Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

DSpace at VNU: Quan niệm về cái đẹp, nghệ thuật và văn học của văn học dân gian Việt Nam cùng ý nghĩa của nó trong giao lưu trước kia và hội nhập hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.25 MB, 9 trang )

QUAN NIỆM VÈ CÁI ĐẸP, NGHỆ T H U Ậ T VÀ VĂN Họ<
CỦA VẢN HỌC DÂN GIAN V IỆ T NAM

CÙNG

Ý NGHĨA CỦA NÓTRONG GIAO L ư u TRƯỚC lí A
VÀ HỘI NHẬP HIỆN NAY
Phương Lfu

M uốn được bền vững trong hội nhập để phát triển thì c ỏ nhiều v iệc phải 1'
nhưng phải giữ gìn bản sác văn hóa dân tộc là then chốt nhất, m iễn là không qnêi ^
sắc v ă n h ó a d ân tộ c cũ n g có th ể v à cần p hải p h át triển k h ô n g n g ừ n g . M uốn gi} .

bản sắc văn hóa dân tộc cũng có nhiều việc, nhưng nên tham khảo thêm trường p ' •

Phê bình cổ mẫu (Archetypal criticism) bắt nguồn từ K.G. Jung cho rằng c ổ rraLỊ'
những ý tượng nguyên thủy chứa đựng những triết iý sâu xa của m ột sác tộ* ì
chủng tộc người, thường có tác dụng chi phối mãi về sau. (Truyền thuyết 7 ^

Giỏng ở V iệt Nam có thể là một minh chứng). Điều này có m ột ý nghĩa p h ư ơ iig ^
luận tro n g v iệc giải th ích tại sao tro n g lý thuyết văn h ọ c hiện đại v à hậu hiệi (Jphương Tây vô cùng phong phú, phức tạp hiện nay, ít nhiều ai cũng trích duợi
câu nào đó của Platon, Aristote, Héraclite, Démocrite, v .v ... C ũng vậy, lý thu/ế V
hoc Trung Quốc thế kỷ X X cũng chuyển biến dữ dội, nhưng phái này phái Uí Ị
này lúc khác, đều thấy còn in dấu vết nếu không phải cùa K hổng Mạnh, thì Qìí L
Trang, kể cả của M ặc Tử, thậm chí của Hàn Phi Tử! Phê bình cổ mẫu diễn b;ếi dfl
Phê bình thần thoại (Myth criticism) thì Northop Frye đã m ở rộng khái niậrr "ị
m ẫ u ", ch o n ó k h ô n g n h ất th iế t là n h ữ n g ý tư ợ n g n g u y ê n th ủ y tro n g th ầ n th o ại triy
th u y ế t, m à là " n h ũ n g ý tư ợ n g điển h ình th ư ờ n g x u ất h iện trở đi trở lại". T h ìo tik
th ầ n đó, c h ú n g tôi đi tìm q u an niệm v ề cái đ ẹp, n g h ệ th u ậ t v à v ă n h ọ c tro n g \ã i h,
d ân g ia n , vì v ăn h ọ c d ân g ia n v ừ a là cái gốc rễ n h ất, lại v ừ a c h ả y x iế t tro n g tnỜ!
kỳ lịch sử đ ể có th ể nh ìn rõ hơn quan niệm v ề n h ữ n e m ặ t n à y c ủ a co n n g ư riv ^


N am "n g u y cn chất" (cả ư u lẫn như ợ c) từ x ư a đến nay. S ở d ĩ n ó i quan niịrrtcị
k h ô n g th ể n o í lý luận, bời vì trong văn học dân g ia n làm gì c ó lý lu ận ph* \ n
N h ư n g nói quan niệm k h ô n g phải là đúc kết từ to à n b ộ th ự c tiễ n s á n g tá c, m; c,i
kh ái q u á t từ n h ữ n g câu ca d ao, dân ca, tục n g ữ , n h ư n c có tín h c h ấ t q u a n n iệ n ri

* GS., TSKH., Đại học Sư phạm Hà Nội.
Ỉ4


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LẰN THỨ T ư

tiếp như "Văn mình, v ợ người", "Tốt gỗ hom tốt nước sơn", v .v ... và cả những chi
tiết, những hình tượng trong thể loại tự sự, m iễn là cỏ liên quan trực tiếp đến cái đẹp
và nghệ thuật như H ồ giải yếm , tiếng hát Trương Chi, tiếng đàn Thạch Sanh, v.v...

1. v ề cái đẹp
Văn học dân gian V iệt N am tập trung nói về cái đẹp của con người: "Người là
hoa của đất", nhưng thông qua quan niệm v ề con người đẹp cũng có thể thấy trên
những nét lớn quan niệm v ề cái đẹp nói chung, vì tuy có hơi cự c đoan, nhưng đúng
như F .w . N ietzsche đã nói: "Không có cái đẹp nào khác cả, chỉ có con người mới
đẹp. Phải xây dựng toàn bộ m ỹ học trên cái chân lý giản đơn này" (Sự ra đời của bi

