LẺ HỘI CUNG ĐÌNH TRIÈƯ NGUYỀN VÀ VẤN ĐÈ
KHAI THÁC CÁC LỄ HỘI NÀY ĐẺ PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA - DU LỊCH Ỏ HƯÉ
Trần Đức Anh Sơn*
Do hoàn cảnh lịch sử. Huế được vương triều Nguyễn chọn làm kinh đỏ của
Việt Nam trong suốt 143 năm (1802 - 1945). Cùng với việc thiết lập bộ máy nhà
nước theo thể chế phong kiến trung ương tập quyền, vương triều Nguyễn đã thiết
lập một chế độ lễ nghi phong phú, bài bản, chặt chẽ và tổ chức thực thi, chủ yếu là ở
Huế, trong suốt thời gian tồn tại của vươne triều này. Những lễ nghi này, thường
được gọi là lễ hội cung đình triều Nguyễn hay lễ hội cung đình H uế, là một phần
của văn hóa cung đình Huế, một trong hai thành tố hợp thành văn hóa Huế, và là
thành tố quan trọng trong việc tạo nên bản sắc văn hóa Huế, làm cho văn hóa Huế
khác biệt với văn hóa của các nơi khác ở Việt Nam.
1. Tống quan về lề hội cung đình triều Nguyễn
1.1. L ễ hội cung đình
Theo chúng tôi, lễ hội cung đình là những lễ hội do các vương triều phong
kiến khai sình và tố chức thực hiện nhằm biêu hiện quyền lực, tư tưởng và nhận
thức về thế giới quan và vũ trụ quan của giai cấp thống trị; đáp ứng các nhu cầu về
tâm linh, tín ngưỡng, vai chơi, giải tri của giai câp thống trị và các tầng lớp trên
trong xã hội p h o n g kiến.
Chủ thể của ỉễ hội cung đình là nhà nước phong kiến, thông qua các đại diện là
vua chúa, quan lại (tùy từng trường họp cụ thể), nhưno. đổi tượng tham gia lễ hội cung
đình thì không chỉ có giai cấp thống trị của nhà nước phong kiến mà còn có sự tham
gia của nhiều tầng ỉớp nhân dân trong xã hội đươne. thời. Khi nhà nước phona kiến cáo
chung thì lễ hội cung đình cũng biến mất do chủ thể tổ chức khône, còn tồn tại.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt chế độ phone kiến ờ Việt Nam.
Vì thế, lễ hội cung đình cũng khône còn được tổ chức mà đã trở thành di sản và chỉ
* TS., Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nằng.
264
LỄ HỘI CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN V À VẤN ĐỀ KHAI THÁC CÁC LỂ HỘI.
được phản ánh trone các nguồn sử liệu, các công trình nghiên cứu hay được lưu giũ
trong ký ức của một bộ phận dân chủne từng có mối quan hệ với triều Nguyễn, triều
đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Cũng vì lý do này, m à Cục Văn hóa thông tin cơ sở (thuộc Bộ Văn hóa Thông
tin trước đây) khi tiến hành thống kê di sản lễ hội ở Việt Nam đã đưa ra con số: đên
năm 2003, Việt Nam có 8.902 lễ hội các loại, bao gồm: 25 lễ hội du nhập từ nước
neoài, 7.005 lễ hội dân gian, 1.399 lễ hội tôn giáo, 409 lễ hội lịch sử cách mạng, 64
lễ hội khác1, không có số liệu nào về lễ hội cung đình. Nhiều công trình nghiên cứu
về lễ hội ở Việt Nam đã bỏ qua các lễ hội cung đình do họ không biết (hoặc không
quan tâm) đến sự tồn tại của các lễ hội này trone lịch sử Việt N am .2
1.2. L ễ h ộ i cung đ ình triều N g u yễn
Lê hội cung đình triều N guyên là những lê hội do triêu Nguyên khai sinh và tỏ
chức thực hiện, chủ yếu ở kinh đô Huế, trong thời gian triều đại này cai trị đất
nước. Nhữne lễ hội này còn được gọi là lễ hội cung đình H uế vì nhiều người đã
đồng nhất cung đình H uế với cung đình triều N guyễn, do Huế là kinh đô của vương
triều Nguyễn.
Triêu Neuyễn chia lễ hội cung đình thành hai loại: các lê tiết và các lê tế tự và tồ
chức thực hiện hai loại hình lễ hội c u n o đình này trong suốt thời eian trị vì ở Huế.
1.2.1. Các lễ tiết
Đó là các dịp triều hội hàng tháng, gồm: Đại triều (vua ngự điện Thái Hòa đè
nhận chầu) và Thường triều (vua ngự điện c ầ n Chánh để nhận chầu); ba cuộc lễ lớn
hàng năm nhân các đại tiết: N guyên đán (Tết âm lịch), Đoan dương (Tết Đoan ngọ),
Vạn thọ (sinh nhật nhà vua); các lễ mừng nhân các dịp: Hưng quốc khánh niệm
(quốc khánh của triều Nguyễn), Thánh thọ (sinh nhật hoàng thái hậu), Tiên thọ
1. Dần theo: Lê Hồng Lý, “Những hoạt động lễ hội tín ngưỡng của người Việt trong sự đôi
mới kinh tế hiện nay”, trong sách Giá trị và tính đa dạng của Folklore châu Á trong quá
trình hội nhập, Nxb Thế giới, 2006, tr. 196.
2. Sách Từ điển hội lễ Việt Nam của Bùi Thiết (Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1993) thống kê cả nước
có 403 lễ hội; cuốn Lịch lễ hội của Lê T rung Vũ và Nguyễn Hồng Dương (Nxb Văn hóa
Thôn" tin, Hà Nội, 1997) thống kê cả nước có 385 lễ hội. Nhưng cả 2 cuốn sách này không
có dòng nào đề cập đến những lễ hội cung đình đã từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam . Theo
chúng tôi, công trình nghiên cứu nghiêm túc và bài bản về lễ hội cung đình Việt Nam có lẽ
là cuốn Những đại lẽ và vũ khúc cùa vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng
Huề (Nxb Văn học, Hà Nội, 1992). Cuốn sách này đã khảo cứu và giới thiệu 36 đại lễ từng
được tổ chức dưới các triều Lý - Trần - Lê - Tây Sơn - Nguyễn và 11 vũ khúc cung đình,
cluì yếu là vũ khúc cung đình thời Nguyễn.
265
VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉƯ HỘI THẢO QUỐC TÉ LẦN THÚ T ư
(sinh nhật hoàng thái phi); Thiên thu (sinh nhật hoàng hậu), Thiên xuân (sinh nhật
hoàng thái tử )1.
Triều N guyễn cũng xếp vào mục lễ tiết các lễ sau: lễ đăng quang (lễ lên ngòi
của nhà vua), lễ tấn tôn (lễ sách phong hoàng thái hậu, hoàng thái phi), lễ mừng nhà
vua n s ự cung mới, lễ m ừng hoàne thái hậu ngự cung mới, lễ sách phong2...
Ngoài ra, vảo các tiết: lập xuân, đông chí, thirợns nguyên (15 tháng l)3, trung
nguyên (15 tháng 7), hạ nguyên (15 tháng 10), thất tịch (7 tháng 7), trùng dương (9
tháng 9 )... triều đình cũng tổ chức triều hội hay tế lễ tại các miếu. Những lề hội này
cũng được xếp vào mục lễ tiết.
1.2.2. Các le tế tự
Đó là các lễ tế tại các đàn, miếu do triều đình lập ra, thờ tự và tổ chức tế lễ
hàng năm. Triều N guyễn quy định các lễ tế tự theo ba bậc:
* Đ ại tự: Gồm các lễ tế tại: đàn Nam Giao; các miếu trong Hoàng Thành gồm:
Triệu miếu, Thái miếu, H ưng miếu, Thế miếu, điện P hụne Tiên; điện Hiếu Tư; điện
Long An; miếu Triệu Tường và miếu Trừng Quốc công; các lăng tẩm của các vị
chúa N guyễn và các vua triều Nguyễn; đàn Xã Tắc.4
* Trung tự: Gồm các lễ tế tại: miếu Lịch đại đế vương; miếu Lê Thánh Tông;
Văn miếu; đàn Tiên N ô n g 5.
