Kế thừa những ưu điểm của Luật Phá sản năm
2004 và tăng cường tín khả thi trong thực tiễn
thi hành
Acquiring Advantages in Bankruptcy Law 2004 and Enhancing Feasibility in Practice
NXB H. : Khoa Luật, 2014 Số trang 140 tr. +
Lê Ngọc Thắng
Khoa Luật
Luận án TS ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 62 38 01 07
Người hướng dẫn: TS. Vũ Quang
Năm bảo vệ: 2014
Keywords: Luật kinh tế; Luật phá sản; Pháp luật Việt Nam
Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự do cạnh tranh và phá sản là những thuộc tính vốn có của kinh tế thị trường. Trong một
môi trường cạnh tranh khốc liệt, câu chuyện “mạnh được yếu thua” là điều hiển nhiên. Bên cạnh
những doanh nghiệp làm ăn có lãi, cũng sẽ có những doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí thua lỗ kéo
dài, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Để loại bỏ những doanh nghiệp này ra khỏi
nền kinh tế, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả rủi ro mà các doanh nghiệp này có
thể gây ra cho nền kinh tế, cần có sự can thiệp kịp thời của nhà nước thông qua pháp luật phá
sản. Tuy nhiên, để xây dựng và thực thi một cơ chế phá sản có hiệu quả là điều không dễ dàng
đối với bất cứ quốc gia nào. Ở Việt Nam, Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 là văn bản luật đầu
tiên quy định về giải quyết phá sản, sau gần chục năm thi hành, văn bản này bị đánh giá thấp về
hiệu quả điều chỉnh và ít tính khả thi. Luật Phá sản 2004 được Quốc hội thông qua ngày
15/6/2004, có hiệu lực từ ngày 15/10 cùng năm nhằm giải quyết những vấn đề tồn tại của Luật
Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Với rất nhiều nội dung mới được bổ sung, sửa đổi Luật Phá sản
năm 2004 đã được nhà làm luật đặt nhiều kỳ vọng. Song, không giống như những kỳ vọng ban
đầu, Luật Phá sản năm 2004 đang gặp nhiều vướng mắc khi thực hiện. Những số liệu thống kê
sau đây sẽ nói lên điều đó.
Theo báo cáo xếp hạng môi trường kinh doanh năm 2008 do Ngân hàng thế giới (WB) và
Tập đoàn tài chính Quốc tế (IFC) công bố, Việt Nam xếp thứ 91 trên tổng số 178 Quốc gia được
khảo sát. Trong đó tiêu chí thứ 10 là tiêu chí về đóng cửa doanh nghiệp, báo cáo cho rằng việc
giải quyết các trường hợp phá sản ở Việt Nam mất ít nhất 5 năm, tốn kém đến 15% giá trị tài sản
của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp vỡ nợ thì các bên liên quan chỉ thu hồi được
18% giá trị tài sản. Vì thế, rất ít doanh nghiệp tuân theo các quy định và thủ tục chính thức của Luật
Phá sản khi đóng cửa hoạt động [94].
Cùng báo cáo tương tự cho năm 2012 về môi trường kinh doanh ở Việt Nam thì các chỉ
số thay đổi theo chiều hướng xấu hơn. Cụ thể, Việt Nam bị xếp thứ 99 trên tổng số 183 nền kinh
tế được khảo sát. Đứng sau thứ hạng trung bình toàn khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Trong
đó lĩnh vực xử lý doanh nghiệp mất khả năng thanh toán xếp thứ 149/183 trong tổng số mười
lĩnh vực được đánh giá và vẫn bị tổ chức này đánh giá chung là: quy trình phá sản ở Việt Nam
1
rất phức tạp, tốn kém, kéo dài và ít hiệu quả. Do vậy, các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
thường là chọn các hình thức khác để rút khỏi thị trường hoặc tạm ngưng hoạt động thay vì phá
sản theo quy định. Việc này dẫn đến tình trạng có nhiều doanh nghiệp “chết mà không được
chôn” hoặc “chôn” theo cách khác, không theo cách mà Nhà nước thông qua Luật Phá sản đã
“cài đặt” sẵn.