kịch). Trước tiên là cái đẹp hình thức, ngoại hình sẽ gây nên cái đẹp trực quan cho
con người: "Cổ tay em trắng như ngà. Con mắt em liếc như là dao cau. Miệng cười
như thể hoa ngâu. Cải khăn đội đầu như thể hoa sen" ; "Chân mày vòng nguyệt có
duyên. Tóc mây gợn sóng đẹp duyên tơ hồng”2, v.v... Trong thể loại tự sự, cái đẹp của
nhân vật, trước hết cũng là cái đẹp ngoại hình, dáng điệu. Trong trường ca Đăm Săn, vẻ
đẹp của H ơ N hí vừa cụ thể vừa sinh động, tưởng chừng như được chắt lọc ra tò cỏ cây,
hoa lá c ủ a n ú i rừ n g T ây n g u y ên : "H ơ N h í đi như chim p hư ợ ng hoàng bay, như chim


diều lượn trên không, như nước chảy dưới suối. Thân hình uyển chuyển như cây blo,
mềm dẻo như những cành trên đinh cây, gió đưa đi đưa lạì3, v.v... Nhưng qua sự nhấn
mạnh việc đẹp nết, đẹp tâm hồn tính cách, các tác giả dân gian rất coi trọng cái đẹp nội
dung: "Tốt g ỗ hom tốt nước sơn. xẩu người đẹp nết còn hơn đẹp người"4; "Có đỏ mà

chẳng có thơm. Như hoa dâm bụt nên cơm chảo gì"5, v.v... Cách nhìn này bộc lộ khá
dồi d à o trong Lệnh Trừ k ể chuyện m ộ t chàng tra i v ố n là "người n h à trờ i" đ ầ u th ai

xuống trần gian, nhưng còn phải mang lốt cóc. Bằng m un trí tuyệt vời và sức cảm
hóa kỳ diệu, sau khi đã trài qua bao thử thách hiểm nghèo, chàng đã lấy được công
chúa. N hưng nàng hỏi tại sao không trút bỏ luôn cái lốt có c ây đi thì chàng trả lời:
"Nếu trút bỏ đi, thì nhất định lại có người hóa cóc thay ta. Ta trở lại thành người, đổ
người khác hóa cóc thực lòng ta không muốn"6.
T u y n h iê n , h ầ u n h ư d u y n h ấ t n g o à i c h u y ệ n Lệnh Trừ n à y ra, thì tấ t c ả các
tru y ện có h ìn h ả n h xẩ u người - đẹp nết th ậ t r a đ ề u có h ai g ia i đ o ạ n c ủ a c ố t tru y ệ n .
X ấu n g ư ờ i ch ì là g ia i đ o ạ n đ ầ u , v ề sau đ ề u th à n h đ ẹ p n g ư ờ i đ ẹ p n ế t v ẹ n to à n .

Truyện L ấ y vợ cóc k ể lại m ộ t cô g ái đ ộ i lố t có c, n h ư n g n ó i n ă n g d ịu d à n g k h ô n
n g o an , n ấ u ăn tu y ệ t n g o n , m a y v á tu y ệ t k h é o , c ả m đ ư ợ c a n h h ọ c trò tố t b ụ n g , v à

1, 2, 4, 5. Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H. 1978, tr. 192, 290, 85,
96, 105, 130,275
3. Trường ca Tây nguyên, Giáo dục, H.1983, tr. 40.
6. Truyện cổ Việt Bắc, Việt Bắc 1976, tr. 16.

846


QUAN NIỆM VỀ CÁI ĐẸP, NGHỆ THUẬT VÀ VĂN HỌC..


cuối cù n g trú t đ ư ợ c lốt c ó c trở th àn h cô gái tu y ệ t đ ẹ p 1. C á c tru y ệ n Sọ dừa , Lẩy

chong dê, Hai cô gái và cục bướu, Sự tích con khi, kể cả truyện Chàng rùa của dân
tộc M èo, Nàng Kháy của dân tộc Tày, v .v ..., đều như vậy .V iệc phân cốt truyện
trước sau theo hình tuyến về thời gian, như muốn phơi bày ch o thật rõ cái lôgíc tuy
nội dung là quan trọng nhất, nhưng rồi phải được hình thức hóa m ột cách tương
ứ ng. N h ấn m ạn h tâm h ồ n , tín h các h , xem đ ẹp n ết là c h ủ y ế u , là g ố c g á c , n h ư n g th ậ t

ra dân gian vẫn xem cái đẹp toàn diện đích thực phải ià sự thống nhất hài hòa cao
độ giữa nội dung và hình thức: "Những người thắt đáy lung ong. Đã khéo chiều

chòng lại khéo nuôi con"2; "Cô kia má phấn môi son. Nắng dầu mưa dãi càng giòn
càng tươi"3. Và các tác giả dân gian thử phác ra mẫu người đẹp người - đẹp nết qua
một chuỗi hình ảnh sau: "Một thương bò tóc đuôi gà. Hai thương ăn nói mặn mà có
duyên. Ba thưomg má lúm đồng tiền. Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém íhiưi.
Năm thương cỗ ảo đeo bùa. Sáu thương nón thượng quay' tua dịu dàng. Bảy thương
nép ở khôn ngoan. Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh. C hín thương cô ở m ột

mình. Mười thương con mắt có tình với ai"4. K hông những đối với người yêu lý
tư ờ n g c ủ a các c h à n g trai trẻ, m à đ ố i với p h ụ n ữ n ó i c h u n g , d â n g ia n c ũ n g lu ô n c a