* Quần tự: G ồm các lễ tế tại: đền Khải Thánh6; Võ miếu; miếu Quan Công;
miếu Quốc vương Chiêm Thành; miếu Quốc vương Chân Lạp; miếu Khai quốc
công thần; miếu Trung hưng công thần; miếu Trung tiết công thần; miếu Đô Thành
hoàng; miếu Hội đồng; miếu Thai Dương phu nhân; miếu Nam Hải long vương;
miếu Hậu thổ; miếu M ộc thương, miếu Hỏa pháo thần; miếu Tiên Y; miếu Vũ sư;
miếu Phong bá; miếu Thiên phi; miếu Hỏa thần; miếu Sơn thần; miếu Tiên nương;
miếu thờ thần hồ; m iếu thờ thần các đảo; đàn Ân tự; đàn Âm hồn; đàn Sơn xuyên;
1. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nom hội điển sự lệ, Bản dịch của Viện Sử học, Tập 6,
Nxb Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 13-66.
2. Nội các triều N guyễn, Sđd, tr. 67-83. Lễ sách phong thời N guyễn bao gồm các lễ: sách lập
hoàng hậu, sách lập hoàng thái tử, sách phong cung giai, sách phong hoàng tử, hoàng thân,
sách phong công chúa.
3. Toàn bộ ngày tháng sử dụng trong tham luận này được tính theo âm lịch.
4. Nội các triều N guyễn, Sđd, tr. 338.
5. Nội các triều Nguyễn, Sđd, tr. 339.
6. Dưới triều Gia Long, lễ tế tại các miếu: Phong bá, Vũ sư, N am Hải long vương và đền Khải
Thánh được xếp vào bậc trung lự nhưng sang triều Tự Đức, lễ tế tại 4 đền miếu này được
xếp vào bậc quần tự.
2 6 6
LỄ HÔI CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC CÁC LỀ HỘI...
miếu thờ Thô kỳ; từ đường thờ các thân huân, hoàne thân; từ đườna thờ gia tiên các
phi tần có c ô n a lao, đức hạnh lớn với triều đình, hoàng gia...
Neoài ra, triều Nguyễn còn tổ chức một số lễ nghi và hội hè khác như: lễ kỳ
đạo (lễ tế cờ); lễ đảo vũ (lễ cầu mưa); lễ ban sóc (lễ ban lịch năm mới tổ chức vào
ngày m ồne 1 tháng 12 âm lịch); lễ phất thức (lễ lau chùi và niêm phong các kim bảo
neọc tỉ để nehỉ Tết, tổ chức vào hạ tuần tháng 12 âm lịch); lễ tiến xuân ở kinh đô và
ở các tỉnh (tồ chức vào ngày lập xuân); lễ tịch điền (lễ vua ra cày ruộng để khuyến
khích dân chúng chăm lo nehề nông, tổ chức vào tháng 5 âm lịch); ỉễ Tứ tuần đại
khánh (mừng sinh nhật lần thứ 40 của nhà vua), lễ Ngũ tuần đại khánh (m ừ n s sinh
nhật lần thứ 50 của nhà vua); cuộc du xuân của nhà vua (cùng ho àn g gia và đình
thần) vào dịp đầu xuân; ngày Hổ quyền (tổ chức cho voi ngựa đấu nhau để vua và
đình thần thưởng lãm )...
Triều Nguyền rất quan tâm tổ chức và thực hiện các lễ nehi, tế tự. Sách Khâm
định Đ ại Nam hội điên sự lệ (phần Chính biên) đã dành 68 quyển trong tống số 263
quyển để bàn về các quy thức, điển chế tổ chức thực hiện nehi lễ, tế tự. Điều này
cho thấy tế, lễ là hoạt động quan trọng trong chính sự của triều Nguyễn, đồng thời
cho thấy sự phong phú của các loại lễ hội cung đình triều Nguyễn.
1.3. Tổng quan về lễ hội cung đình triều Nguyễn
Dựa vào thông tin trong các bộ sách: Khâm định Đ ại N am hội điển s ự lệ , Đại
Nam nhất thống chí2 và N hững đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt N am , chúng tôi
đã thống kê được hơn 100 lề hội cuna đình khác nhau do triều Nguyễn thực thi, chủ
yếu là ở kinh đô Huế, trong thời gian triều đại này cai trị đất nước.
1.3.1. Quá trình hình thành lễ hội cung đình triều N guyễn
Hơn 100 lễ hội cung đình nói trên không phải đều do triều N guyễn đặt ra. Đó
là kết quả của quá trình kế thừa, tiếp thu, bổ túc và điều chỉnh trải dài suốt lịch sử
tồn tại của vương triều này. Lễ hội cung đình triều N guyễn được hình thành từ quá
tr ìn h sau:
* Ke thừa lễ hội của các triều đại trước đây
Các triều đại phong kiến Việt N am kể từ thời tự chủ đầu thế kỷ X, dù ít dù
nhiều cũng chịu ảnh hưởng Trung Hoa trong việc tổ chức triều chính, pháp luật,
1. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Bản dịch của Viện Sử học, 15
tập, Nxb Thuận Hóa, 1993.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy
A n h h i ệ u đí nh , 5 tập, N x b T h u ậ n
Hóa,
1992.
3. Dỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, N hững đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam , Nxb
Văn học, Hà Nội, 1992.
267
VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉƯ HỘI THẢO QUỒC TÉ LẰN TH Ủ T ư
lê nghi, văn hóa, giáo dục, khoa cử... Trong lĩnh vực lê nghi, có nhiêu lễ hội có gòc
gác Trung Hoa nhưng đã được du nhập vào nước ta và được các triều Đinh - Lê
(963 - 1009), Lý (1010 - 1225), Trần (1225 - 1400), Hồ (1400 - 1407), Hậu Lê
(1427 - 1788), Tây Sơn (1788 - 1802) tổ chức thườna xuyên, trở thành những lễ hội
tru\ên thống của nhà nước phone kiến Việt Nam. Chấng hạn: lễ tế Giao du nhập
vào nước ta từ đời Lý Anh Tông (1 138 - 1175), được duy trì dưới các triều: Hồ,
Hậu Lê và Tây Sơn (1788 - 1802)'; lễ cày ruộng tịch điền (và tế đàn Xã Tắc hay
đàn Tiên Nông) có từ năm 987 triều Tiền Lê2, được tổ chức thường xuyên vào thời
Lý - Trần - Hậu Lê; lễ tế Văn miếu có từ năm 1070 đời vua Lý Thánh Tông3, tiếp
tục được thực hiện vào thời Trần và thời Hậu Lê; các lề: kỳ đạo đăne quang, tấn
tôn. sách phong, truyền lô, tiến xuân ngưu... đều được các triều Trần - Hồ - Hậu Lê
tô chức. Nhữne lễ hội này đã được nhà Neuyễn kê thừa, tiêp thu và có những bổ
sung, điều chỉnh cho phù hợp với tính chất và hoàn cảnh đường thời.
* Tiếp thu từ lễ hội cung đình Trung Hoa
Triều Nguyễn chọn khuôn mẫu Trung Hoa làm mô hình đế cai trị đất nước. Vì
thê, nhiêu nghi lễ, điển chương của triều đình Trune Hoa cũng được triều Nguvễn
tham khảo, tiếp thu và thực hiện vì nhiều mục đích khác nhau. Chẳng hạn: các lễ
triêu hội nhân các dịp: mừng thọ vua (lễ Vạn thọ), m ừng thọ hoàng thái hậu (lễ Từ
cung thánh thọ), m ừ n s thọ hoàng hậu (lễ Thiên thu), m ừng thọ hoàng thái tử (lễ
Thiên xuân), mừng thọ vua (lễ Vạn thọ), mừng vua hay hoàng thái hậu ngự cung
điện mới, Tứ tuần đại khánh, Ngũ tuần đại khánh. Bát tuần thánh th ọ...; các lễ tế
như: tế đền Khải Thánh, tế đền Quan Công, tế Văn miếu, tế Võ miếu (là những nơi
thờ rât nhiều danh tướng, công hầu Trung Hoa); các cuộc du xuân của vua, hoàng
gia và đình thần.
* Cung đình hóa và điên chế hỏa những lễ nghi truyền thống của dân tộc
Nhiều lễ nghi truyền thống của dân tộc Việt N am đã được triều Nguyễn cung
đình hóa bans các nghi lễ long trọng, điển lệ chặt chẽ và tổ chức bài bản hơn nhằm
thê hiện địa vị cao quỷ của dòng họ Nguyễn hay quyền uy tối thượng của nhà vua.
