Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài luận: Học thuyết kinh tế của Chủ nghĩa Mác Lênin về phương thức sản xuất TBCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.22 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ HUẾ
Khoa Ngôn Ngữ Anh
Lớp Anh K13A
Sinh viên: Hoàng Lê Phương Dung
Mã SV: 16F7511018

BÀI KIỂM TRA
Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin II
Học thuyết kinh tế của Chủ nghĩa Mác- Lênin về phương thức sản xuất TBCN

Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Văn Thắng
Trường Đại học Sư Phạm Huế

Huế, 2017


Đề tài: Khi nói về xuất khẩu tư bản, Lênin cho rằng “Xuất khẩu tư bản là sự ăn
bám bóc lột bình phương của Chủ nghĩa Tư bản”. Hãy phân tích luận điểm trên và
rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với Việt Nam hiện nay.
Bài làm
* Xuất khẩu tư bản: Xuất khẩu tư bản là việc đưa tư bản ra nước ngoài nhằm
chiếm đoạt giá trị thặng dư tạo ra ở nước ngoài. Xuất khẩu tư bản khác xuất khẩu
hàng hóa ở chỗ:
- Xuất khẩu hàng hóa là đem hàng hóa ra tiêu thụ ở nước ngoài nhằm thu giá
trị thặng dư tạo ra trong nước.
- Xuất khẩu hàng hóa nhằm bóc lột thêm lợi nhuận bằng trao đổi thông qua
ngang giá, còn xuất khẩu tư bản nhằm bóc lột siêu lợi nhuận độc quyền bằng cách
bành trướng quan hệ sản xuất ra nước ngoài.
* Tính tất yếu của xuất khẩu tư bản: Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xuất
khẩu tư bản trở nên phổ biến vì:
- Ưu thế của xuất khẩu tư bản so với xuất khẩu hàng hóa:


+Tránh được hàng rào thuế quan
+Tận dụng được nguồn nguyên liệu phong phú, nhân công giá rẻ
+Các chính sách về môi trường, an toàn lao động còn khá lỏng lẻo
+Nhờ xuất khẩu tư bản, thậm chí còn có thể chi phối được tình hình kinh
tế, chính trị tại quốc gia đó, thế nên có thể thu được lợi nhuận cao.
+Nhu cần trút bỏ các công nghệ lạc hậu của các nước tư bản
- Các ngành, các lĩnh vực có lợi nhuận cao trong nước đã bị độc quyền hóa,
trong khi các nước tư bản phát triển đã tích lũy được khối lượng tư bản khá lớn,
dẫn đến tình trạng: Tư bản thừa. Nhưng chỉ là thừa tương đối so với yêu cầu lợi
nhuận của tư bản chứ không phải thừa so với nhu cầu phát triển kinh tế trong nước.
- Ngày nay, xuất khẩu tư bản còn là quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ sản
xuất của Tư bản Chủ nghĩa ra nước ngoài còn là công cụ thống trị của Tư bản Tài
chính thế giới.
- Xuất khẩu tư bản do xu thế quốc tế hóa sản xuất và đời sống, nhiều vấn đề
đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều nước.


- Do quy luật phân bố tài nguyên không đồng đều và phát triển không đồng
đều về khoa học kĩ thuật cũng như kinh tế nên phải có xuất khẩu tư bản.
- Xuất khẩu tư bản là điều kiện để thực hiện nền kinh tế mở.
* Hai hình thức của xuất khẩu tư bản:
- Xuất khẩu tư bản sản xuất: Xây dựng các xí nghiệp mới hoặc mua lại các
xí nghiệp đang hoạt động, hay thầu khoán xây dựng kênh đào, đường xá cho nước
nhập tư bản. → Tận dụng được nguồn nguyên liệu phong phú và nhân công giá rẻ,
dồng thời các chất thải độc hại thải ra trong quá trình sản xuất sẽ nằm lại trên đất
nước nhập tư bản → Tạo ra được những sản phẩm chất lượng có giá thành cạnh
tranh với nguồn vốn bỏ ra và rủi ro ít hơn khi làm ở nước xuất khẩu tư bản.
- Xuất khẩu tư bản cho vay: Đưa tư bản ra nước ngoài để cho vay nhằm thu
lợi tức hoặc bỏ tiền mua cổ phiếu của công ty, công trái của chính phủ → Tập
trung vốn nhanh để giải quyết các công trình kinh tế trọng điểm của nước nhập

