Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Những ưu điểm của hệ thống kế toán hợp tác xã nông nghiệp theo Thông tư số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.55 KB, 3 trang )

NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG KẾ TOÁN HỢP TÁC XÃ
NÔNG NGHIỆP THEO THÔNG TƯ SỐ 24/2010/TT-BTC
SO VỚI CHẾ ĐỘ KẾ TOÁN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ 1017/TC/QĐ/CĐKT
ThS. HUỲNH NHƯ QUANG
ự phát triển của các hợp tác xã
(HTX) nông nghiệp ở Việt Nam đã
trải qua nhiều bước thăng trầm, song
luôn là mục tiêu mang tính chiến lược
trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông
nghiệp và nông thôn. Để tạo điều kiện
cho HTX nông nghiệp tổ chức và quản
lý tốt các hoạt động sản xuất dịch vụ,
nhiều văn bản pháp quy liên quan tới
hoạt động của HTX nông nghiệp đã
được ban hành như: Luật HTX 2003,
Nghị định số 177/2004/NĐ-CP ngày
12/10/2004 quy định chi tiết thi hành
Luật HTX, Nghị định số 88/2005/NĐ-
CP ngày 11/7/2005 về một số chính
sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển
HTX, Thông tư số 74/2008/TTLT/BTC-
BNN ngày 14/8/2008 hướng dẫn chế độ
quản lý tài chính HTX nông nghiệp…
và gần đây là Thông tư số 24/2010/TT-
BTC (ngày 23/02/2010), hướng dẫn kế
toán áp dụng cho HTX Nông nghiệp,
Lâm nghiệp, Ngư nghiệp và Nghề muối.
S
Dưới đây là một số điểm mới liên
quan tới tính đầy đủ và hợp lý của hệ


thống tài khoản kế toán trong chế độ kế
toán HTX nông nghiệp theo Thông tư số
24/2010/TT-BTC so với chế độ kế toán
HTX nông nghiệp theo Quyết định số
1017/TC/QĐ/CĐKT.
Số lượng tài khoản của hệ thống
tài khoản kế toán mới hoàn chỉnh hơn
với 43 tài khoản trong bảng được phân
thành 9 loại và 8 tài khoản ngoài bảng.
Về cơ bản, hệ thống tài khoản này đã
khắc phục được hạn chế của hệ thống tài
khoản kế toán theo Quyết định
1017/TC/QĐ/CĐKT (với 22 tài khoản
cấp 1 trong bảng và 3 tài khoản ngoài
bảng) trong việc đảm bảo hạch toán các
nghiệp vụ kinh tế cần thiết theo yêu cầu
quản lý và chế độ quản lý tài chính hiện
hành. Với hệ thống hệ thống tài khoản
kế toán mới, các nghiệp vụ kinh tế có
tính chất, ý nghĩa khác nhau được theo
dõi cụ thể hơn, phù hợp với yêu cầu
quản lý tài chính HTX.
Các khoản đầu tư tài chính dài
hạn và đầu tư tài chính ngắn hạn được
theo dõi trên 2 tài khoản khác nhau là
TK Đầu tư tài chính ngắn hạn và TK
Đầu tư tài chính dài hạn, thay vì phải sử
33
dụng chung tài khoản đầu tư tài chính
như trước đây. Điều này phù hợp với

yêu cầu quản lý vì đầu tư tài chính dài
hạn phải dùng vốn cố định, còn đầu tư
tài chính ngắn hạn là dùng vốn lưu
động.
Tương tự, các đối tượng vật liệu
và dụng cụ không còn gộp chung theo
dõi trên cùng một tài khoản; sản phẩm,
hàng hóa trong kho và sản phẩm hàng
hóa gửi đi bán cũng được hạch toán
riêng. Điều này đáp ứng được nhu cầu
hạch toán của các HTX nông nghiệp có
hoạt động kinh doanh đa dạng chứ
không chỉ hoạt động trong lĩnh vực dịch
vụ nông nghiệp, số lượng nghiệp vụ
phát sinh nhiều.
Hoạt động dịch vụ tín dụng nội
bộ là một hoạt động đặc thù và phổ biến
của nhiều HTX nông nghiệp, trong đó
HTX sử dụng một bộ phận vốn tự có
của mình và huy động thêm từ các đối
tượng trong và ngoài HTX để cho các
xã viên của mình vay, nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng của họ. Trong hệ thống tài khoản
kế toán trước đây, không có các tài
khoản chuyên biệt để theo dõi các
nghiệp vụ liên quan tới hoạt động này,
các HTX thường hạch toán các khoản
huy động vốn và cho vay vốn trong hoạt
động tín dụng nội bộ như các khoản