Chăng hạn, các lễ tế, h ư ởns tại các miếu thờ tô tiên, các bậc tiền bôi và các vị đế
hậu triều Nguvễn như Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng
liên, điện Hiếu Tư, điện Long A n ... thực chất là việc cung đình hóa và điển chế
hóa tục thờ phụns và cúng bái tổ tiên mà neười dân Việt Nam đã thực hiện từ bao đời
1. Tri ều Tr ần k h ô n ỵ tổ chức lễ tế Giao. Dan theo: Đỗ B ằ n g Đ o à n vả Đồ T r o n g Huề, Sđđ,
tr. 15.
2. Đỗ B ằ n g Đ o à n và Đ ỗ T r ọ n g Huề, Sđd, tr. 87.
3. Đỗ B ằ n g Đo àn và Đ ỗ T r ọ n g Huề, Sđd, tr. 105.
268
LỀ HỘI CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC CÁC LỄ h ộ ...
nay. Thông qua các lễ tế, hưởng ở các miếu này, triều Nguyễn đã nâne việc tầờ
cúng tổ tiên của mình thành biểu tượna quyền uy của chế độ và dòng họ. Chhh
thuộc tính cung đình của các lễ hội này đã 2Óp phần tạo nên bản sắc cho lễ hội cứ
Huế, là yếu tố làm cho lễ hội ở Huế nói riêne và văn hóa Huế nói chung khác bệt
với lễ hội và văn hóa của những địa phương khác.
*
Xuất p h á t từ nhu cầu của đời sống; tử nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của
nhiều bộ phận dân cư trong xã hội
Rất nhiều lễ hội cung đình triều Nguyễn do triều đình tổ chức thực hiện xiât
phát
từ y ê u c ầ u c ủ a đ ờ i
so ns
x ã h ộ i n h ư : lễ đ ả o v ũ ( lễ c ầ u m ư a v à c ầ u tạ n h đế C IO
mùa màng được phong đăne hòa cốc), lễ truyền lô (tôn vinh những người đỗ đạt đê
khuyến khích tinh thần hiếu học trong xã hội); hay xuất phát từ đạo lý “uổng nuớc
nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam như các lễ tế tại các miếu thờ: Lịch đại đế vương,
vua Lê Thánh Tông, quốc vương Chiêm Thành, quốc vương Chân Lạp, khai quốc
công thần, trune, hưne công thần, trune tiết công thần...; hay xuất phát từ tâm lý
cảm thông, chia sẻ với những hoàn cảnh éo le, thương tâm của tha nhân như: lê tê
mộ hoang, lễ tế đàn Âm hồn, lễ cúng cô hồn...
Sự hình thành của các lễ hội cung đình triều Nguyễn là một quá trình, gắn liền
với lịch sử tồn tại và phát triển của vưong triều Nguyễn. Phân lớn các lễ hội cung
đình triều Nguyễn đều được thiết lập dưới triều Gia Long (1802 - 1820) và tr.ều
Minh Mạng (1820 - 1841) trên cơ sở tiếp thu, duy trì các lễ hội dã có từ các triều iỉại
trước và đặt thêm các lễ hội mới vì các nhu cầu lịch sử, xã hội, văn hóa, tín
ngưỡng... của triều đại mới. Các triều vua kế vị khôna, chỉ tiếp nối duy trì thực thi
mà luôn bổ túc, điều chỉnh và kiện toàn các lễ hội này. Đó là các hoạt động trùng tu,
tu bổ đền, miếu, đàn, tự (là nơi thờ tự và hành lễ); di dời, thay đổi vị trí đền, miếu,
đàn, tự so với vị trí ban đầu đến những nơi cao ráo, phong quang hơn; điển chế hóa
thời điểm, thời gian và quy mô tổ chức lễ hội cũng như các nghi thức tiến hành và lê
vật dâne cúng trona lễ h ộ i... Thậm chí, sự điều chỉnh, bố túc và kiện toàn này diên
ra nhiều lần neay trong một triều vua, nhiều nhất là dưới triều Minh Mạng.
1.3.2. Các đặc trưng của lễ hội cung đình H uế
Lễ hội cuns đình triều Nguyễn là sự tiếp thu, vận dụng và phát triển đa dạng
các lễ hội cung đình của các triều đại trước ở Việt Nam và lễ hội cung đình Trung
Hoa trong một bối cảnh mới, triều đại mới, với những mục đích vừa có nét tương
đồne, vừa có nét khác biệt so với trước. Vì thê, ngoài những đặc trưng chung của lê
hội cung đình như: quy mô, hoành tráng, có tính điển chế cao, thì lễ hội cung đình
triều Neuyễn còn có các đặc trưng sau:
269
VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUÓC TÉ LẦN T H Ứ TU
* Phản ánh m ột nhu cầu tâm linh vừa có tính chất tín ngưỡng thần quyền, vừa
tốn vinh vương quyền của vương triều N guyễn
Vua chúa triều Nguyễn cũng là con người nên họ cũnẹ có nhừne nhu cầu tâm
linh như những người bình thường khác. Lễ hội cung đình chính là sợi dây kết nổi
giữa thế giới trần tục với thế giới thần linh, là phương thức để các bậc vua chúa gửi
đén thần linh những nguyện vọng, khẩn cầu (của họ và của những thần dân mà họ
đại diện) vì một mục đích nào đó; hay gửi đến tô tiên và những người đã khuất lòng
tièc thương, sự hiếu nghĩa, sự tri ân và chia sẻ. Đây là một nhu cầu có thực, thể hiện
tín ngưỡns thần quyền, tin vào quyền năng của các vị thần linh, vào những người
"khuất mặt, khuất m ày” ở thế giới bên kia. Tuy nhiên, do nhà vua là “thiên tử” (con
trời), đứng trên các bậc thần linh, nên nhà vua vừa tin tưởng vào quyền năng cùa
thân linh, lại vừa tự cho mình quyền được sai bảo các vị thần. Các vị thần được nhà
vua tô chức tế lễ hàng năm cũng chính là những vị được vua sac phone, (thượng
đãng thần, trung đẳnạ thần...), nên vua cũng có quyền sai khiến, thậm chí trừng
phạt các vị thần vì những “ lỗi lầm” của h ọ 1. Vì vậv, lễ hội cung đình còn thể hiện V
nghĩa tôn vinh vương quyền.
* Phản ánh sự tôn vinh triều đại và dỏng họ N guyễn
Trong hệ thống tế lễ của triều Nguyễn có rất nhiều lễ hội, chủ yếu ỉà các lễ tự,
hưởng, được tổ chức tại các miếu thờ các vị tổ tiên, liệt vương, liệt đế, hậu phi...
cao dòng họ của nhà vua. Leopold Cadière nhận xét ràng: "Các vua Nguyễn được
thờ củng trong Thế m iếu dưới danh nghĩa của các cựu nguyên thủ quốc gia, và
người thực thi nọjíĩa vụ này là vị hoàng đ ế đương nhiệm đóng vai trò thủ lãnh hiện
thời của vương q u ố c ''} Điều này khẳng định uy quyền của vương triều ỉuôn luôn
tôn tại và được kế thừa liên tục và chính thống. Nhiều người tin ràng "việc thờ cũng
góp phần củng cổ tình đoàn kết trong dòng họ và m ang lại sức mạnh tinh thần của
friều đ ạ i''2 hay “việc th ờ cúng tô tiên theo nghi lễ của các bậc vua chúa còn m ang
ỉ. V ua Minh M ạ n g đ ã t ừ n g " t r ừ n g p h ạ t ” n ữ t hần Kỳ t h ạc h p hu nhân, được t h ờ ờ xã T h a n h
Phước, hu yện H ư ơ n g Trà , phủ T h ừ a T h i ê n vỉ đã k h ô n g đ á p ứ n g yêu cầu cầu mư a t rong lễ
đảo vũ do triều đình tổ chức.
2. Dan theo: Đỗ Trinh Huệ, Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan học ẹ/ả
Cadière, Nxb Thuận Hóa, 2006, tr. 221.
3. SurDesai, D.R, Southeast Asia, Past & Present , o .s . Printing House, Bangkok 1997, p. 42.
Dan theo: H u ỳ n h T hị A n h Vân, " V ấ n đề bàn sắc qu a nghi lễ tế miếu: m ộ t cách tiếp cận nhân
học" trong Di sản văn hóa Huế, Nghiên cínt vò Dao tồn, Trung tâm BTDT cố đô Huế xuất
bàn, Huế, 2007, tr. 234.