ngợi những người đẹp người - đẹp nết như trong truyện Nàng Xuân Hương và nhất
là truyện Người đàrì bà bị vu oan! Truyện kể cô vợ eùa Tỉnh, m ột phụ nữ xinh đẹp,
nết na, đoan trang. Bạn buôn là Lý đặt cược nếu trong m ột tháng quyến rũ được
nàng, thì Tinh sẽ mất luôn cả vợ lẫn gia tài. Giở m ọi thủ đoạn đều thất bại, Lý bèn
mua chuộc bà đỡ cho biết nàng có một nốt ruồi dưới rốn. L ý côn g bổ đó là bằng
c h ứ n g đ ã q u y ế n rũ đ ư ợ c v à T ìn h đ àn h p h ải g ia o g ia tà i v à đ á n h đ u ổ i v ợ đ i. B ị o an

ức, một hôm giữa đường, nàng bèn túm lấy tóc Lý đòi nợ. Trước cửa quan, Lý nói
không hề quen biết nàng bao giờ đâu mà vay nợ. N àng dõng dạc: "Nếu không hề

q u en biết, thì làm sao có ch u y ện ăn nằm v ớ i tôi đ ư ợ c?". Đ u ổ i lý, L ý b ị q u a n b ắt p h ả i

trả lại tài sản và hai vợ chồng Tình đoàn tụ trở lại5. M ột ngư ời phụ nữ đẹp, lại rất
tiết hạnh thủy chung, biết bảo vệ mình một cách kiên quyết và v ô cùng khôn khéo.
N ộ i d u n g v à h ìn h th ứ c ờ đ â y đ ã h ò a qu y ện đ ến độ lý tư ở n g .
B iể u hiện c a o đ ộ c ủ a lý tư ở n g th ẩm m ỹ d ân g ian V iệ t N a m tậ p tru n g ờ h ìn h
ản h n h ữ n g n g ư ờ i con gái đ ẹp b iế t d ù n g n h a n sấc c ủ a m ìn h v à o v iệ c g iú p dân c ử u
n ư ớ c. C á c tru y ện Trần C hâu , H ai nàng công chúa đời Trần, đ ã k ể lại c h iế n c ô n g
c ủ a các cô gái đ ẹp này tro n g v iệc d iệ t giặc T ần , N g u y ê n , v . v . .. T ru y ệ n N gư ờ i ả đào

với giặc M inh cò n k ể rằ n g b ọn g iặ c p h ư ơ n g B ắc này rất s ợ m u ỗ i c h o n ê n h ay n g ủ
tro n g túi, v à tất n h ic n cần n g ư ờ i th ắ t m iện g túi lại. C ó m ộ t ả đ à o rấ t đ ư ợ c c h ú n g y êu

1,5. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập IV, Nxb Khoa học xã hội, H. 1975, tr.42, 206, 227.
2, 3. 4. Tục ngừ, ca dao, dân ca Việt Nam , Nxb Khoa học xã hội. 11. 1978, tr. 192, 290, 85, 96,
105, 130,275.

847


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THÀO QUỐC TẾ LÀN THỬ TƯ

mê và thường được giao cho việc này. N hưng khuya đến, cùng vớ i trai làng, nàng
khiêng chúng vứt luôn xuống sô n g 1. C ó thể đây là người thật v iệ c thật! N hư ng có
những truyện chắc chắn là hư cấu cũng được dựng nên theo tinh thần như vậy. V à
cũng chính vì hư cấu, cho nên về một mặt nào đó lại càng chứng thực v ề chức năng
của cái đẹp đối với v iệc giúp dân cứu nước trong lý tường thẩm m ỹ của nhân dân ta.
T ru y ệ n H ồ g iả i yếm k ể v ề m ộ t c ô gái n g h è o lạ i m ồ c ô i, n h ư n g r ấ t c ó tà i b ơ i lộ i, đ ã

cứu được nhiều người trong mùa lũ lụt. M ột tiên ông thưởng ch o cô m ột ch iếc yếm ,

từ đó cô trở thành người có nhan sắc tuyệt vời, lại có sức mạnh thần kỳ. Đ ất nước
có giặc ngoại xâm , cô liền gá nghĩa với một tướng quân và cùng chồng ra trận. Giặc
đến, cô tung giải yếm ra hóa thành một chiếc cầu m ọc dài đến tận quân địch. Quân
ta tiế n lên c ầ u , b ỗ n g c ó s ứ c m ạ n h th ầ n k ỳ . T h ắ n g trậ n tr ở v ề , h a i b ê n c ầ u lạ i n ở đ ầy

hoa đẹp, quân tướng ngắt lên xem bỗng thấy hình ảnh cha m ẹ v ợ con. C hiếc cầu lại
thu hình thành chiếc yếm trên tấm thân xinh đẹp của nàng. Quân giặc bày mưu giết
cô, giải yếm văng ra và cũng vươn dài thành chiếc cầu. Quân giặc tiến ào qua cầu,
nhưng tất cả đều biến thành chó hai đầu, đuổi nhau sủa cắn âm ỹ. C uối cùng quân ta
lại thắng, đất nước lại thanh bình, chiếc cầu giải yếm vẫn được lưu giữ lại. Trai gái
đời này qua đời khác đến tham quan, mới bước lên cầu đã phải lòn g nhau2. Chiếc
cầu giải yếm , tượng trưng cho cô gái nhan sắc, không những có sức m ạnh to lớn
trong v iệc đuổi giặc ngoại xâm , mà còn làm cho tình người thêm đẹp, con người
yêu thương nhau hơn