khẩu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển → Khi cần thiết, tư bản sẽ huy động
vốn từ đó bằng cách bán ra các cổ phiếu, công trái → Nền kinh tế các nước nhập
khẩu dễ bị khủng hoảng. ( Ví dụ: Hiện nay Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của Mỹ.
Theo số liệu Bộ Tài chính Mỹ vừa công bố, trong tháng 6, số trái phiếu chính phủ
Mỹ do Trung Quốc nắm giữ đã lên 1.150 tỷ USD, tăng 44,3 tỷ USD so với tháng
trước. Nhật xếp sau với 1.090 tỷ USD, giảm 20,5 tỷ USD.).
- Ngoài ra, còn có hình thức viện trợ hoàn lại hoặc không hoàn lại, nó có vai
trò mở đường cho việc cho vay và đầu tư. Các công trình đầu tư từ nguồn vốn viện
trợ dễ bị các quan chức tham nhũng → Không hiệu quả. (Ví dụ: PCI đã trúng thầu
các dự án tư vấn xây dựng đường cao tốc tại TP HCM trong hai năm 2001 và 2003
với tổng trị giá 3,1 tỷ yen. Các dự án này đều được đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức ODA của Nhật Bản. Trong hồ sơ, các quan chức PCI đã hối lộ ông
Huỳnh Ngọc Sĩ, Giám đốc Giám đốc Dự án Đại lộ Đông Tây và Môi trường nước
TP HCM để trả ơn cho việc trúng thầu với tổng số tiền hối lộ lên đến 2,43 triệu
USD.).
* Chủ thể xuất khẩu tư bản:
- Xuất khẩu tư bản tư nhân: Do các nhà tư bản tư nhân hoặc các tổ chức độc
quyền, các tập đoàn sản xuất tư nhân đứng ra xuất khẩu.
- Xuất khẩu tư bản nhà nước: Nhà nước lấy tư bản từ ngân quỹ của mình đầu
tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để thực
hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị, quân sự.


- Trước chiến tranh thế giới thứ hai thì xuất khẩu tư bản tư nhân chiếm ưu
tiên, sau đó thì xuất khẩu tư bản nhà nước chiếm ưu thế.
* Hướng xuất khẩu tư bản:
- Lĩnh vực đầu tư: Trước kia chủ yếu đầu tư vào các ngành khai thác thì bây
giờ là các ngành chế biến.
- Trước đây thì chủ yếu đầu tư sang các nước đang phát triển thì nay là các
nước phát triển với nhau do quá trình phân công lao động quốc tế, mức độ an toàn

đầu tư ở các nước kém phát triển không cao, mặt khác cũng là khai thác các thành
tựu khoa học kĩ thuật của nhau và dành thị trường lợi nhuận.
- Viện trợ không hoàn lại cũng là hình thức xuất khẩu tư bản nhưng có kèm
theo các điều kiện về kinh tế, chính trị, quân sự.
* Tác dụng của xuất khẩu tư bản
- Giúp các nước kém phát triển giảm được áp lực từ những thành tựu trên thế
giới để phát triển, có thể thu hút vốn và học hỏi kinh nghiệm quản lý, từ đó rút
ngắn khoảng cách chên lệch giữa các nước.
- Để cá nước hòa nhập vào nền kinh tế thế giới và thực hiện cơ cấu kinh tế
mở.
* Hậu quả của xuất khẩu tư bản
- Đối với các nước nhập khẩu tư bản
+Sức lao động bị bóc lột nặng nề
+Nền kinh tế bị lệ thuộc (thậm chí chính trị và quân sự)
- Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản Tồn tại hai xu thế trái ngược nhau
+Xu thế phát triển nhanh chóng của nền kinh tế
+Xu thế trì trệ của kinh tế do tác động của độc quyền
- Tốc độ tăng trưởng lạc hậu nhiều so với khả năng khoa học công nghệ hiện
đại cho phép (hiệu suất sử dụng máy móc chỉ đạt 60-70%); tình trạng thất nghiệp
ngày càng gia tăng → Chủ nghĩa Tư bản vẫn còn sức sống, mâu thuẫn cơ bản của
Chủ nghĩa Tư bản vẫn còn tồn tại và ngày càng sâu sắc hơn, biểu hiện thành những
mâu thuẫn sau:
+Mâu thuẫn giữa Tư bản và người lao động ngày càng sâu sắc.