Báo cáo mới nhất về môi trường kinh doanh “Doing Bussiness 2014” mà Ngân hàng Thế
giới (WB) vừa công bố sáng ngày 29 tháng 10 năm 2013 tại Hà Nội, thứ hạng của Việt Nam
không có thay đổi so với năm 2012. Như vậy, theo báo cáo thì môi trường kinh doanh của Việt
Nam không hề được cải thiện trong nhiều năm qua. Trong đó lĩnh vực về giải quyết phá sản ở
Việt Nam bị đánh giá rất thấp (149/189 nền kinh tế) [94].
Về phía Việt Nam, nhìn vào con số thống kê cũng nói lên thực trạng này. Theo dự thảo
báo cáo tổng kết công tác thi hành Luật Phá sản năm 2004 của Tòa án Nhân dân tối cao, tính đến
hết ngày 30 tháng 9 năm 2012, trong tổng số 63 tòa án cấp tỉnh chỉ có 49 Tòa án nhận được đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản. Như vậy có đến 14 Tòa án cấp tỉnh không nhận được đơn yêu cầu,
theo đó có thể hiểu là vấn đề giải quyết phá sản hầu như không diễn ra đối với 14 tỉnh thành trên
cả nước. Cũng theo báo cáo này, tổng số đơn mà các chủ thể gửi đến Tòa án là 336 đơn, trong đó
Tòa án đã ra 236 quyết định mở thủ tục phá sản và mới chỉ có 83 quyết định tuyên bố phá sản
đối với doanh nghiệp. Số còn lại do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc giải quyết phá sản
chưa hoặc thậm chí không thể thực hiện được.
Số liệu thống kê mới nhất của Tòa án nhân dân Tối cao được cập nhật tiếp từ 01 tháng 10
năm 2012 đến hết ngày 28 tháng 02 năm 2014, số lượng đơn yêu cầu có được cải thiện hơn với
284 đơn yêu cầu Tòa án nhận được. Tuy nhiên, số vụ Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản và
số lượng vụ việc mà Tòa ra quyết định doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản vẫn ở mức khiêm tốn.
Cụ thể, Tòa án ra được 77 quyết định mở thủ tục phá sản và ra 12 quyết định doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản.
Như vậy tính từ thời điểm Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến ngày 28 tháng 02 năm
2014, tổng số đơn mà Tòa án nhận được là 620 đơn, trong đó có 331 vụ việc được ra quyết định
mở thủ tục phá sản và 95 quyết định doanh nghiệp phá sản được tuyên.
Với kết quả thống kê mà Tòa án nhân dân tối cao công bố, chúng ta dễ dàng nhận thấy
việc thực thi pháp luật phá sản ở Việt Nam hiện nay đang có vấn đề, không phản ánh trung thực
kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, không giải quyết được những đòi hỏi mà
thực tiễn giải quyết yêu cầu phá sản đặt ra. Với gần chục năm thực hiện và áp dụng (Luật Phá
sản có hiệu lực từ ngày 15/10/2004) mà toàn hệ thống Tòa án trên cả nước mới chỉ ra được 95
quyết định phá sản, như vậy tính bình quân mỗi một năm trên toàn Việt Nam có chưa đầy chục
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Điều này rất không bình thường, khi mà ở nước ta thời gian
qua mỗi năm có hàng chục ngàn doanh nghiệp ra đời (năm 2010 có 83.600 doanh nghiệp được
thành lập mới, năm 2011 con số này là 75.000) và hàng năm cũng có quá nửa số đó rút khỏi thị
trường (năm 2010 có 43.505 doanh nghiệp đóng cửa, năm 2011 con số này là 53.972).[81]
Với sứ mệnh thay thế Luật Phá sản doanh nghiệp 1993, Luật Phá sản 2004 đã bổ sung
nhiều quy định mới và có những ưu điểm nhất định. Tuy nhiên, với những gì diễn ra trong thời
gian qua, khi đánh giá về hiệu quả điều chỉnh của Luật Phá sản 2004, nhiều chuyên gia cho rằng
văn bản này có hiệu quả điều chỉnh thấp, ít tính khả thi, không phản ánh hết yêu cầu và thực