270
LỀ HÔI CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỀN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC CÁC LỄ HỘI...
lại uy thế của dòng họ nhà vua, đề cao uy quyền của vương triều
Vì điều này nèn
nhừne nehi lễ thờ cúng tổ tiên của v ư ơ n s triều N guyễn trở nên phức tạp và được
điển chế hóa ở mức cao nhất so với các triều đại trước đó.2
* Diên ra quanh năm, linh hoạt về thời gian, ph o nọ, p h ú về hình thức tô chức
và cỉiên ra ở nhiêu địa điềm khác nhau
Triều Neuyễn tố chức lễ hội quanh năm, tập trune vào một số tiết lớn như: lập
xuân, neuvên đán, thượng nguyên, đoan dương, trung nsuyên, hạ nguyên, đông
chí.... nhưng tập truna nhiều nhất vẫn là mùa xuân và mùa thu (xuân thu nhị kỳ) mồ
đỉnh điểm là vào tháng 2 và tháne 8 âm lịch. Thời eian tổ chức lễ hội linh hoạt, CC
lễ hội chỉ diễn ra trono 1 neày, một số lễ hội kéo dài đến 3 ngày, thậm chí 7 ngà)
(như các lễ tế đàn). Hình thức lễ hội và nehi thức lễ hội rất phong phủ. “Tất cả các
lê hội cung đình H uế đều có phần âm nhạc đi kèm. M ột sô lê hội quan trọng còn ct
cả các tiết mục ca và m úa ” . Các lễ hội cune đình này được tổ chức ở nhiều nơi tạ
kinh đô Huế xưa, một số lễ hội còn có sự phối hợp tổ chức giữa kinh đô với các die
phương khác trong nước.
* Anh hưởng m ạnh m ẽ đến lễ hội dân gian ở H uế
Như đã đề cập ở phần trên, nhiều lễ hội cung đình ở Huế có gốc gác từ dâi
gian nhưng đã được triều N guyễn cung đình hóa và điển chế hóa thành lễ hội cunị
đình, chẳng hạn như các lễ tể, hưởng ở các miếu, điện thờ vua chúa nhà Nguyêi
trong Hoàng Thành (bắt nguồn từ việc kỵ giỗ tổ tiên của dân gian), lễ yết hái ở các
lăng tẩm vua chúa triều N guyễn (bắt nguồn từ lễ tảo mộ của dân gian)... Tuy nhiên
khi những lễ nghi dân gian được cung đình hóa, đến lượt nó, lại ảnh hưởng trở lại đô
với các lễ hội trong dân gian, nhất là trong phần lễ, thể hiện ở trình tự hành lễ, lễ vậ
dâng cúng và neôn từ của các bài văn khấn, kể cả trang phục của những nsười hàm
lễ và dự lễ. "Anh hưởng của nghi lễ cung đình thật rõ nét trong nghi le dãn gian i
Huế. Sự tổ chức cúng bái, cung cách thể hiện, nghi thức m ột cách trang trọng, đủni
phép cho ta thấy nghi lễ dân gian vùng H uế không chi do truyền thống mà còn chịi
sự chi đạo, hướng dẫn và tác động của nghi thức xu ấ t p h á t từ cung đình ”4.
1. Lương Kim Thoa, “Các vua triều Nguyễn đối với tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam nìa
đầu thế kỷ XIX”, trong Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyền ở Dại học, Coo đăre;
sư phạm và phổ thông (Kỷ yếu hội thảo Khoa học quốc gia), Bộ Giáo dục và Đào tạoTrường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002, tr. 116.
2. Huỳnh Thị Anh Vân, “ Bđd” , tr. 234.
3. Phan Thuận An, “Lễ hội cung đình triều Nguyễn nhìn từ góc độ văn hoá và du lịch ngry
nay”, Sông Hương, số 167, tháng 1, 2003, tr. 47.
4. Tôn Thất Bình, “Một số đặc điểm của lễ hội dân gian hiện nay ở Thừa Thiên Huế”, Văn h(ũ
Nghệ thuật, Số 3 (117), 1994.
271
VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẰN T H Ứ TU
* Nặng phần lễ, nhẹ phần hội
Xem xét lề hội cung đình triều N guyễn theo cấu trúc, tức là tách bạch thành
hai phân: le và hội, thì chúng tôi nhận thấy phần lễ trone lề hội cung đình triều
Nguyễn được coi trọng hơn phần hội. Nguyên nhân là do triều Nguyễn coi trọng
thực hành lễ nghi hơn là tổ chức hội hè, vui chơi, siải trí trong các lễ hội. Đây cùng
là nét khác biệt giữa lễ hội cung đình với lễ hội dân gian.
Le hội cung đình triều Neuyễn do vua định ra và đình thần tổ chức thực hiện.
Cả người khai sinh lễ hội, lẫn naười hành lễ đều là nh ữ n s naười học thức, chịu anh
hưỏng sâu đậm của tư tưởng Nho giáo. Nho giáo quan niệm “Le giả, thiên địa chi
tự d ã " (Lễ vốn là trật tự của trời đất - Kinh Lễ). V ua là người thav trời để điều hành
cái trật tự ấy cho nên phải lấy lễ làm gốc. Ngoài ra, mục đích của các lễ hội cung
đình là đế tôn vinh thần quyền và vươne quyền, tôn vinh những giá trị tinh thần cao
đẹp theo nhãn quan của giai cấp thống trị. Vì thế, họ quan tâm đến tính chất nghiêm
trang, sự uy nghi, tính điển chê của lễ nghi hơn là quan tâm đến những sinh hoạt hội
hè đi kèm lễ hội. Mặt khác, với địa vị cao quý của mình, giai cấp thong trị không
cho phép mình tham dự những sinh hoạt hội hè có tính trần tục như trong các lễ hội
dân gian, nên cho dù một số lễ hội cung đình triều N guyễn có tổ chức phần hội kèm
theo thì phần hội này cũng mang tính hình thức hơn là những hoạt động vui chơi,
giải trí thực sự như trong các lễ hội dân gian.
* Giàu tính nhân văn
Đây là một trong nhữ ns giá trị văn hóa đáng trân trọng của lễ hội cung đình
triêu Nguyễn. Triều Nguyễn tổ chức lễ hội không chỉ vì mục đích suy tôn vương
quyên, đề cao dòng họ và thỏa mãn nhu cầu tâm linh của các bậc đế vương. Nhiều
lê hội do triều Nguyễn tố chức như tể N am Giao, tể Xã Tắc, lễ cày ruộng tịch
điền... ỉà để cầu cho “quốc thái dân an”, “phong điều vũ thuận” , “phong đăng hòa
cốc” ... Những lễ hội này được tổ chức hàng năm mả người chủ lễ chính là nhà vua.
Điều này thể hiện rằng các vua triều N guyễn coi việc cầu mong mưa thuận gió hòa,
đât nước thái bình, nơười dân an lạc là việc trách nhiệm của họ. Ngoài ra. vua cũng
cử các vị đại thần khâm mạng thay mặt vua tiến hành các lễ đảo vũ (mỗi khi có hạn
hán hay mưa dầm), lễ tế miếu Phong bá, lễ tể miếu Vũ sư ... để cầu khấn và tạ ơn
các vị thần mưa, thần gió. Tính nhân văn trong các lề hội cunạ đình Huế còn được
thê hiện trong việc triều đình lập miếu thờ và tổ chức tế tự các vị đế vương của các
triều đại trước (miếu Lịch đại đế vương, miếu Lê Thánh T ô n e )... thể hiện sự trọng
thị và biết ơn đối với các triều đại trước. Sự trọng thị này k h ô n s chỉ đối với các vị
vua chúa Việt Nam mà còn đối với các vị quốc vương của Chiêm Thành và Chân
Lạp xưa thôna, qua việc lập đền miếu và duy trì tế lễ các vị này. Triều Nguyễn lập
Văn miếu và Võ miếu để tôn vinh văn trị, võ công; lập các miếu thờ côna thần và
272
LỄ HÔI CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC CÁC LỄ HỘI..
tô chức tê lề ở các nơi này đế tôn vinh những nsười có côn2 với đất nước, với triều
dại. Không những thế, các lề tế mộ hoang, lề tế đàn Âm hồn... m ang ý nghĩa nhân
văn sâu sắc thế hiện sự đồng cảm. cảm thông, thương xót đôi với đôna loại bât
hạnh. Trong khi đó, các lễ triều hội như: nguyên đán, đoan d ư ơna... lại thể hiện sự
tiếp nối những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; lễ truyền lô thể hiện việc
tôn vinh người tài và tuyển chọn neười tài ra siúp nước... Tất cả nhữns nét tích
cực ấy là phần cốt lõi tạo nên nhữ ng giá trị nhân văn trong lễ hội cung đình triều
Neuyễn. Loại trừ nhữne phần hạn chế do thòi đại và hệ tư tưởng phons kiến, lễ
hội cung đình triều N guyễn chứa đirns những giá trị văn hóa tích cực và giàu tính
nhàn văn.