+Sự phân hóa giàu nghèo và bất công tăng lên, bản chất bóc lột giá trị
thặng dư vẫn còn tồn tại.
* Vậy tại sao xuất khẩu tư bản là “sự ăn bám bóc lột bình phương của Chủ
nghĩa Tư bản”?
- Sở dĩ tại sao xuất khẩu tư bản (các nước tư bản phát triển xuất khẩu sang

các nước đang và kém phát triển) gọi là ăn bám bình phương vì tư bản vốn được
xem là công cụ bóc lột công nhân bản địa (chính quốc) nay tư bản dư thừa từ việc
bóc lột công nhân bản địa được xuất khẩu ra nước ngoài (cho vay hoặc đầu tư) nên
qua đó đã bóc lột luôn cả công nhân ngoại quốc (thuộc địa) để mở rộng Chủ nghĩa
Tư bản. → Bóc lột bình phương hiểu theo Lênin là ăn bám bình phương (một cách
nói hình tượng).
- Nên nhớ rằng xuất khẩu tiền (để cất trong két) không gọi là xuất khẩu tư
bản vì tiền không phải là tư bản.Tiền vận động (" tiền biết đẻ ")mới gọi là tư bản.
* Tác động của xuất khẩu tư bản đối với Việt Nam hiện nay
- Việt Nam đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Trong những năm
qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong phát triển kinh tế:
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm, giải quyết tốt vấn đề lương thực,
tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu... Tuy nhiên, Việt Nam cũng còn đang phải đối
phó với những thách thức to lớn trong quá trình phát triển. Cũng như các nước
đang phát triển khác, Việt Nam thiếu vốn, thị trường, công nghệ và những kinh
nghiệm trong quản lý để xây dựng và phát triển kinh tế.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) là một hình
thức của đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế của các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đi kèm
với nó là sự chuyển giao về vốn, công nghệ, thị trường và các kinh nghiệm trong
quản lý đáp ứng nhu cầu của các nước đang phát triển, đồng thời góp phần tạo việc
làm cho người lao động. Với việc thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư nước
ngoài, trong hơn 10 năm qua Việt Nam đã thu hút được lượng vốn đầu tư đăng ký
đạt hơn 36 tỷ USD. Đây là nguồn lực quý báu để xây dựng và phát triển kinh tế
Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo việc làm cho hàng vạn lao động, góp
phần vào tăng GDP và kim ngạch xuất khẩu. Nước ta đã và đang tiến hành từng
bước hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. Bên cạnh việc tiếp tục thúc đẩy
quan hệ song phương về các mặt thương mại, đầu tư và trao đổi trên nhiều lĩnh vực
khác theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, từng bước đảm bảo thực hiện quyền

tự do hợp tác kinh doanh với nước ngoài đối với mọi doanh nghiệp, nước ta tham


gia đầy đủ hơn vào cơ chế đa phương nhằm thu hút tối đa nguồn lực bên ngoài cho
phát triển, thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế thị trường.
→ Vì thế, trong bối cảnh tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá nền kinh tế
thế giới tạo nhiều cơ hội cho Việt Nam phát triển. Để có thể tận dụng được các cơ
hội, chúng ta phải chủ động hội nhập, xây dựng chiến lược cơ cấu thích ứng vào
nền kinh tế thế giới để nền kinh tế nước ta gắn kết ngày càng mạnh hơn,dần trở
thành một thực thể hữu cơ của kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
~o~o~o~o~o~o~o~o~o~o~
Nguồn tham khảo:
1. />
tai-cao-dang-dai-hoc/781122-xuat-khau-tu-ban-o-viet-nam
2. />
2695690.html
3. />
nhat-cua-my-3628258.html