trạng giải quyết phá sản ở Việt Nam. Thậm chí có ý kiến cho rằng Luật Phá sản 2004 đang “phá
sản”. Ở một mức độ nào đó tác giả đồng ý với những nhận định trên. Tuy nhiên, tác giả cho rằng,
bên cạnh một số vướng mắc ở các quy định cụ thể trong Luật Phá sản 2004 và các văn bản
hướng dẫn thi hành (thuộc luật nội dung) thì việc tổ chức thực thi pháp luật phá sản, một mảng
pháp luật thuộc luật hình thức (tố tụng phá sản) cũng là một trong những nguyên nhân làm sai
lệch hiện tượng phá sản ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Trước thực trạng đó, việc sửa đổi
bổ sung Luật Phá sản năm 2004 nói riêng và tiếp tục hoàn thiện pháp luật phá sản nói chung là
một yêu cầu cấp bách. Hiện tại Luật Phá sản năm 2014 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ
2
7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 . Xuất phát từ
những lý do cơ bản này NCS đã chọn đề tài "Kế thừa những ưu điểm của Luật Phá sản năm
2004 và tăng cường tính khả thi trong thực tiễn thi hành” làm luận án tiến sĩ.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là phân tích, luận giải và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua đó
chỉ ra những ưu điểm nhất định mà Luật Phá sản năm 2004 có được nên và đã được kế thừa khi
ban hành Luật phá sản năm 2014. Bên cạnh đó, luận án cũng nhấn mạnh đến thực trạng thi hành
pháp luật phá sản tại Việt Nam trong thời gian qua, phân tích đánh giá về tính khả thi cũng như
những vướng mắc bất cập ở Luật Phá sản 2004 và các văn bản có liên quan. Đồng thời đưa ra
những đề xuất, kiến nghị về những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của
pháp luật phá sản.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định cụ
thể như sau:
Một là, về phương diện lý luận, luận án hệ thống hóa và làm rõ thêm các vấn đề lý luận
về phá sản, pháp luật phá sản cũng như các vấn đề thực thi pháp luật phá sản. Trên cơ sở đó,
nhận diện được một cách đầy đủ và chính xác mô hình và đặc trưng cơ bản của pháp luật phá sản
Việt Nam.
Hai là, về thực tiễn, luận án tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật
phá sản ở Việt Nam thông qua các thiết chế thi hành và tính khả thi của một số quy định thuộc
Luật Phá sản năm 2004. Thông qua các nội dung này, luận án sẽ chỉ ra một số hạn chế, bất cập
của Luật Phá sản năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như những bất cập của văn
bản này với các văn bản pháp luật có liên quan.
Ba là, luận án nghiên cứu, so sánh và giới thiệu kinh nghiệm về quan điểm xây dựng,
hoàn thiện pháp luật phá sản của một số nước và rút ra bài học cho Việt Nam.
Bốn là, luận án nghiên cứu và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật phá sản cũng như việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật phá sản trong tương lai.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Pháp luật phá sản và thực thi pháp luật phá sản là một lĩnh vực khá rộng, do vậy luận án
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến thực tiễn thực thi pháp luật phá
sản ở Việt Nam, đề cập đến vấn đề tổ chức bộ máy thực thi pháp luật phá sản và một số nội dung
cơ bản của luật phá sản năm 2004 như: phạm vi và đối tượng áp dụng; thẩm quyền của Tòa án;
tiêu chí xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp
đơn; tài sản phá sản và bảo toàn tài sản phá sản.