phải trả, phải thu khác. Điều này đã
không thể hiện đúng mức vai trò của
hoạt động tín dụng nội bộ đối với HTX,
và làm hạn chế sự kiểm soát đối với
hoạt động này. Với hệ thống kế toán
mới, HTX nông nghiệp có các tài khoản
chuyên biệt để hạch toán, theo dõi hoạt
động dịch vụ tín dụng nội bộ. Đó là các
tài khoản cấp 1 và cấp 2 sau: TK 122 -
Cho xã viên vay, TK 322- Tiền gửi của
xã viên, TK 359 - Quỹ dự phòng rủi ro
tín dụng nội bộ, TK 5152 - Doanh thu
hoạt động tín dụng nội bộ, TK 6352 -
Chi phí hoạt động tín dụng nội bộ.
Để đánh giá kết quả và hiệu quả
của các hoạt động sản xuất dịch vụ,
trước HTX chỉ có 2 tài khoản theo dõi
chi phí (TK 631- Chi phí sản xuất kinh
doanh và TK 642- Chi phí quản lý) và 1
tài khoản theo dõi doanh thu (TK 511-
Doanh thu ). Việc hạch toán lãi, lỗ được
thực hiện trực tiếp trên tài khoản 511-
Doanh thu. Điều này đã làm sai lệch ý
nghĩa và bản chất của tài khoản doanh
thu. Với tài khoản kế toán mới, các
khoản doanh thu, chi phí từ các loại hoạt
động là: hoạt động bán hàng và cung
cấp dịch vụ; hoạt động tài chính và tín
dụng nội bộ; hoạt động khác (hoạt động
bất thường) được theo dõi riêng. Đặc

biệt, việc tính toán lãi, lỗ được thực hiện
trên tài khoản trung gian là TK 911-
Xác định kết quả kinh doanh. Nhờ đó,
việc khai thác các thông tin kế toán cần
thiết cho quản lý tài chính sẽ được thuận
lợi hơn.
Trước đây, các khoản chi phí dở
dang được thể hiện trên tài khoản chi
phí (TK 631- Chi phí sản xuất kinh
doanh), và khoản giá vốn hàng bán được
34
phản ánh vào bên nợ của tài khoản
doanh thu. Quá trình luân chuyển vốn
lưu động từ khâu dự trữ đến sản xuất và
lưu thông không được tách biệt rõ ràng.
Với hệ thống tài khoản mới, việc bổ
sung tài khoản 154 – chi phí sản xuất
kinh doanh dở dang và tài khoản 632 –
Giá vốn hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ
(trong đó chia ra bán cho xã viên và bán
cho người bên ngoài HTX) là phù hợp
với yêu cầu quản lý vốn theo sự luân
chuyển của nó trong qúa trình sản xuất
kinh doanh.
Các khoản giảm trừ doanh thu
như hàng bán bị trả lại, giảm giá ở
HTX hiện cũng có tài khoản chuyên biệt
để hạch toán (TK 521- Các khoản giảm
trừ doanh thu) chứ không hạch toán trực
tiếp vào tài khoản 511 doanh thu như

trước đây. Điều này giúp HTX làm tốt
hơn việc theo dõi và đánh giá mức độ
đáp ứng yêu cầu khách hàng về các loại
sản phẩm cung cấp (thường là nông sản
thu mua để làm dịch vụ tiêu thụ từ các
hộ xã viên), từ đó cải thiện công tác
quản lý.
Ngoài việc trích lập dự phòng rủi ro
tín dụng nội bộ, các HTX cũng đã có thể
thống nhất sử dụng tài khoản 159- Các
khoản dự phòng để hạch toán dự phòng
giảm giá hàng tồn kho và dự phòng nợ phải
thu khó đòi. Điều này đã giúp các HTX giải
tỏa được những băn khoăn và lúng túng
trong việc trích các khoản dự phòng này
theo tinh thần của Thông tư liên tịch số
74/2008/TTLT/BTC-BNN.
Đối với các loại nguồn vốn của
HTX: Nguồn vốn kinh doanh của HTX
được theo dõi chi tiết hơn với sự bổ
sung tài khoản cấp 2 “Nguồn vốn hỗ trợ
đầu tư của Nhà nước” (TK 4114); đây
là nguồn vốn phát sinh khá nhiều ở các
HTX nông nghiệp có khó khăn về vốn
trong thời gian qua (trước đây, khoản
vốn này được ghi chung với nguồn vốn
khác). Các quỹ khen thưởng, phúc lợi
được ghi vào nợ ngắn hạn, tách biệt hẳn
với các quỹ thuộc vốn chủ sở hữu,
nhằm giúp HTX tránh nhầm lẫn khi

đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh.
Trên đây là một số nội dung chính
yếu thể hiện những ưu điểm của hệ
thống tài khoản kế toán mới theo Thông
tư số 24/2010/TT-BTC dành cho các
HTX nông nghiệp. Cho đến nay, theo
khảo sát thực tế của chúng tôi, đa số các
HTX nông nghiệp tại các địa phương đã
và đang triển khai áp dụng chế độ kế
toán này. Tuy nhiên, do thời gian áp
dụng chưa lâu, nên cũng chưa thể kết
luận về mức độ hiệu quả của hệ thống tài
khoản kế toán mới. Trong thời gian tới,
chắc chắn chúng ta cần có thêm những
khảo sát, đánh giá để phát hiện những
vấn đề, nếu có, liên quan tới công tác kế
toán HTX, nhằm đảm bảo vai trò tích
cực của kế toán với tư cách là công cụ
hữu ích và giúp cho công tác quản lý tài
chính của các đơn vị kinh doanh nói
chung và các HTX nông nghiệp nói
riêng./.
35

×