~o ~o~o~o~o~o~o~o~o~o~o~
Đề tài: Phân tích sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp trong chủ
nghĩa tư bản hiện đại. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với xã hội Việt
Nam ngày nay.
Bài làm
* Quan hệ sở hữu: Sự phát triển của cơ chế chiếm hữu tư nhân từ thời tự do cạnh
tranh đã dần được thay thế bằng cơ chế kinh tế có mang những yếu tố kế hoạch
đáng kể.
- Chủ nghĩa Tư bản hiện đại phải được nhìn nhận như một thực tế, trong đó
sự phát triển của lực lượng sản xuất được thực hiện, các hình thức truyền thống của
quan hệ sản xuất đã đan xen với các hình thức độc quyền nhà nước được sản sinh

bởi quá trình xã hội hoá sản xuất. → Sự thống nhất phức tạp giữa điều chỉnh và thị
trường, giữa chế độ quản lý kinh tế hỗn hợp.
- Biểu hiện nổi bật nhất là sự phân tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên.
+Những năm 90 của thế kỷ XX, số lượng người dân nắm cổ phiếu và giá
trị cổ phiếu ở Mỹ đều tăng khá nhanh. Năm 1989 là 28% dân số Mỹ có cổ phiếu,
năm 1999 tới 48,2%, năm 1995 những người có trong tay cổ phiếu trị giá thấp
(5.000 USD trở xuống) đang giảm dần, còn những người có trong tay cổ phiếu trị
giá 50.000 USD trở lên tăng gấp đôi so với năm 1989, lên đến 18,4 triệu người.


- Phân tán hoá quyền khống chế cổ phiếu có lợi cho cải thiện quan hệ giữa
chủ xí nghiệp và công nhân.
- Nhưng trên thực tế, công nhân là cổ đông nhỏ, không thể cùng với nhà tư
bản phân chia quyền lực, nên phân tán hoá quyền khống chế cổ phiếu cũng không
thể làm thay đổi địa vị làm thuê của người lao động.
- Trong tiến trình xuyên quốc gia hoá và toàn cầu hóa nền kinh tế, trong việc
các nhà nước tư bản tìm kiếm các biện pháp điều tiết nền kinh tế, hình thức sở hữu
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đã có những thay đổi đáng kể, quan hệ sản
xuất ở các nước tư bản chủ nghĩa đã được xã hội hoá hơn trước. →Trong một
chừng mực nhất định, có sự thích ứng hơn với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Ngày nay, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đương nhiên là vẫn tồn tại và có những mặt
gay gắt nhưng ở mặt khác, mâu thuẫn đó không còn những đường nét và ranh giới
rõ ràng như trước.
+Trong Chủ nghĩa Tư bản hiện đại, nhà nước tư sản chiếm hữu và phân
phối từ 30% - 60% thu nhập quốc dân. → Đây không đơn thuần là sự chiếm hữu tư
nhân nữa, mà phần nào đã mang tính chất xã hội.
- Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận rõ, mặc dù Chủ nghĩa Tư bản có phần
thành công nhất định trong điều tiết kinh tế nhưng cũng chỉ là thành công nhất thời.
Mâu thuẫn cố hữu của Chủ nghĩa Tư bản không thể thay đổi. Cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu vừa qua đã khẳng định điều đó.
* Kết cấu giai cấp: có những biến đổi lớn, các giai cấp, tầng lớp, đoàn thể xã hội
và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau.
- Nổi bật nhất là sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là giai cấp
trung sản), chiếm khoảng 40 - 50% dân số.
- Trên thực tế, phần lớn trong số này có cổ phiếu hoặc một phần vốn, rất
nhiều trong số họ là trí thức hoặc nhân viên chuyên ngành, có địa vị nghề nghiệp
khá tốt, đã không còn là giai cấp vô sản theo quan niệm truyền thống nữa.
* Thu nhập của người lao động:
- Khác với những năm cuối thế kỷ vừa qua, hiện nay giai cấp công nhân ở
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, phần đông đã trả công theo giá trị sức lao
động.


+Số liệu thống kê của Cục Điều tra dân số Liên bang Mỹ cho thấy, từ
năm 1986-1993, thu nhập thực tế của số công nhân thuộc các doanh nghiệp tư nhân
luôn có xu thế giảm; nhưng từ năm 1993 đến năm 1999 thì lại tăng lên 7,4%. Năm
1999 tỷ lệ nghèo khó giảm đến mức thấp nhất kể từ năm 1979.
- Nguyên nhân: Sở dĩ như vậy vì giai cấp tư sản có thể dùng một phần siêu
lợi nhận để mua chuộc:
+Vì phong trào công nhân có tổ chức chặt chẽ trở thành một lực lượng
hùng mạnh là đối trọng đáng kể đối với giai cấp tư sản.
+Vì để mở rộng sản xuất, Chủ nghĩa Tư bản cũng rất cần tăng số "cầu"
của dân cư, tăng quy mô tiêu dùng cá nhân.
=> Sự thay đổi đáng kể trong đời sống những người lao động ở các nước
tư bản chủ nghĩa phát triển. Tình trạng nghèo khổ vẫn còn, nhưng không phải phổ
biến ở phần lớn những người công nhân làm thuê; đang phát triển một cách tự phát
cái mà Lê nin gọi là "ý thức công liên chủ nghĩa", không cảm thấy trực tiếp ách áp
bức của hệ thống tư bản chủ nghĩa.
*Kết luận:

- Nếu nhìn nhận một cách trực quan, Chủ nghĩa Tư bản hiện đại đã khoác
trên mình nó một bộ áo cánh mới và bộ áo cánh đó đã phần nào che đậy được một
số khuyết tật cố hữu của Chủ nghĩa Tư bản.
- Tuy nhiên, Chủ nghĩa Tư bản dầu sao vẫn là Chủ nghĩa Tư bản với bản
chất xã hội mang nặng sự phi lý, là chế độ đầy rẫy bất công phi lý, mâu thuẫn.
- Một điều nữa cần được khẳng định là chính những thay đổi hiện nay trong
lòng Chủ nghĩa Tư bản cùng những thành công nhất thời trong việc tự điều chỉnh
lại tạo những nhân tố và tiền đề mới cho một xã hội tương lai- xã hội phủ nhận
Chủ nghĩa Tư bản. Quy luật phát triển xã hội chắc chắn là như vậy.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với xã hội Việt Nam hiện nay
- Ý nghĩa lớn nhất mà vấn đề này mang lại cho xã hội Việt Nam hiện nay là
củng cố và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
+Có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.


+Có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế.
+Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất
quan trọng của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế
tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
+Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh
cùng phát triển theo pháp luật. Khuyến khích làm giàu hợp pháp.
+Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua
hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
+Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả
các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà

nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị
trường.
- Vận dụng vào Việt Nam: (Theo Nghị quyết TW 5)
+Hoàn thiện thể chế về cổ phần hóa, định giá doanh nghiệp nhà nước; thể
chế về tài sản và quyền về tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền
định đoạt và hưởng lợi từ tài sản); thể chế về thị trường các yếu tố sản xuất, bảo
đảm để thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu quả nguồn
lực.
+Thực hiện phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc thị trường vào những
ngành, lĩnh vực và vùng có hiệu quả cao, có tác động lan tỏa. Khắc phục tư tưởng
bao cấp, xin -cho, ỷ lại của các cấp, ngành, địa phương và trong xã hội.
+Phát triển thị trường tài chính một cách cân bằng hơn giữa thị trường
tiền tệ và thị trường vốn; giữa thị trường vốn cổ phiếu và trái phiếu; giữa trái phiếu
chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp; giữa dịch vụ tín dụng và các dịch vụ ngân
hàng phi tín dụng; quan tâm phát triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm và tín dụng
tiêu dùng.
+Khuyến khích và tạo thuận lợi, hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo,
phát triển doanh nghiệp. Thu hút có chọn lọc các dự án đầu tư nước ngoài, tăng
cường kết nối và phát huy tác động lan tỏa với các khu vực kinh tế trong nước.


+Hoàn thiện luật pháp liên quan về đất đai để khuyến khích và tạo điều
kiện tích tụ đất nông nghiệp; phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất, bao
gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nhất là đối với đất nông nghiệp.
- Xã hội Việt Nam theo cơ chế kinh tế thị trường như hiện nay, dẫu không
muốn nhưng cũng đã có những sự “bóc lột” nhưng sự “bóc lột” này là điều tất yếu
xảy ra để đưa đất nước thoát khỏi sự đói nghèo bao trùm và sự lạc hậu bủa vây bởi
nền kinh tế nhà nước bao cấp như trước đây. Những cuộc cải cách, những cuộc
điều chỉnh này đã cho thấy rõ nhưng mặt tích cực trong nền kinh tế, thế nên, “bóc
lột nhân đạo hơn không bóc lột”.


Biểu đồ GDP của Việt Nam giai đoạn 1980-2014
~o~o~o~o~o~o~o~o~o~o~
Nguồn tham khảo:
1.
2.
3.

Nghị quyết TW 5 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN
/> />~o~o~o~o~o~o~o~o~o~o~




×