2.

về nghệ thuật và văn học

Qua con người dẫn đến quan niệm về bản chất và chức năng của cái đẹp một
cách biện chứng và lý tưởng như vậy, cho nên khi đề cập đến nghệ thuật, biểu hiện
tập trung của cái đẹp, văn học dân gian V iệt N am rất nhấn mạnh nghệ thuật phải
thật sự là nghệ thuật và thường chế giễu loại nghệ thuật rởm. Truyện cười Tiếng đàn

bầu g iễ u cợt một anh gảy đàn bầu như bật b ô n g mà lại rất đắc ý. Anh quả thật có
làm cho chị hàng xóm dường như cũng cảm thấy "Làm thân con gái chớ nghe đàn
bầu ". N h ư n g c h ẳ n g q u a v ì là gái g ó a, m à c h ồ n g trư ớ c đ â y là m n g h ề b ậ t b ô n g , c h o
n ên m ỗi k h i n g h e tiế n g đ àn b ê n c ạ n h th ì ch ị liền th ư ơ n g n h ớ đ ể n c h ồ n g b ậ t b ô n g v ấ t
vả, m à sụ t sù i rơ i lệ 3. T h ì ra làm n g h ệ th u ậ t m à ăn n h ờ , th ậ m c h í v c n h v áo v ớ i
n h ữ n g h iệ u q u ả p h i n g h ệ th u ậ t n h ư v ậ y , đ ã bị ch ế g iễ u từ lâu . V ớ i tư cácỉi là m ộ t

loại h ìn h n g h ệ th u ậ t, v ã n h ọ c lại c à n g p h ả i n h ư v ậy , n g h ĩa là p h ả i m a n g g iá trị n g h ệ
th u ậ t cao. L àm đ ư ợ c v ă n th ơ đ íc h th ự c đ âu p h ải dễ. T ru y ệ n L ấ y đâu ra mà rặn c h ế

1. Kho tàng truyện cỗ tích Việt Nam , tập IV, Nxb Khoa học xã hội, H. 1975, tr. 42, 206, 227.
2. Truyện cổ Việt Nam, tập IA, Nxb Khoa học xã hội, H. 1983, tr. 17.
3. Truyện cười dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H. 1987, tr. 176, 112, 109.

848


QUAN NIỆM VỀ CÁI ĐẸP, NGHỆ THUẬT VÀ VĂN HỌC...

g iễ u anh đồ d ố t làm câu đối. T h ấ y anh ta lo a y h o ay m ã i k h ô n g ra đ ư ợ c c h ữ n ào , ch ị
v ạ liền hỏi làm câu đ ổ i có k h ó b à n g rặn đ è k h ô n g , thì đ ư ợ c tr ả lờ i: "Đ ẻ th ì có co n
tro n g b ụ n g , rặn m ãi phải ra, c h ứ làm câu đ ố i m à k h ô n g c ó c h ữ , lấy gì m à r ặ n ? " 1.
R ồi bài Thơ con cóc: "C on có c tro n g h a n g , co n có c n h ả y r a . đ ư ợ c d â n g ia n b ịa ra
d ể chế g iễ u n h ữ n g loại văn th a q u á k ém cỏi. H ay n h ư b ài Thơ cái chuông: "C h ù a
n ày có cái ch u ô n g . Đ án h nó k ê u b o o n g b o o n g . T re o n ó lên n h ư v ạ i. Ấ y n ó v ố n b ằ n g
d ồ n g "; rồ i n h ữ n g câu n h ư "V ăn m ìn h v ợ n g ư ờ i", " V ă n h a y c h ẳ n g lọ dài d ò n g " ,
"V ăn h ay c h ẳ n g p hải đọc đài. V ừ a m ở đ ầu bài đã b iế t v ẳn h a y " , v .v ... đ ều trự c tiếp
h o ặ c g ián tiếp to á t lên cái yêu cầu cao c h o sá n g tá c v ă n h ọ c . T r u y ệ n c ư ờ i N gử i văn
lại càn g m a n g tính ch ất n h ư v ậy . C h u y ệ n k ể m ộ t anh m ù m à b iế t n g a y đ ây là v ở
k ịch Tây sương ký v ì th ấ y có m ù i p h ấ n so n , k ia là tiểu th u y ế t Tam quốc v ì n g h e có
m ù i b in h đao! N h u n g khi th ầ y tú n ọ đ ư a v ăn c ủ a m ìn h ra, a n h liề n b ả o "V ăn c ủ a
an h c h ứ gì?". T h ầ y tú xem c h ừ n g p h ấ n k h ở i hỏ i: "S ao b iế t đ ư ợ c g iỏ i th ế ? " . A n h ta
liề n đáp: "C ó ch i, c h ẳ n g q u a là n g h e c ó m ù i th u m th ủ m !" 2, v .v ...
N h ư n g m ộ t k h i đ ã là v ă n h ọ c n g h ệ th u ậ t đ íc h th ự c th ỉ c ó tá c d ụ n g to lớ n v à
n h iề u m ặt. T ấ t n h iê n c ũ n g k h ô n g trá n h k h ỏ i m ộ t số đ ịn h k iế n n à y n ọ : "V ô n g h ệ đi
h át, m ạt nghệ đi câu"; "X ư ớng ca v ô loài", v .v ... N hum g s ự th ậ t là c ó rất n h iề u sá n g tảc
d ân gian trực tiếp đề cao vai trồ v à tá c d ụ n g kỳ diệu củ a n g h ệ th u ậ t: "Đi qua nghe tiến