2.
ỏ Huế
Khai thác lỗ hội cung đình triều Nguyễn để phát triển văn hoá - du lịch
Do hoàn cảnh lịch sử và những biến đổi của xã hội, sau khi triều Nguyễn cáo
chung, hầu hết các lễ hội cung đình khôna còn được tồ chức do chủ thể lễ hội khôns
còn tồn tại. Tuy nhiên, một sổ hình thức tế lễ như lễ tế, hưởng tại các miếu thờ trong
Hoàng Thành, lễ yết bái lăng tẩm các vua chúa nhà Nguyễn nhân tiết thanh minh
hay vào các dịp giỗ kỵ nhà vua vẫn được con cháu họ Nguyễn, dưới sự điều hành
của Hội đồng trị sự N guyễn Phúc tộc, vẫn được duy trì, nhưng trong phạm vi dòng
họ. chứ không phải là những quốc lễ như trước.
Đặc biệt, sau nhiều năm gián đoạn, vào năm 1972, với mục đích nguyện cầu
cho hòa bình, bà Từ Cung (Đoan Huy hoàng thái hậu), mẹ vua Bảo Đại đã đứng ra
tổ chức một cuộc lễ tế khá quy mô tại đàn Nam Giao của triều Nguyễn, với sự
chứng kiến của đại diện chính quyền đương thời ở Huế. Đâv là lễ tế Giao đầu tiên
được tổ chức sau khi triều Nguyễn kết thúc, và người đứng ra tố chức lễ tế này là
một bà (cựu) hoàng thái hậu của triều Neuvễn.
Sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, những lễ hội cune đình triều
Nguyễn bị coi là tàn dư của chế độ phong kiến nên bị loại bỏ. Thậm chí, những
“dấu vết” liên quan đến các lễ hội này cũng bị xóa bỏ.
Tuy nhiên, từ đầu thập niên 1990, khi Huế bắt đầu được du khách trong và
ngoài nước quan tâm, đặc biệt, sau khi quần thể di tích triều Nguyễn ở Huế được
UNESCO côna; nhận là Di sản Văn hóa Thế siới vào năm 1993, chính quyền tỉnh
Thíra Thiên Huế đã có những thay đổi trong cách “đối xử” với các di sản văn hóa
do vương triều Neuyễn để lại, cả di sản vật thể lẫn di sản phi vật thể.
Níìoài việc đầu tư tiền của và trí lực cho công cuộc bảo tồn quần thể di tích
kiến trúc triều Nguyễn, chính quyền cũng cho phép người dân tố chức một số lễ hội
truvên thống của địa phươns, trong đó có những lễ hội có gốc gác gắn vói văn hóa
273
MỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN TH Ủ T Ư
Cang đình Huế như lễ hội điện Hòn Chén. Đặc biệt, vào ngày 23/6/1989. được sự
đầr.g ý của chính quyền. Hội done trị sự Nguyễn Phúc tộc và con cháu đòng họ
I'giyen đã cử hành lễ Cung nehính an vị và kỵ (siỗ) Triệu Tổ Tĩnh hoàng đế
^ l y ễ n Kim ở Triệu miếu. Cuộc lễ có sự tham dự của đại diện chính quyền cấp
tnh và cấp thành phố. đại diện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên
Huế, các vị nhân sĩ, trí thức và hơn 2.000 con cháu của dòna họ Nguyễn từ khắp nơi
'ỗ dự.1 Sau sự kiện này, Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc chủ trương phục hồi dần
cân một số lễ tế tại các miếu thờ các vua chúa triều Nguyễn ở trong Hoàng Thành.
Hiện nay, hàng năm Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc đều tổ chức bôn cuộc lễ chính
tủ các miếu này: lễ kỵ Triệu Tổ Tĩnh hoàng đế Nguyễn Kim (neày 20/5 âm lịch); lễ
tỵ Thái Tổ Gia Dũ hoàng đế Nguyễn H oàna và hiệp kỵ các vị chúa Nguyễn (ngày
2/6 âm lịch); lễ kỵ Hưng Tổ Hiếu Khương hoàng đế N auvền Phúc Luân, thân phụ
Mia Gia Long (ngày 10/9 âm lịch) và lễ kỵ vua Gia Long và hiệp kỵ các vua
Nguyễn (ngày 19/12 âm lịch). Có thể nói rằng, lễ tế tự tại các miếu thờ vua chúa
tha Nẹuyễn, từ hình thức "quốc lễ” do nhà nước phong kiến chủ trì, trong bối cảnh
nói đã được phục hồi, tái hiện dưới hình thức nghi lề của dòng tộc. Điều thú vị là
I hững cuộc tế ỉễ này được tổ chức ở ngay những nơi mà nhà nước phong kiến trước
cây đã thực hiện quốc lễ, với những nghi thức như lễ hội cung đình nhưng giản lược
và kiệm ước hơn.
Ở một phía khác, trong các kỳ Festival Huế được tố chức từ năm 2000 đến
nay, nhiều lễ hội cung đình đã được chính quyền cho phép và đầu tư tiền của để
phục hồi, tái hiện như: lễ tế Nam Giao, lễ tể Xã Tắc, lễ truyền lỗ, lễ hoàng hôn. lễ
Ến tử vinh quy, thi tiến sĩ võ..., nhàm làm phong phú thêm các hoạt động của Festival
và giới thiệu những nét độc đáo của văn hóa Huế để thu hút du khách.
2.1. Việc phục dựng , tải hiện lễ hội cung đình Huế trong thời gian qua
2.1. ì. Mục đích phục dựng, tái hiện
Kể từ khi Đảng và Nhà nước có nhữne thay đổi về chủ trương, chính sách đổi
với lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là íừ khi Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, 1 he thao và
Du lịch) ban hành Q uy chế m ở hội truyền thống (ngày 4/10/1989), thiết lập cơ sở
pháp lý cho việc tổ chức những lễ hội văn hóa truyền thống của dân tộc, chính
quyền tỉnh Thừa Thiên Huế cũng đã có nhĩrna động thái dồng tình, ủng hộ việc
phục dựne, tái hiện nhừ ns lễ hội cung đình triều Nguyễn ở Huế. Theo đó, một số lễ
hội cung đình triều Nguyễn cũna, có cơ may xuất hiện trở lại. Việc phục dựng, tái
hiện những lễ hội này được thực hiện ở cả hai phía: người dân và chính quyền, với
những mục đích khác nhau:
I . Huỳnh Thị Anh Vân, Bđd, tr. 240.
274
LỀ HÔI CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỀN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC CÁC LỀ HÓI.
2.1.1.1.
về phía người dân
Do nhu cầu tâm linh, tín ngưỡne nên người dân tự đứng ra tổ chức (với SI
châp thuận của chính quyền và các cơ quan chức năng) một số lễ hội mà trước (ỉâ;
nhà nước phong kiến thường đứng ra tổ chức như: lễ tế miếu Âm hồn (nhân sự k ệt
"Thất thủ kinh đỏ") vào ngày 23/5 âm lịch; lễ hội điện Hòn Chén (vốn là một lễ lộ
dân 2,1an nhưng đã được "cuna đình hóa” từ triều vua Đồne Khánh) vào thán2 3 Vi
tháng 7 âm lịch.
Ngoài ra, do nhu cầu thờ phụna và bày tỏ lòng hiếu nghĩa với tố tiên, Hội đónị
trị sự Nguyễn Phúc tộc và con cháu họ Neuyễn thường xuyên tổ chức các lê tê,
hưởng tại các miếu thờ các vua chúa nhà Nguyễn ở bên trons Hoàne Thành ha) tỏ
chức các lễ yết bái, tảo mộ tại lăna tấm các vị vua chúa nhà Nguyễn trone các iịp
thanh minh, giỗ chạp. Những lễ hội này được tô chức hoàn toàn vì nhu cầu tâm liìh
tín ngưỡng của người dân, diễn ra trong phạm vi nhỏ, với các nghi lễ được giản lược,
lễ vật khiêm tốn và thời gian hành lễ được rút ngắn so với trước. Kinh phí tổ chức các
lề hội này đều do người dân hoặc con cháu trong dònơ họ Nguyễn đóna góp.
