nhiên các đồng nghiệp tỏ ra nghi ngờ giấc mơ này
của ông. Họ thừa nhận rằng, trong đám bọt Si có rất nhiều năng lượng nhưng để giải
phóng nó người ta cần nhiệt độ là – 1800C. Mà điều này hoàn toàn không đơn giản
khi đưa vào thực tế.
13. MỌI PHÁT MINH ĐỀU DO VÔ TÌNH?
Năm 1878, nhà bác học Đức Phan-bec đã làm thí nghiệm với chất gọi là
Cresolsunfanid do nữ hóa học Ana Phedoropna Vonkova đã điều chế ra lần đầu tiên.
Một hôm vì đãng trí ông đã ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay. Trong khi ăn, ông
cảm thấy bánh mì ngọt một cách khác thường.
Muốn tìm hiểu nguyên nhân, Phan-bec lập tức chạy vào phòng thí nghiệm và tiến
hành phân tích cẩn thận chất lỏng trong bình mà ông đã đổ các dung dịch vô ích vào
đó. Hóa ra trong bình này có chứa một chất mà ông chưa hề biết đến, tạo ra khi ông
làm thí nghiệm. Chất này gọi là SACCAROZƠ. Về độ ngọt thì nó ngọt hơn đường gấp
500 lần.
Năm 1903, nhà hóa học người Pháp là Benedichtut đã sơ ý chạm phải một cái bình
thủy tinh rỗng và đánh rơi xuống sàn cách 3m rưỡi, ông rất lấy làm ngạc nhiên khi
thấy cái bình mỏng manh không vỡ mà chỉ bị rạn nứt ngang dọc. Hóa ra bình này
trước kia đã được dùng để đựng dung dịch Nitro Xenlulozơ tan trong ete, tức là một
chất keo. Khi khô lại, chất keo tạo thành một màng rất mỏng, trong suốt và vững
chắc ở mặt trong của thành bình và dính chặt vào thủy tinh. Màng này đã làm cho
các mảnh thủy tinh rạn nứt gắn chặt vào nhau. Nhưng chẳng bao lâu vì quá bận rộn
công việc nên Benedichtut đã quên khuấy câu chuyện thú vị này.
Sau một vài năm, qua báo chí ông thấy rằng trong các trường hợp rủi ro người lái xe

và hành khách thường bị trọng thương do các mảnh kính vỡ bay vào. Benedichtut
bỗng nhớ lại câu chuyện kia và quyết định điều chế một thứ thủy tinh không vỡ tan
thành những mảnh sắc, gọi là thủy tinh TRIPOLEC, lắp vào các xe hơi.
14. GIAI THOẠI
Nhà vật lý người Mỹ Robert Wood và câu chuyện với Li.
Năm 1891, Robert vừa tốt nghiệp đại học. Ông đến Baitimore để học môn Hóa dưới
sự hướng dẫn của giáo sư tên tuổi Remsen. Ông ta ở trọ trong một nhà gần trường
đại học và được các sinh viên khác kể rằng bà chủ nhà thường lấy thức ăn thừa của
ngày hôm trước để nấu lại làm thức ăn sáng ngày hôm sau, nhưng làm thế nào để
chứng minh được điều này? Wood thường nổi tiếng về khả năng tìm ra những giải
pháp đơn giản nhưng độc đáo cho các vấn đề. Ông cũng đã không hổ danh trong lần
này.
Hôm đó, khi món bít – tết được dọn cho ông trong buổi cơm chiều, ông không ăn
nhưng lại rắc lên đó chất clorua lithium, là 1 chất hoàn toàn vô hại và trông, nếm
giống hệt muối ăn. Hôm sau, trong buổi điểm tâm, các sinh viên gom những lát thịt
trong phần ăn của mình và đưa nó vào 1 quang phổ kế để xem xét. Một vạch đỏ
xuất hiện trên quang phổ do việc phát xạ của Li tạo nên một chấm trên chữ i. Người
chủ tham lam đã bị phát hiện.
Nhiều năm sau Wood vẫn còn nhớ lại một cách thích thú việc “điều tra hình sự” của
mình...
15. SỰ DŨNG CẢM CỦA NHÀ HÓA HỌC
Schiller – nhà hóa học Thụy Điển xuất thân từ gia đình nghèo, phải bỏ học đi làm
thuê cho một nhà bào chế. Từ năm 14 tuổi, cậu bé Schiller đã tự mình đi vào hóa
học. Năm 1775, những công trình thực nghiệm của ông đã nổi tiếng thế giới. Ông đã
phát minh nhiều định luật cơ bản của hóa học.
Schiller có thói quen làm việc say mê. Công việc thí nghiệm của ong phải tiếp xúc
thường xuyên với các chất độc hoặc dễ nổ, cháy và có thể gây ra những tai họa bất
ngờ.
Một hôm, trước khi vào phòng thí nghiệm, ông dặn người giúp việc: “Tôi sắp làm thí
nghiệm với khí clo. Nếu chẳng may tôi ngã, gọi anh thì chớ vào vội mà phải mở tung

cửa rồi chạy nhanh ra ngoài!”. Người giúp việc hốt hoảng can ngăn nhưng ông điềm
nhiên: “Không thể được. Tính mệnh của tôi không phải là điều quan trọng! Quan
trọng hơn là phải tìm ra những tính chất của khí clo cơ”. Người giúp việc chỉ biết lắc
đầu mà thôi.
16. MƯU CAO CỦA NHÀ HÓA HỌC
Năm 1892, Nga Hoàng cử D.I Mendeleyev làm quan bảo vệ kho các vật chuẩn đo
lường. Một lần, khi nghe tin Công tước tể tướng Mikhain sẽ đến thăm kho, ông bèn ra
lệnh cho nhân viên lấy những đồ dùng bằng sắt lủng củng chất đầy các phòng và rải
khắp các lối đi.
Khi hướng dẫn vị Công tước tể tướng đi thăm các phòng kho, thỉnh thoảng
Mendeleyev lại nói:
- Xin lỗi, mời Ngài đi lối này ạ! Ngài coi chừng dưới chân, kẻo vấp ngã! Ở chỗ chúng
tôi rất chật chội ạ...
Và bằng cách đó, ông đã đề nghị để chính phủ Nga Hoàng chấp nhận thêm ngân
sách để mở rộng công trình nhà kho của ông.
17. GIẤC MƠ CỦA KEKULE
Nếu như giấc mơ của Mendeleyev khiến ông sắp xếp được hệ thống tuần hoàn các
nguyên tố hóa học, thì giấc mơ sau đây của Kekule lại xây dựng được cấu trúc vòng
của phân tử Benzen.

×