Về thời gian, xuất phát từ tình hình thực tiễn là nền kinh tế Việt Nam chúng ta đang trong
quá trình chuyển đổi và hội nhập, do vậy, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu trong giai đoạn chủ
yếu từ năm 2004 trở lại đây, đặc biệt là trên cơ sở các quy định của Luật Phá sản năm 2004 và
một số vấn đề thuộc Luật Phá sản năm 2014.
Về không gian, luận án giới hạn việc tìm hiểu, so sánh ở mức độ nhất định với pháp luật
phá sản của một số quốc gia điển hình như: Cộng hòa Pháp (đại diện cho hệ thống pháp luật
Civil Law), Hoa Kỳ (điển hình của trường phái Common Law) và Trung Quốc một quốc gia có
nền kinh tế chuyển đổi và có nhiều nét tương đồng với Việt Nam.
4. Các kết quả mới đạt được của luận án
Những điểm mới của luận án là:
- Luận án đã giới thiệu một cách tổng quan các công trình nghiên cứu khoa học trong và
ngoài nước liên quan đến phá sản, pháp luật phá sản, thực thi pháp luật phá sản và bước đầu đã
có những nhận xét, đánh giá chung về kết quả nghiên cứu của các công trình này. Đồng thời, chỉ
3
rõ những kết quả nghiên cứu đã được kế thừa cũng như những vấn đề được tiếp tục nghiên cứu
trong luận án.
- Trên phương diện lý thuyết, luận án đã kế thừa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về
phá sản và pháp luật phá sản theo pháp luật về phá sản của Việt Nam. Phân tích, đánh giá và
khẳng định một số ưu điểm nổi bật của Luật Phá sản năm 2004, có thể và đã được kế kế thừa, so
sánh với pháp luật một số nước và rút ra bài học cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật phá
sản.
- Ở giác độ thực tiễn, luận án đã nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng thi hành pháp
luật phá sản ở Việt Nam thông qua thiết chế thi hành Luật Phá sản và tính khả thi của một số quy
định thuộc Luật Phá sản năm 2004.
- Luận án đưa ra một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao tính khả thi của
của pháp luật phá sản, gồm nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách, nhóm giải pháp về tổ chức bộ
máy thực thi pháp luật phá sản, nhóm giải pháp trên cơ sở kế thừa những ưu điểm và khắc phục
những hạn chế của Luật Phá sản năm 2004. Luận án cũng đề xuất một số vấn đề nhằm tiếp tục
hoàn thiện Luật Phá sản năm 2014 trong thời gian tới.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo chủ yếu, luận án được
kết cấu với 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu.
Chương 2: Kế thừa những ưu điểm của Luật Phá sản 2004 trong bối cảnh hoàn
thiện pháp luật phá sản ở Việt Nam.
Chương 3: Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật phá sản ở Việt Nam.
Chương 4: Phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường tính khả thi của Luật Phá
sản.
References
Tiếng Việt
1.
Lê Tuấn Anh (2013), Vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.
Ngô Thị Hồng Ánh (2012), Các hành vi pháp lý vô hiệu theo Pháp luật Phá sản ở Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
3.
Báo cáo kết quả rà soát lần thứ nhất về chính sách thương mại Việt Nam tại WTO năm
2013 />
4.
Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp (2008), Thông tư liên tịch số 19/2008/TTLT- BTC-BTP ngày
19/2 hướng dẫn về việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toàn kinh phí bảo đảm hoạt động
của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản, Hà Nội.
5.
Chính phủ (1994), Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính Phủ hướng dẫn thi
hành Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993.
Chính phủ (2005), Nghị định số 94/2005/NĐ-CP về giải quyết quyền lợi của người lao
động, hợp tác xã bị phá sản.
6.
7.
Chính phủ (2006), Nghị định số 67/2006/NĐ-CP hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản
đối với doanh nghiệp đặc biệt là tổ quản lý, thanh lý tài sản, Hà Nội.