em đàn. Lá vàng xanh lại, sen tàn nở hoa"3. T ất n h iên n g h ệ th u ậ t trư ớ c h ế t v ố n có sứ c
mạnh vô biên trong việc giao lưu tình cảm của con người. Trong hệ th ố n g tru y ện cổ có
m ột mô tip phổ biến về nh ữ ng chàng trai nhờ có giọng hát hay m à chiếm được trái tim
củ a n h ữ n g cô gái đẹp, có khi là c ô n g ch ú a, th ậm chí là n ữ th ầ n : Cô g á i con thần nước

và chàng đảnh cả; Tiếng hát Trương Chi, v.v... Tiếng hát ngọt ngào, tha thiết của
c h à n g T rư ơ n g C hi x ấu xí, n g h è o h èn m à c ả m k ích đ ư ợ c tấ m lò n g c ủ a M ỵ N ư ơ n g co n q u an th ừ a tư ớ n g cao san g q u y ể n q u ý , q u ả th ậ t là kỳ d iệ u . K h ô n g y ê u m ế n , trân
trọ n g n g h ệ th u ậ t thì dân gian k h ô n g th ể sá n g tạ o nên câu c h u y ệ n c ả m đ ộ n g n h ư th ế.
N g h ệ th u ậ t c ũ n g có ý ng h ĩa tro n g v iệ c c h u n g số n g tích c ự c v ớ i th iê n n h iê n . Đ ồ n g
b à o T h ái th ư ờ n g ca h át: "Tiếng hát vào núi, đả phải thành vôi. Em hát cùng anh,

gấp nên tẩm áo. H át cùng rau s ẽ mọc thành sen. H át cùng trăng sao, rơi xuống
thành đá. H át cùng suối ruộng cả chạy về đây. Hát cùng ru ộ n g đồng, vàng thơm
thóc lúa. Hát cùng trời, tháng chín, tháng m ười quên m ưa"4.
Đ ặc biệt, n g h ệ th u ật cò n g iữ v ai trò to lớn tro n g v iệ c tố c á o áp b ứ c b ất c ô n g v à
c ô n g c u ộ c c h ố n g n g o ại xâm , m à tiế n g đàn T h ạc h S an h là m ộ t b iể u tư ợ n g . S au khi bị

1, 2. Truyện cười dân gian Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, H. 1987, tr. 176, ỉ 12, 109.
3. Hát phường vài, Nxb Văn hóa. H. 1961, tr. 64.
4. Hợp tuvển thơ văn Việt Nam, tập VI, Nxb Văn học, H. 1979, tr. 147.

849


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỬ TƯ

khép tội oan hạ ngục, Thạch Sanh đem đàn ra gảy. T iến g đàn thần diệu như oán,
như than, như tức, như bực, thoát bay xa vào tận hoàng cung, lọt vào tai công chúa.
N ỗi oan của Thạch Sanh thấu đến vua, Lý Thông bị trừng trị và cuối cùng chàng lấy

được công chúa. B ọn hoàng tử các nước chư hầu trước đây bị côn g chúa từ hôn, đã
kéo binh sang đánh. N hưng tiếng đàn của Thạch Sanh lại làm cho quân s ĩ m ười tám
nước rã rời ý chí, phải giải giáp quy hàng. Câu chuyện Thạch Sanh được truyền
tụng rộng rãi từ đồng bào Tày - N ùng ở V iệt B ắc đến đồng bào K hơm e ở N am Bộ.
Và các dân tộc anh em cũng sáng tạo nên được tiếng đàn Thạch Sanh của chính
m ìn h : Tiếng đàn cùa người đá (G ia ra i), Sông B ằng êm só n g (T h á i), Chàng Sính

(M èo), v .v ... Kỳ diệu thay, Thạch Sanh và chàng Sính chỉ có cây đàn, em bé trên
đinh núi Chưbôđa và cô gái trên sông Bằng chỉ có tiếng hát, nhưng lại có sức mạnh
củ a n g à n q u â n d ũ n g m ã n h .
T ó m lại, lý tưởng thấm m ỹ và nghệ thuât"gổc g á c "nhất của dân tộc Việt Nam

là cải đẹp nói chung và nghệ thuật nói riêng phải là sự thong nhất toàn vẹn giữa
nội dung với hình thức, p h ả i đẹp thật, hay thật, từ đỏ s ẽ p h á t hưy tác dụng to lớn

trong giao lưu tình cảm giữa con người, chổng lại áp bức bất công xẩu ác, giúp
dân, cứu nước.
3. Thay lời kết
a)