2.1.1.2.
về phía chính quyền
Bắt đầu từ Festival Huế 2004, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế đã đàu tư
kinh phí để phục cỉựng một phần lễ tế Nam Giao thời Neuyễn. Tiếp sau lễ tế Nan
Giao, một số lễ hội cung đình khác cũng được đầu tư phục dựng: lễ tế Xã Tắc. lì
truyền lô, lễ ân tứ vinh quy, lễ hoàne hôn...
Ngoài ra, Ban tổ chức Festival Huế còn đầu tư “dàn dựng” nhầm tái hiệi
nhữne sự kiện lịch sử, chính trị, sinh hoạt văn hóa, hội hè từng diễn ra ở Huế trưóv
đây dưới hình thức “sân khấu hóa” . Đó là các chương trình: Quang Trung lên ngci
hoàng đế, Thao diễn thủy binh thời chúa Nguyễn, Hành trình mở cõi, Huyền thoại
sông Hương (tái hiện hội du xuân của nhà vua, hoàng gia và đình thần trìêi
Nguyễn), Đêm hoàng cung, Thiên hạ thái bình, Thi tiến sĩ võ...
Mục đích của việc phục dựng, tái hiện này là nhằm phục vụ các kỳ Festival
Huế, phục vụ các dịp kỷ niệm nhữne danh nhân - sự kiện lịch sử, phục vụ phát triển
du lịch và phục vụ các nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh cùa một bộ phận xã hội.2
1. Tên gọi chính thức do Ban tổ chức Festival Huế công bổ và được báo chí sử dụng rộng rãi à
phục hoi lễ tế Nam Giao. Thậm chí, ông Phùng Phu, Phó ban tổ chức Festival Huế 2010 còn
tuyên bố: “Đây là lễ tế Giao thật sự chứ không đơn thuần là một lễ hội trong Festival Hué
( Tuy nhiên, theo chúng tôi, đây chỉ
là sự phục dựng một phần lễ tế Nam Giao của các đạo diễn sân khấu, chứ không phải phục
hồi nguyên trạng lễ tế Nam Giao của triều Nguyễn.
2. Mục đích thứ tư này là một mục đích có thật, nhất là trong các dịp phục hồi lễ tế Nam (ÌÌ80
và tế Xã Tắc, nhiều quan chức cấp cao cùa tỉnh Thừa Thiên Huế đều “đăng đàn” cầu khán
rất thành tâm.
275
VTỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUÓC TÉ LẦN THỨ T ư
2.1.2. Những lễ hội cung đình đã được phục dựng, tái hiện trong thời gian qua
Neoài nhã nhạc và múa cung đình triều Nguyễn đã được phục hồi và đưa vào
biìu diễn trona nhiều lễ hội và sự kiện văn hóa - nehệ thuật ở Huế, từ năm 2004,
mìt số lễ hội cung đình triều Neuyễn đã được phục dựng để phục vụ các kỳ Festival
Hie. Ngoài ra, còn có nhiều chương trình “sân khấu hóa” phản ánh nhữne sự kiện
lịch sử, chính trị, văn hóa từng diễn ra thời chúa Nguyễn (1558 - 1776) và Tây Sơn
(1788 - 1801) cũng đã được tái hiện.
2.1.2.1. Phục dựne lễ hội cuns đình triều Nguyễn
Có ít nhất 5 lễ hội cun® đình triều Nguyễn đã được phục dụng từ năm 2004
đén nay. Đó là các lễ hội sau:
* Lễ tế Nam Cĩiao: Được phục dựng trong các kỳ Festival Huê vào các năm:
2004 (chỉ phục dựng trích đoạn N gự đạo hồi cung), 2006 (phục dựng cả ba phần:
N?ự dạo xuất cung, lễ tế tại đàn, N gự đạo hồi cung, nhưng ưu tiên phần hội hơn
phần lễ). Festival Huế 2008 (phục dựng cả phần lễ và phần hội), 2010 (chỉ phục
dime, trích đoạn lễ rước nhà vua từ Trai Cung ỉèn đàn và phần tế tại đàn Nam Giao),
2012 (phục dựng tương tự như Festival Huế 2010).
* Lễ tế Xã Tắc: Được phục dựng trong Festival Huế 2008 như một chương
tr nh chính thức của Festival. Tuy nhiên, từ năm 2009, lễ tế Xã Tắc đã được phục
dưng thường n iên1 nhằm phát huy giá trị văn hóa - lịch sử của lề hội này để phục vụ
nhu cầu văn hóa - tâm linh của nhân dân và thu hút sự quan tâm của du khách, phục
vu phát triển du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
* Lễ truyền lô: Được phục dựng trong Festival Huế 2006.
* Lễ ân tử vinh quy: Được phục dựng trong Festival Huế 2006.
* Lễ hoàng hôn: Được phục dựng trong chương trình Đêm Hoàng cung, tô
chức tại Đại Nội troriạ các kỳ Festival Huế 2006, 2008, 2010 và tố chức định kỳ
hùng tháng trong các năm 2007 và 2009.
2.1.2.2. Tái hiện, sân khấu hóa một số lễ hội, sinh hoạt văn hóa ở Huế xưa
* Cuộc thi tiến sĩ võ: Được tái hiện trong Festival Huê 2008.
* Lễ Quang Trung lên ngôi hoàng đế: Được tái hiện irons Festival Huế 2008
và trong dịp khánh thành Khu lượng đài anh hùng, dân tộc Q uans Trung tại núi Bân
(Huế) vào ngày 9/1/2010.
1 Sau lễ tế Xã Tắc được phục dựng lần đầu vào đêm ngày 10/6/2008, liên tiếp trong các năm
2009 - 2012, tỉnh Thừa Thiên Huế đều cho phục dựng lễ tế Xã Tắc vào các thời điểm khác
nhau: rạng sáng ngày 24/3/2009, tối ngày 8/4/2010, tối ngày 20/3/2011 và lần gần đây nhất
là nửa đêm ngày 8/3/2012.
276
LỄ HỘI CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC CÁC LẺ HỘI...
* Hội du xuân của nhà vua. hoàng gia và đình thần triều Nguyễn: ĐiỢc tái
hiện trong chương trình Huyền thoại sôna Hương trong hai kỳ Festival Hue 2008
và 2010.
* Cuộc thao diễn thủy binh thời chúa Nguyễn: Được dàn dựng theo hì nì thức
sân khấu hóa trong chương trình Festival Huế 2010.
* Lễ hội Hành trình mở cõi: Được dàn dựna theo hình thức sân khấu hÓF. trong
Festival Huế 2010.
* Lễ hội Thiên hạ thái bình: Được dàn dựne theo hình thức sân khấu hós trong
Festival Huế 2010.
* Đám rước Công chúa hạ giá (cônơ chúa lấy chồne): Được tái hiện trong
Festival 1luế 2012.
2.1.3.
N hận xét, đánh giá về việc phục dựng, tái hiện lễ hội cung đình Huê
trong thời %ian qua
Le hội cung đình triều Nguyễn góp phần tạo nên giá trị đặc trưng và bản săc
cho văn hóa Huê. Vì thê, việc phục hôi và tái hiện lễ hội cung đình triều Nguyên đê
phục vụ nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người dân và thu hút khách du lịch đên
với Huế trone thời gian qua đã đáp ứng sự mong đợi của đông đảo quần chúng nhân
dàn Thừa Thiên Huế và du khách đến thăm Huế.
Những lễ hội được phục dựng, tái hiện một cách công phu và hoành tráng này
đã gây tiếng vang lớn trone dư luận, góp phần vào thành công của các kỳ Festival
Huế, biến Festival trở thành một “thương hiệu” riêng
của Huế,
góp phần quáng bá
cho du lịch và văn hóa Hue.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do, việc phục dựng, tái hiện các lễ hội cung đình triêu
Nguvễn đã khône được như kỳ vọne, đã bộc lộ những sai sót, hạn chế như sau:
- sẵn sàng thay đổi không gian và thời eian tổ chức lễ hội vì một lý do nào đó,
thậm chí chỉ đế đáp ứng yêu cầu của truyền hình.
- Đặt quá nhiều mục tiêu cho việc phục hồi một lễ hội nên không đáp ứng
được mục tiêu nào.
- Chủ thể của lễ hội không nhất quán, thậm chí ngay trong cùng một cuộc lê.
Thái độ của người tham gia lễ hội không còn thành kính, nhiệt tâm như trước. Họ
khône còn đ ó n s vai trò là chủ thể trone lễ hội, là đối tượng sáng tạo nên di sản văn
hóa mà trở thành khách thể, là những người thưởne thức, sử dụng di sản văn hóa.