4
8.
Chính phủ (2008), Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03/11 hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điểu của Luật Phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác, Hà Nội.
9.
Chính phủ (2009), Nghị định số 10/2009/NĐ-CP ngày 06/02 Quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, Hà Nội.
10.
Chính phủ (2010), Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18/01 quy định việc áp dụng Luật
Phá sản đối với các tổ chức tín dụng, Hà Nội.
11.
Nguyễn Thị Chính (2005), Một số quy định của Luật Phá sản cần được làm rõ hơn thông
qua Nghị định hướng dẫn thi hành, Tạp chí Dân chủ và pháp luật (11), tr 15-25
Hoàng Thị Chung (2013), Pháp luật về phá sản và phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
tại Pháp, Chuyên đề hội thảo, Viện nghiên cứu lập pháp.
Công văn số 187/TANDTC - KHXX ngày 13-9-2012 về việc cung cấp số liệu giải quyết
phá sản và đánh giá bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật Phá sản năm 2004 gửi
Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các Tòa Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao.
Ngô Cương (2001), Pháp luật quốc tế về phá sản và vận dụng vào việc xây dựng Luật
Phá sản (sửa đổi) ở nước ta , Công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội.
Ngô Huy Cương (2003), Tổng quan về luật Tài sản, Jourrnals of Economic - Law.
Ngô Huy Cương (2012), So sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nước về
phá sản và định hướng sửa đổi Luật Phá sản 2004, Tham luận hội nghị tổng kết thực tiễn
thi hành Luật Phá sản 2004. Đà Nẵng.
Nguyễn Tuyết Dương (2012), Những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định của
Luật Phá sản năm 2004 về giải quyết tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và các giải pháp, kiến nghị sửa đổi Luật Phá sản
2004. Hội nghị tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản 2004, Tòa án nhân dân tối cao.
Bùi Đức Giang (2012), "Pháp luật về thực hiện các hợp đồng đang có hiệu lực trong thủ
tục phá sản", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (292), tr8-11.
Tạ Văn Giang (2011), Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản
ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật- Đại học quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thái Hà, Bùi Hữu Toàn (2005), "Một số vấn đề về Luật Phá sản", Tạp chí Khoa
học và Đào tạo Ngân hàng (3), tr.48-50.
Nguyễn Thái Hà, Bùi Hữu Toàn (2005), "Một số vấn đề về Luật Phá sản", Tạp chí Khoa
học và Đào tạo Ngân hàng (4), tr.12-15.
Nguyễn Thái Hà - Bùi Hữu Toàn - Lê Ngọc Thắng (2007), Pháp luật trong hoạt động
kinh doanh, Nxb Thống kê, Hà Nội.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.
Phan Thị Thu Hà (2010), Tìm hiểu pháp luật phá sản trên thế giới, Chuyên đề khoa học
xét xử - Nxb Tư pháp.
24.
25.
Dương Đăng Huệ (2004), Pháp luật về phá sản của Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Dương Đăng Huệ, Ths Nguyễn Thanh Tịnh và nhóm biên soạn Vụ Pháp luật Dân sự- kinh
tế Bộ Tư pháp (2008) , Thực trạng pháp luật về phá sản và việc hoàn thiện môi trường
pháp luật kinh doanh tại Việt Nam, tháng 11- 2008.
Dương Đăng Huệ (2009), Các giải pháp pháp lý nhằm giải quyết tốt hơn việc phá sản
doanh nghiệp ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
Dương Đăng Huệ (2012), Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng Luật Phá sản
2004 và các giải pháp, kiến nghị sửa đổi Luật Phá sản 2004. Hội nghị tổng kết thi hành
Luật Phá sản năm 2004, Tòa án nhân dân tối cao.
26.
27.
5
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
46.
47.
48.
49.
50.
51.
52.
53.
54.
55.