C ó thể thấy điều cô t lõi vừa nói trên trong quan niệm v ề cái đẹp, nghệ

thuật và văn học trong văn học dân gian V iệt N am là m ột cơ sở quan trọng cho
quan niệm văn h ọc phải có đầy đủ phẩm chất và chứ c năng thẩm m ỹ, chan chứa
cảm quan hiện thực và nhân dân, giàu lòng yêu nước v à tự hào dân tộ c trong văn
học v iết như chúng tôi đã chứng m inh trong côn g trình Góp phần xác lập hệ thống

quan niệm văn học trung đ ạ i Việt N a m 1. Ở đ â y c h ỉ x in n h ắ c q u a m ộ t đ iề u th e n
chốt xuyên suốt là "nghệ thuật vị nhân sinh", nhưng phải là nghệ thuật đích thực.
N ghệ thuật đích thực m ới đáng được yêu thích, lại "vị nhân sinh" nên càng được

quý trọng! K hông phải ngẫu nhiên mà N gu yễn Phi Khanh phát hiện "Câu thơ hay
có hương thơm như hoa chi hoa lan" và H oàng Đ ứ c L ương khẳng định trong thơ
có "cái đẹp ngoài sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon". V à N gu yễn Đ ình C hiểu thì
thổ lộ: "Văn chương ai cũng muốn nghe. Phun châu nhả n gọc, báu khoe tinh
th ầ n ". Đ iề u lý th ú là c á c đ ấ n g b ậ c c h iế n s ĩ a n h h ù n g tr o n g lịc h s ử d â n tộ c V iệ t

Nam cũng đều cảm nhận như vậy. Trần Thái T ông chủ trương "văn bút" phải như
một thế trận tất thắng, nhưng cũng biết ngạc nhiên trước cảnh "Muôn nghìn hình
ảnh nảy ra dưới đầu ngọn bút" (V ạn tượng sinh hào đoan). Trần N hân T ông, đại

1. Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam , Phương Lựu, Nxb Giáo
dục, H. 1997.

850


QUAN NIỆM VỀ CÁI ĐẸP, NGHỆ THUẬT VÀ VẢN HỌC...

c h iế n h ữ u c ủ a T rầ n M ưng Đ ạo đ ã g ó p p h ần cố n g h iế n lớ n la o tr o n g h ai c u ộ c ,

kháng chiến chống N guyên M ông và đã viết lcn những vần thơ thép như "Xã tắc
lư ỡ n g h ồ i la o th ạ c h m ã ..." , đ ồ n g th ờ i c ũ n g là n g ư ờ i c ả m th ấ y đ ư ợ c c á i k ỳ v ĩ c ủ a
thi h ọ a : " T h ậ p n h ị lâu đài k h ai h o ạ trụ c . T am th iên th ế g iớ i n h ậ p th i m â u " (C u ố n
tra n h v ẽ m ở r a m ư ờ i hai tò a lâu đ ài. C o n m ắt th ơ th u v ề b a n g h ìn th ế g iớ i). A i n ấ y
đ ều b iế t ứ c T ra i v ố n tâm niệm v ăn c h ư ơ n g v à đạo b ú t c ủ a m ìn h p h ả i n h ư th ế n à o ,
n h ư n g c h ín h tiê n s in h cũ n g từ n g c ả m n h ậ n rất tinh tế c á i k ỳ d iệ u c ủ a lờ i c a tiế n g
sáo: " N g ư c a ta m x ư ớ n g y ên hồ k h o á t. M ụ c địch n h ấ t th a n h th iê n n g u y ệ t ca o "
(N g ư ô n g h á t lên b a lần thì m ặt h ồ p h ủ k h ó i n h ư rộ n g th ê m ra . M ụ c đ ồ n g th ổ i lên

một tiếng sáo thì vầng trăng như vươn lên cao), v .v ...

N hư thế có thể nói quá trình hình thành và phát triển nền thi học bác học
tro n g n ề n v ă n h ọ c v iế t V iệt N am từ x ư a đ ến nay m ặ c d ù đ ã tiế p th u n h iề u th à n h

tựu trong di sàn lý luận văn học của nhân loại, nghĩa là có rất nhiều thành phần
n g o ạ i n h ậ p , n h ư n g k h ô n g p h ải trên c ơ s ở c ủ a hai b à n ta y tr ắ n g , m à v ẫ n c ó n h iề u
y ế u tố n ộ i sin h , đ ó c h í ít là n h ữ n g q u a n n iệ m v ố n có v ề c á i đ ẹ p v à n g h ệ th u ậ t tr o n g
v ă n h ọ c d â n g ia n V iệ t N am . Đ ã có y ế u tố n ộ i sinh th ì v iệ c n g o ạ i n h ậ p k h ô n g th ể

hoàn toàn bị động. Đ iều này góp phần giải thích thêm tinh hình g ia o lưu hấp thu

trong quá khứ cũng như định hướng sơ bộ cho viêc hội nhập trước mắt. Muốn giải
thích trọn vẹn và định hướng toàn diện thì còn phải tích hợp nhiều nguyên nhân
k h á c , c h ứ k h ô n g p h ả i ch i d ự a v ào q u a n n iệm về cái đ ẹ p v à n g h ệ th u ậ t tr o n g v ă n

học dân gian V iệt Nam .
b)