- Nhiều nghi thức truyền thống, nhiều nội dune quan trọng của lễ hội đã bị loại bỏ
hoặc được thay thế bằna những biến tướns. Chẳns hạn, nhiều nghi thức truyền thông
277
VIỆT NAM HỌC - KỶ YỂU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN T H Ứ TU
trong các lễ hội cuna đình khôna còn phù hợp với bối cảnh xã hội hiện nay. Vì thế.
những người phục dựng lễ hội đã thay thế một số nghi thức truyền thong bằne
nhữne nghi thức mới, nhưna do không am hiểu lịch sử và văn hóa nên một số nghi
thức mới đã tạo nên nhữne biến tướns đầy phản cảm, eây ảnh hưởng khôna tốt đến
lễ hội.
-
Nhiều loại trane phục, đạo cụ truyền thống sử dụne trons lễ hội bị thay thê
bởi trang phục, phươna tiện, thiết bị hiện đại, khôns đúng với nguyên gốc.
Những sai sót, hạn chế nêu trên đã khiến cho việc phục dựng, tái hiện một số
lễ hội cuns đình triều Nguyễn trong thời eian qua có nhiều bất cập, thậm chí đã
cung cấp cho người dân địa phương và du khách những cảm nhận, đánh giá không
chính xác về lễ hội cuna đình triều Nsuyễn: một số lễ hội bị phục dựng sai lệch so
với hình thái nguyên thủy, dẫn đến việc đánh mất tính xác thực (authenticity) của lễ
hội, với tư cách là một loại hình di sản văn hóa cần phải bảo tồn.
2.2.
ở Huế
Khai thác lễ hội cung đình triều Nguyễn để ph ái triển văn hóa - (hí lịch
Như vậy, vấn đề khai thác lễ hội cung đình triều N guyễn để phục vụ đời sống
văn hóa, nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người dân Huế và phục vụ phát triển du
lịch đã được chính quyền và các cơ quan hữu quan ở Thừa Thiên Huế rất quan tâm.
Vì thế, trong những năm qua, tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức nghiên cứu, phục
dựng và tái hiện một số lỗ hội cung đình triều Nguvền hoặc một sổ sinh hoạt, hội hè
của chốn cune đình xưa nhàm đáp ứng các nhu cầu trên. Tuy nhiên, do quan điểm
nhận thức còn bất cập, do cách thức tổ chức thực hiện còn nhiều lúng túng nên việc
phục dựng, tái hiện những lễ hội cuna, đình triều Nguyễn trong thời gian qua đã
không được như kỳ vọng. Để khắc phục những hạn chế, bất cập nói {rên, theo tôi.
trước tiên phải đánh giá đúng vai trò của lễ hội cung đinh triều Nguyền trong đời
sống văn hóa, nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của n^ười dân Huế, cũnR như nhu cầu
chiêm bái, thưởne ngoạn và khám phá văn hóa của du khách thông qua các lề hội
này. Sau đó, mới tính đến việc lựa chọn các lễ hội phù hợp để phục dựng, tái hiện
nhằm phát huy giá trị văn hóa và phục vụ phát triển du lịch.
2.2.1. Thái độ của người dân và du khách đổi với di sản lê hội cung đình
triều Nguyễn
2.2.1.1. Đối với người dân
Người dân Huế là chủ thể của di sản văn hóa Huế. Họ là người đã góp phần
sáng tạo, thực hiện, gìn eiữ và trao truyền nhiều giá trị văn hóa, trone đó có lề hội
cung đình triều Nguyễn. Mặc dù hiện nay chế độ phons kiến khôna còn nữa, lễ hội
cung đình khône còn được tổ chức như trước nhưng những lễ hội này vẫn còn
278
LỄ H ộ ! CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC CÁC LỀ HỘI..
lưu lại trong sứ sách và trone tâm thức nhiều bộ phận dân chúng ở Huế. Vì thế, việc
phục dựng, tái hiện các lễ hội này phần nào giới thiệu với người dân Huế nhừns giá
trị văn hóa, giá trị lịch sử của một loại hình sinh hoạt văn hóa tâm linh ở Huế xưa.
góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp mà các lễ hội này m ans lại, đáp
ứng nhu cầu tâm linh, tín nsưỡne của nsười dân Huế.
Lễ hội cung đình triều Nguyền là nét riêng độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa
I Iuê. Đó là một dạng di sản văn hóa phi vật thể độc đáo của xứ Huế và mọi người
đôu có trách nhiệm gìn giữ và phát huy giá trị của các lễ hội này, trons đó có vai trò
không nhỏ của người dân. Người dân từne là một trong các chủ thể tham eia vào
quá trình sáng tạo, thực thi và giữ gìn giá trị của các lễ hội này. Vì thế, họ cần phải
được tạo điều kiện đế tham gia vào quá trình bảo tồn và phát huy giá trị các lễ hội
này thông qua các hoạt độne phục dựng, tái hiện lễ hội cung đình triều Nguyễn.
2.2.1.2. Đổi với du khách
Du khách đến thăm Huế, ngoài việc đi thăm viếng các di tích lịch sử - văn hóa.
họ còn có nhu cầu tham quan, chiêm bái, tìm hiểu các lễ hội ở Huế, trong đó có lễ
hội cung dinh triều Nguyễn, bởi họ muốn khám phá những cái hay, cái độc đáo của
văn hóa Huế. c ầ n lưu ý rằng, chỉ có Huế mới có thể tổ chức, phục hồi các lễ hội
cung đình vì đây là di sản văn hóa chỉ có ở Huế. Và cũng lưu ý thêm rằng thuộc tính
cung đình đã trở thành m ột thương hiệu độc quyền của văn hóa và du lịch I luế: cơm
cung đình Huế, trà cung đình Huế, chè cung đình Huế, ca nhạc cung dinh Huế,
thuyền cung đình Huế, vườn cung đình Huế, đời sống cung đình Huế...
Từ nhu cầu của du khách, cần thiết phải coi lễ hội cune đình triều Neuyễn là
một di sản văn hóa có thể khai thác đê biến thành các sản phẩm du lịch độc đáo, vừa
để đáp ứng nhu cầu của du khách, vừa phục vụ phát triển du lịch ở Huế.
2.2.2. K hai thác lễ hội cung đình triều Nguyễn trong bổi cảnh hiện nay
2.2.2.1.
Quan điểm cá nhân về việc phục dựng, tái hiện lễ hội cung đình
triều Nguyễn
Chúng tôi ủng hộ quan điểm phục dựng, tái hiện các lễ hội cung đình triều
Nguyễn trong bối cảnh đương đại để phục vụ cho các nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng
của nơười dân và phát triển du lịch. Tuy nhiên, mỗi khi tiến hành phục dựng, tái
hiện lễ hội, cần phân biệt rõ việc làm đó là để phục vụ cho cộns đồng hay để phát
triển du lịch. Cụ thể:
-
Nếu phục dựne, tái hiện lễ hội vì nhu cầu tâm linh hay vì ý nghĩa nhân văn
sâu sắc của lễ hội thì cần phải tuân thủ về nghi thức, thời gian, địa điểm hành lễ, phải
tôn trọng tính xác thực của lễ hội để tránh cung cấp cho người dân những cách nhìn
279
VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LẦN T H Ứ TƯ
lệch lạc về lề hội. Đó phải là một lề hội thật sự và nsười dân đóng vai trò chủ thể,
chính quyền chỉ đóng vai trò ủng hộ, hỗ trợ (tất nhiên, không cần phải đóng giả vua
quan như đã từne xảy ra). Người chủ lễ có thể là các quan chức cấp cao ở địa
phương, hav một vị nhân sĩ cao niên, đức độ, vận trana phục truyền thống (áo dài.
khăn đóng) đứng ra tế lễ.
- Nếu phục vụ cho việc phát triển du lịch thì chấp nhận hình thức sân khấu hóa
và thương mại hóa. Lễ hội đó phải được quảng diễn, có bán vé thu tiền đê công
chúng và du khách được vào xem. Lúc đó, có thể mời diễn viên sắm vai vua quan,
quân thẩn, binh tướng... ăn vận và hành lễ eiống như tronỄỊ lễ hội ngày xưa, nhưng
phải ‘để’ cho công chúng biết rằng đây là lễ hội phục hồi theo truyền thốne. chứ
không phải là một lễ hội cung đình triều Nẹuvễn chính thống.