Lê Mạnh Hùng (2012), Pháp luật Phá sản 2004 - Quy định, thực tiễn thi hành và phương
hướng, giải pháp hoàn thiện Luật Phá sản, Hội thảo Những giải pháp pháp lý cần xây
dựng và hoàn thiện nhằm đảm bảo doanh nghiệp rút khỏi thị trường.
Đặng Văn Huy (2010), Quy chế pháp lý của tổ quản lý và thanh lý tài sản theo pháp luật
phá sản Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
Bùi Thị Dung Huyền (2010) Tìm hiểu các quy định của Luật Phá sản năm 2004 về thủ tục
phục hồi, thủ tục thanh lý, tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản và một số kiến
nghị. Chuyên đề khoa học xét xử, Viện khoa học xét xử, Tòa án nhân dân Tối cao.
Đinh Thị Thu Hương (2006), Một số vấn đề về hoạt động của TQLTLTS trong thủ tục
giải quyết phá sản, Hội thảo về LPS những vướng mắc và giải pháp khắc phục, thành
phố Hồ Chí Minh.
Bùi Nguyên Khánh (1996), Pháp luật về phá sản doanh nghiệp trong Luật Kinh tế Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội (2002), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Doanh nghiệp: tình huống bình luận - phân tích, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Văn Nam (2010), Hoàn thiện pháp luật phá sản Việt Nam theo các khuyến nghị
của hướng dẫn xây dựng Luật Phá sản của UNCITRAL năm 2005, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phạm Duy Nghĩa (2003), "Đi tìm triết lý Luật phá sản", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
(11), tr.4-8.
Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
Lê Thế Phúc (2010) Tìm hiểu các quy định của Luật Phá sản năm 2004 về tài sản, nghĩa
vụ về tài sản, các biện pháp bảo toàn tài sản, hội nghị chủ nợ và một số kiến nghị, Viện
khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao.
Đào Thị Hồng Phương (2009), Thủ tục phá sản-thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận
văn thạc sĩ cao học, Trường đại học luật Hà Nội.
Quốc hội (1990), Luật Công ty 22/12/1990, Hà Nội.
Quốc hội (1992), Luật Hiến pháp (sửa đổi năm 2001), Hà Nội.
Quốc hội (1993), Luật Doanh nghiệp tư nhân 23/10/1993, Hà Nội.
Quốc hội (1993), Luật Phá sản doanh nghiệp, Hà Nội.
Quốc hội (2004), Luật Phá sản, Hà Nội.
Quốc hội (2005), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội.
Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
Quốc hội (2008), Luật Thi hành án Dân sự, Hà Nội.
Quốc hội (2010), Luật các tổ chức tín dụng, Hà Nội.
Quốc hội (2013), Luật Bảo hiểm tiền gửi, Hà Nội.
Quốc hội (2013), Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi), Hà Nội.
Quốc hội (2013), Luật Hiến pháp, Hà Nội.
Quốc hội (2014), Luật Phá sản, Hà Nội.
Lê Ngọc Thắng (2004), "Mấy vấn đề về việc thực hiện Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993”, Tạp chí Giáo dục lý luận (5), tr 40-43.
Lê Ngọc Thắng (đồng chủ biên) (2012), Pháp luật kế toán, NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội
Lê Ngọc Thắng (2013), "Luật Phá sản Việt Nam 2004 - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn
thiện", Tạp chí Khoa học và Đào Tạo Ngân hàng (139), tr 17-21,77.
6
56.
57.
58.
59.
60.
Lê Ngọc Thắng (2014), "Bàn về quyền của người lao động trong thủ tục phá sản doanh
nghiệp", Tạp chí Lao động và xã hội (478), tr 13-15.
Lê Ngọc Thắng (2014), "Hoàn thiện quy định về các giao dịch bị coi là vô hiệu theo Luật
Phá sản năm 2004", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (314), tr 63-67.
Lê Ngọc Thắng (2014), "Kế thừa những ưu điểm của Luật Phá sản năm 2004 trong bối
cảnh hoàn thiện pháp luật phá sản ở Việt Nam", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (266), tr
18-21
Đặng Văn Thanh (2004), "Dấu hiệu xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản",
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp .
Dương Quốc Thành (2004), "Căn cứ để xác định thời điểm doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản", Tạp chí Nhà nước và pháp luật (1).
61.
Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
62.
63.
64.
65.
66.
67.
68.
69.
Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2007), Báo cáo tổng kết ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
Tòa án Nhân dân tối cao - Báo cáo tổng hợp ý kiến Bộ - Ngành về dự án luật phá sản sửa
đổi/ ý kiến của Bộ Tư pháp, 2013.
Tòa án Nhân dân tối cao - Báo cáo tổng hợp ý kiến Bộ - Ngành Về dự án luật phá sản sửa
đổi/ ý kiến của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, 2013.
Tòa án nhân dân tối cao (2005), Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá
sản, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 03/2005/NQ-TANDTC ngày 28/4 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật
Phá sản, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2010), Chuyên đề khoa học xét xử, Tập I, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Trần Thị Thu Trang (2009), Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh
nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà nội.
Hoàng Trung (2006), Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp: ngổn ngang
trăm mối, tsudongnama. com.vn.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Thương mại, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Ủy ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (2005), Các khuyến nghị trong
hướng dẫn thi hành Luật Phá sản của UNCITRAL.
Văn phòng Chính phủ (2008), Công văn 1977/VPCP- XDPL về việc thực hiện phá sản,
Hà Nội.
70.
71.
72.
73.
74.
75.
76.
77.
78.
79.
Vũ Thị Hồng Vân (2009),Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật
phá sản Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học,Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
80.
Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
81.
Cao Đăng Vinh (2012), Tham luận Hội thảo hoàn thiện pháp luật phá sản Việt Nam- một
số vấn đề cần trao đổi, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư Pháp.
Cao Đăng Vinh (2013), Bảo toàn tài sản doanh nghiệp trong quá trình giải quyết thủ tục
phá sản- một số tồn tại, vướng mắc cần khắc phục, Hội thảo Pháp luật về phá sản doanh
nghiệp, hợp tác ở nước ta, Ủy ban thường vụ Quốc hội Viện nghiên cứu lập pháp.
82.
7
83.
Đặng Thành Vinh (2010), Tìm hiểu các quy định của Luật phá sản năm 2004 về nộp đơn
và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Tiếng Anh
84.
85.
86.
87.
88.
89.
90.
91.
92.
93.
94.
Bankruptcy Law in the United States, 1978
Bankruptcy Law of Singapore, 2001.
David C. Bangert, Hungary: Exploring New European Management Chal-lenges, Int'l
Stud. of Mgmt. & Org., Vol. 24, No. 1-2, Mar. 22, 1994, at 209, available inLEXIS, Nexis
Library, NEWS file, at *2.
Donald R. Korobkin (1991), "Rehabilitating Values: A Jurisprudence of Bankruptcy", 91
Colum. L. Rev.717.
Elizabeth Warren (1987), "Bankruptcy Policy", 54 U. Chi. L. Rev.775;
Elizabeth Warren (1993), "Bankruptcy Policymaking in an Imperfect World", 22 Mich. L.
Rev. 336;
Enterprise Bankruptcy Law of the People’s Republic of China, 2006
Insolvency Law of France, 1994
Michael Kim, “When nonuse is useful: Bankruptcy law in post - Communist Central and
Eastern Europe” (1996), Fordham Law Rewiew. 657.
Thomas H. Jackson (1982), "Bankruptcy, Non-Bankruptcy Entitlement, and the Creditors'
Bargain", 91 Yale L. J. 857;
World Bank and Internation Finance Coppporation, Doing Buisiness 2007, Doing
Buisiness 2008, Doing Buisiness 2009, Doing Buisiness 2010, Doing Buisiness 2011,
Doing Buisiness 2012 and Doing Buisiness 2013, Doing Buisiness 2014.
8