Quá trình hình thành và phát triển hệ thống quan niệm văn học trung đại

V iệt Nam đã hấp thu có chọn lọc rất nhiều từ thi học cổ điển Trung H oa như ít
nhiều ở Đ ạo gia, đặc biệt là của N ho gia, nhưng tuyệt nhiên không thấy dấu ấn của
Mặc gia, nhất là của Pháp gia. Mặc gia đem cái đẹp gắn chật với cái có ích m ột cách
máy m óc thiển cận, nên tất yếu sẽ xem nhẹ vai trò của nghệ thuật. M ặc Tử nói:
"Dân có ba điều lo là đỏi không được ăn, rét không được m ặc, m ỏi không được
n g h ỉ, b a đ iề u đ ó là s ự lo lớn của d ân. C h o n ên nếu vì dân m à g õ c h u ô n g lớ n , đ án h
trố n g k ê u , g ả y đàn cầm , đàn sắt, th ổ i ổ n g v u ổ ng sín h , m ú a c á i c a n cái th íc h , thì
p h ỏ n g có ích gì ch o sự ăn m ặc của d â n ? " (Phì nhạc). C ò n P h á p g ia th ì c h o rằ n g v ăn
h ỏ a v ăn n g h ệ là v ô d ụ n g , n ếu k h ô n g m u ố n nói là c à n g tá c h ại k h ô n g n h ữ n g ch o
n ô n g n g h ệ v à b in h n g h iệp , m à ch o c ả v iệ c thi h àn h p h á p lu ậ t n ữ a . H à n P hi n ó i:
"T ro n g n ư ớ c cù a b ậ c m inh ch ú a k h ô n g cần sách v ở v ăn c h ư ơ n g , ch ỉ lấy p h á p luật

dạv d ân . N a y sử a sa n g văn học, tập đ à m lu ận , thì k h ô n g v ấ t v ả cày c ấ y m à đ ư ợ c
th ự c sự g ià u có , k h ô n g bị nguy h iẻ m c h iến trận m à đ ư ợ c s a n g trọ n g , th ì n g ư ờ i ta ai
c h ẳ n g m u ố n làm ? T h ế cho n ên , m ộ t trăm n g ư ờ i c h u y ê n v ề đ ư ờ n g tài trí, ch ỉ có m ộ t
n g ư ờ i c h u y ê n về v iệ c d ù n g sứ c lực làm ẫn. N gư ờ i c h u y ê n v ề đ ư ờ n g tài trí đ ô n g , thì
p h áp luật đ ổ nát. N g ư ờ i d ù n g sứ c lự c làm ăn ít thì n ư ớ c n g h c o . Đ ó là cái m ầ m loạn

851


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ T ư

cho đời vậy. Đ ối với người giỏi văn chương không nên dùng, dùng họ sẽ làm loạn
cho pháp độ" (Ngũ đố). N hư thế người thì coi nhẹ, kẻ thì phủ nhận hẳn văn hóa
nghệ thuật! Đ ến đây chúng ta mới hiểu thêm vì sao tư tưởng v ề văn hóa nghệ thuật
của M ặc gia và đặc biệt là của Pháp gia quả là khó vượt biên đến đất nước của một
dân tộc vốn rất ham chuộng nghệ thuật và luôn luôn đề cao vai trò của nó trên mọi
mặt của đời sống nhân sinh như đã ghi dấu rõ ràng và khá nhất quán trong sáng tác
dân gian. Tất nhiên, đây chi là câu chuyện đời xưa!
c)

V ậy thì phải nói ngay đến chuyện thời sự cấp bách trong thời buổi hội

nhập ngày nay. Đ ó là nên có thái độ như thế nào đối v ớ i lý thuyết văn học hậu
hiện đại? Thái độ thì tùy, nhưng trước hết phải hiểu biết tương đối toàn diện lý
thuyết văn học hậu hiện đại không chi có phá, m à còn có xây\ Phá rất cực đoan mà
một biểu hiện của nó là phủ nhận luôn ngôn ngữ, cho rằng nó không thể biểu đạt
trung thành hiện thực và tư tưởng. J. Derrida phê phán triết học phương T ây từ
Platon trở đi đã nêu ra không biết bao nhiêu là khái niệm như thượng đế, bản chất,
lý tính, tồn tại, ý thức, chân lý, v .v ... đóng vai trò trung tâm để cấu tạo nên v ô số
những cấu trúc ý nghĩa m ơ hồ, huyễn hoặc. Tất nhiên điều m ang màu sắc hư v ô này

làm sao mà chấp nhận được, một khi lý thuyết giải cấu trúc của J. Derrida cũng phải
được diễn đạt bằng chính ngôn ngữ đấy thôi! Tất nhiên phê phán điều này thì dễ,
nhưng nhìn cho ra hạt nhân hợp lý của nó thì khó hơn nhiều. Hai cuộc Thể chiến đã
kích th íc h rấ t n h iề u tư d u y c ủ a trí th ứ c c á n h tả Â u M ỹ . S a u th ấ t b ạ i c ủ a c u ộ c b ạ o