- Lễ hội cung đình
t r iề u
Nguyễn là những nghi thức thiêng liêng, vì thế cần
phải tôn trọng tính xác thực của lễ hội mỗi khi phục dựng lễ hội để phục vụ đời
sông văn hóa, tín neưỡng của người dân, từ địa điêm, không gian, thời gian tô chức
đôn hình thức diễn xướng, trang phục, đạo cụ, nội dung văn tế... Còn khi tái hiện
theo hình thức sân khấu hóa để phục vụ phát triển du lịch thì phải nghiên cứu cấn
trọng để đảm bảo tính xác thực của di sản không bị sai lệch hay biến tướng.
' Xác định rõ chủ thể của lễ hội để có những giải pháp giữ nguyên trạng hay
tha> thế trong từng lễ hội cụ thể mỗi khi tiến hành phục dựng, tái hiện lễ hội.
- Duy trì sự tồn tại của lễ hội trong lòng cộng đồng, trong môi trường nguyên
thủy m à di sản đã nảy sinh và tồn tại; luôn tạo điều kiện cho cộne đồng bảo vệ. tổ
chức khai thác vè phát huy các mặt tích cực của lễ hội.
2 .2 .2 2 . Khai thác lễ hội cung đinh triều Nguyễn để phát triển văn hóa - du lịch
ở Huế
Trong gần 100 lễ hội cung đình triều Nguyễn nêu trẽn, tùy mục đích và nhu
câu. có thể lựa chọn một số lễ hội để phục dựng, tái hiện theo nhiều cách thức
khác nhau;
* Vì mục đích phát triển văn hóa:
- Đổi với các lễ lớn (đại tự) như lễ tế đàn N am Giao, tế đàn Xã Tắc, chính
quyêoi hoặc các cơ quan hữu quan có thể đứng ra tổ chức và huy động nhân dân
tham gia, hưởng ứng theo hình thức tự nguyện, tạo điều kiện cho nhân dân (và cả du
khách) đến tham dự, chiêm bái. hành lễ.
- Giao cho cộng đồns tái hiện lễ tế đàn Âm hồn, lễ tế đàn Tiên Nôns, lễ tế đàn
Tiên Y , lễ tế đàn Sơn Xuyên, lễ tế các dền miếu thờ các vị thần linh mà dân Huế có
280
LỄ HÔI CUNG ĐÌNH TRIỀU NGUYỄN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC CÁC LỄ HÓI...
truyên thống tín neưỡng, tế tự từ trước đến nav. Chính quyền các cấp chỉ tạo đ êu
kiện chứ khôns nên đầu tư hay can thiệp vào các lễ hội này.
- Giao cho con cháu họ Nguyền, thône qua Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc '.ộc
đảm nhận các lễ tế hườne tại các miếu thờ các vị đế hậu thời Nguyễn và thờ chúa
N&uyễn, các thân vương, hoàng tử, cônẹ chúa, hoàne thân... của dòng họ Nguyên.
Chính quyền các cấp cũng chỉ tạo điều kiện chứ không nên đầu tư hay can thiệp vào
các lễ hội này.
* Vì mục đích phục vụ du lịch:
- Lựa chọn những lễ lớn (đại tự) như lễ tế đàn Nam Giao, tể đàn Xã Tắc đê tái
hiện theo hình thức sân khấu hóa để phục vụ du lịch, có bán vé tham quan, c ầ n tái
hiện một cách bài bản và có lịch trình định kỳ, được thône báo rộng rãi bằng nhiêu
hình thức truyền thông đa phương tiện để du khách có thể tiếp cận thông tin và tham
gia thưởng ngoạn, chiêm bái. Khônẹ nhất thiết phải đợi đến cac kỳ Festival Huê
mới tổ chức phục dựng, tái hiện các lề hội này.
- Lựa chọn những lễ tế hoặc các hình thức sinh hoạt cung đình như: lễ ban sóc,
lễ kỳ dạo. lễ truyền lô, lễ tiến xuân, lễ phất thức, cuộc du xuân của vua và hoàng
gia, ngày Hổ quyền, hoàng tử nạp thiếp, côns chúa hạ giá... để dàn dựng sân khâu
hóa trong các chương trình nghệ thuật định kỳ, diễn ra chủ yếu ở khu vực Hoàng
Thành để phục vụ du khách tham quan, phát triển du lịch và làm phone phú thêm
các hoạt động của các kỳ Festival Huế.
* Vì mục đích bảo tồn di sản văn hóa:
- Cần tiến hành nhận dạng, phân loại và kiểm kê di sản lễ hội ở Huế, cả lễ hội
dân gian và lễ hội cung đình để có kế hoạch bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị
cho phù hợp.
- Tư liệu hóa di sản lễ hội cung đình triều Nguyễn bằng các hình thức chụp
ảnh, quay phim, ghi âm, ghi chép... nhằm eiúp cho việc bảo tồn lễ hội, đồng thời
phục vụ cho việc nạhiên cứu, tìm hiểu và phát huy giá trị của lễ hội.
- Khi đủ điều kiện thì cần đăns ký các lễ hội cuna đình triều Neuyễn như là
những di sản văn hóa phi vật thể tiêu biếu của xứ Huế với các cơ quan hữu quan của
quốc gia và các tổ chức quốc tế để nhận được sự côns nhận và bảo vệ tốt nhất đôi
với các lễ hội này.
Sau cùng, chúng tôi hy vọng rằng tham luận này sẽ cung cấp một góc nhìn
tổng quát về di sản lễ hội cung đình triều N suyễn trong lịch sử; đưa ra những nhận
xét, đánh giá về việc phục dựng, tái hiện một số lễ hội cung đình triều Nạuyễn trong
thòi sian vừa qua, đồng thời đề xuất một số ý kiến nhằm bảo tồn, phát huy giá trị và
khai thác lễ hội cung đình triều N suyễn để phát triển văn hóa - du lịch ở Huế trong
thời £Ìan tới.
2 81
VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUÓC TẾ LẦN T H Ứ T ư
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Thiết, Từ điển hội lễ Việt Nam. Nxb Văn hóa. I Ià Nội. 1993.
2. Đỗ Bằne Đoàn và Dồ Trọna Huề, N hững đại lễ và vũ khúc của vua chúa
Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 1992.
3. Đồ Trinh Huệ, Văn hỏa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nom dưới nhãn quan học
giả Cadière, Nxb Thuận Hóa, 2006.
4. Hà Văn Thịnh "Festival Huế: Lịch sử được phục hiện như đồ...giả!'’,
VietNamNet, Ngày 8/6/2010.
5. Hồ Hương Giane, "Ket thúc lễ hội, những băn khoăn”, Sài Gòn tiếp thị, số
ra ngày 13/6/2010.
6. Hoàng Văn Minh, “Văn hoá Huế, đâu chỉ mỗi triều N guyễn”, Lao động, số
ra ngày Thứ Tư (1/12/2010).
7 Huỳnh Thị Anh Vân, “Vấn đề bản sắc qua nghi lễ tế miếu: một cách tiếp cận
nhân học" trong D i sản văn hóa Huế, Nghiên cứa và Bảo tồn, Trune tâm BTDT c ố
đô Huế xuất bản, Huế, 2007.
8. Lê Hồng Lý, “Những hoạt động lễ hội tín ngưõng của người Việt trong sự
đôi mới kinh tế hiện nay” trong Giá trị và tính đa dạng của Folklore châu Ả trong
quả trình hội nhập, Nxb Thế giới, 2006.
9. Lương Kim Thoa, "Các vua triều Nguyễn đối với tín ngưỡng truyền thốn ụ ở
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”, trons Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn
ở Đại học, Cao dắng sư phạm và pho thông (Kỷ yểu hội thảo Khoa học quốc gia),
Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002.
10. Minh Tự, “Vua giả mà dân chúng thì thật!”, Tuổi trẻ, s ố ra ngày Thứ Ba
(4/5/2010).
11. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đ ại N am hội điển sự lệ, Bản dịch của
Viện Sử học, 15 fập, Nxb Thuận Hóa, 1993.
12. Phan Thuận An, “Lễ hội cung đình triều Nguyễn nhìn từ góc độ văn hoá
và du lịch ngày nay”, Sôn% Hương, s ố 167, Tháng 1/2003.
13. Quốc sử quán triều Nsuyễn, Đ ại Nam nhất thống chí, Phạm Trọng Điềm
dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, 5 tập. Nxb Thuận Hóa, 1992.
14. Tôn Thất Bình, “Một số đặc điểm của lễ hội dân eian hiện nay ở Thừa
Thiên Huế”, Văn hóa Nghệ thuật, s ố 3 (117), 1994.
282