động của sinh viên và côn g nhân năm 1968, họ di chuyển sự phản kháng sang sự
phản bác, lật đổ, phá hoại về triết học, văn hóa, học thuật và văn nghệ. N hà mỹ
học m ác-xít phương Tây Terry E agleton nói: "Do không có cách nào phá v ỡ cấu
trúc chính trị, chủ nghĩa giải cấu trúc phát hiện có khả năng chuyển sang phá hoại
cấu trúc về ngôn ngữ, chí ít bất cứ ai cũng không thể vì thế mà gõ đầu anh được"1.
N ói một cách khác, phủ nhận ngôn ngữ, là m ột sự phản ứng bất đắc d ĩ của chù
nghĩa giải cấu trúc đối với thực tế, bộc lộ một sự mất lòng tin, hoài nghi tất cả.
Phải thấy từ đây sự bất bình đối với mặt trái của hiện trạng, m ở đường cho cái
m ớ i. V ăn h ọ c d â n g ia n V iệ t N a m v ố n đ ã có n h iề u k h á i q u á t n h ư n ó i hươu nói

vượn, nói thánh nói tướng, nói nhăng nói cuội v à đ ế n n a y đ ú c k ế t th à n h N ói dậy,

chứ không phải dậy (nói vậy chứ k h ô n g p h ả i vậy). N h ư thế từ c ả m n h ậ n d â n g ia n ,
c h ú n g ta có th ế k h a i th á c m ặ t tíc h c ự c tro n g sự p h ủ n h ậ n n g ô n n g ữ c ủ a c h ủ n g h ĩa
giải cấu trú c - m ũ i n h ọ n lý th u y ế t c ủ a c h ủ n g h ĩa h ậ u h iệ n d ạ i đ ể đi đ ố n m ộ t đ ò i h ỏ i
q u y ế t liệ t là p h ả i n ó i th ẳ n g , n ó i th ậ t, n h ấ t là lờ i n ó i p h ả i di đ ô i v ớ i v iệ c làm ! Đ â y
có thể x em là c h ỗ k h ả th ủ v ề m ặ t p h á c ủ a lý th u y ế t h ậ u h iệ n đại!

1. Lý thuyết vãn học hậu hiện đại, Phương Lựu, Nxb Đại học Sư phạm, H. 2011, tr. 145.

852


QUAN NIÊM VỀ CÁI ĐẸP, NGHỆ THUẬT VÀ VÂN HỌC...


N hưng quan trọng hơn nhiều là có sự chuyển biến nội tại từ phá đến xâyĩ Thật
ra ngay chủ nghĩa cấu trúc trong lý thuyết hiện đại trước đó mà m ột tác giả chủ chốt
của nó, T. Todorov cũng dã giật mình thấy rằng: "Không c ỏ m ột khái niệm nào bàn
đ ến nội d u n g v à ý n g h ĩa củ a ch ín h tác p h ẩm , đến th ế g iớ i m à tá c p h ẩ m g ợ i ra" ( Văn

học đang lâm ngụy). Đ ã n h ư th ế thì ch í ít c ấ u trú c p h ải đ ư ợ c p h â n g iả i ra. N h ư n g
chủ nghĩa giải cấu trúc ra đời lại cho rằng "cái biểu đạt" thật ra chỉ biểu đạt cho một
"cái biểu đạt" khác mà thôi, cấu trúc văn bản tác phẩm, do đỏ, sẽ sản sinh "một dải
n g ân hà c ủ a cái b iểu đ ạt", n g h ĩa là ai m u ố n h iể u sao tu ỳ th íc h , c ấ u trú c k h é p k ịn thì
hế tắ c, p h â n g iải ra th ì p h iê u d iêu v ô đ ịn h , tu y rất k h á c n h a u n h ư n g c h u n g m ộ t gốc
là đ ều tá c h rờ i tác p h ẩ m ra k hỏi bối c ả n h h iệ n th ự c. V à đ ế n lú c c h ín h các lý th u y ế t
g ia củ a c h ủ n g h ĩa g iải cấu trú c băn k h o ăn : "V ăn h ọ c h a y lịch sử ? " (R . B a rth e s),

"Phải vượt qua chủ nghĩa hình thức" (G. Hartman), v .v ... T hế là "chu nhi phục
thủy", cái gì đi đến tận cùng thì sẽ quay trở lại. Quả vậy, lý thuyết văn học hậu hiện
đại cuối cùng đã phải trả văn học về nơi đã sản sinh ra nỏ là hiện thực, thiết lập mối
q u an hệ g iữ a v ăn h ọ c với lịch sử {Phê bình tân lịch sử) v ớ i x ã h ộ i (Phê bình nữ

quyền) v ớ i chính trị (Phê bình hậu thực dân), v.v... Tất nhiên trở v ề quê cũ không
th e o lối m ò n x ư a, v à m ồi m ộ t trư ờ n g p h ái p h ê b ìn h n à y c ũ n g rấ t p h ứ c tạ p , n h iề u

chiều, nhưng dễ dàng nhận thấy rằng đó cũng là những vấn đề rất

trú n g

với tình

h ìn h c ủ a c h ú n g ta. H ơ n nữa, q u y c h iế u từ q u an n iệ m c ố t lõ i tr o n g v ă n h ọ c d ân g ia n
c ủ a V iệ t N a m là "vị n h ân sin h " thì rõ rà n g là cần th iế t p h ả i tiế p th u có ch ọ n lọc


những trường phái lý luận phê bình hậu hiện đại này.

853



×