Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

DSpace at VNU: Xây dựng ý thức tự giáo dục cho sinh viên Trường Đại học Hùng Vương trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.2 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Nguyễn Ngọc Cường

Xây dựng ý thức tự giáo dục cho sinh viên Trường Đại học
Hùng Vương trong giai đoạn hiện nay
Luận văn Thạc sĩ Triết học: 60.22.80
Người hướng dẫn: TS. Đoàn Thị Minh Oanh

HÀ NỘI - 2007


MỤC LỤC
Mở đầu............................................................................................................3
Chương 1. Vai trò của tự giáo dục trong giáo dục đại học ........................... 11
1.1. Tự giáo dục và nội dung của tự giáo dục trong giáo dục đại học ................. 11
1.1.1. Giáo dục và tự giáo dục - nhìn từ góc độ triết học ................................... 11
1.1.2. Nội dung của tự giáo dục trong giáo dục đại học ..................................... 20
1.2. Tầm quan trọng và yêu cầu của việc xây dựng ý thức tự giáo dục trong
giáo dục đại học hiện nay ...................................................................... 26
1.2.1. Tầm quan trọng của ý thức tự giáo dục trong giáo dục đại học hiện nay ... 26
1.2.2. Một số yêu cầu cơ bản của việc xây dựng ý thức tự giáo dục trong giáo
dục đại học ở nước ta hiện nay............................................................... 30
Chương 2. Xây dựng ý thức tự giáo dục cho sinh viên Trường Đại học
Hùng Vương hiện nay - thực trạng và giải pháp ................................. 38
2.1. Thực trạng ý thức tự giáo dục của sinh viên Trường Đại học Hùng Vương
và các vấn đề đặt ra ............................................................................... 38
2.1.1. Khái quát về tỉnh Phú Thọ và Trường Đại học Hùng Vương ................... 38
2.1.2. Thực trạng xây dựng ý thức tự giáo dục cho sinh viên Trường Đại học
Hùng Vương những năm qua (2003 đến 2007) ....................................... 41


2.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao ý thức tự giáo dục cho sinh viên
Trường Đại học Hùng Vương hiện nay (Làm lại giải pháp: 3)
2.2.1. Tích cực đổi mới có hiệu quả cách học ở đại học: Tự học của sinh viên ... 74
2.2.2. Tăng cường các biện pháp giáo dục nội khóa, ngoại khóa thông qua các
môn học................................................................................................ 80
2.2.3. Đẩy mạnh phong trào thi đua học tập, nghiên cứu khoa học tiến quân
vào khoa học công nghệ, xung kích đi đầu xây dựng xã hội học tập......... 83
2.2.4. Đẩy mạnh các hoạt động nâng cao chất lượng phong trào tuổi trẻ thi đua
tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ............................................... 84
2.2.5. Đổi mới phương pháp dạy học - áp dụng yếu tố tích cực của phương
thức đào tạo theo tín chỉ ........................................................................ 85
Kết luận ........................................................................................................ 89
Danh mục tài liệu tham khảo ........................................................................ 91


BẢNG QUY ƯỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CĐ:

Cao đẳng

CĐSP:

Cao đẳng sư phạm

CTCT:

Công tác chính trị

GDCD:


Giáo dục công dân

KTDN:

Kế toán doanh nghiệp

QTKD:

Quản trị kinh doanh

PPDH:

Phương pháp dạy học

SPKT:

Sư phạm kỹ thuật

SP:

Sư phạm

TCCB:

Tổ chức cán bộ

TDTT:

Thể dục thể thao


TNCS HCM:

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

VHVN:

Văn hóa văn nghệ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là đầu tư cho
sự phát triển, giáo dục và đào tạo phải hướng tới đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi
của thực tiễn cách mạng.
Thực tiễn cách mạng đòi hỏi cần phải có những con người phát triển toàn
diện, vừa có đức vừa có tài, vừa "hồng" vừa "chuyên". Đó là những người có lập
trường chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có lý tưởng sống
cao đẹp, có hiểu biết về khoa học công nghệ, có tư duy khoa học, sáng tạo.
Những phẩm chất đó là kết quả của quá trình giáo dục, trong đó tự giáo dục có ý
nghĩa quyết định.
Hiện nay, đất nước ta đang “chuyển mình” mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội và hội nhập với mức độ ngày càng sâu rộng, tốc độ ngày
càng nhanh vào đời sống quốc tế, đặc biệt về kinh tế, thì những tác động của xã
hội ta, của quốc tế vào mỗi cá nhân, nhất là lớp trẻ cũng rất mạnh mẽ. Việc giáo
dục nhân cách cho tầng lớp thanh niên sinh viên hiện nay nảy sinh nhiều vấn đề
phức tạp. Sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc đòi hỏi ở họ phải rèn luyện tài
năng và đạo đức để tiếp nhận được nhiều nhất, đúng đắn nhất những điều kiện
mà dân tộc và nhân loại, lịch sử và thời đại đã tạo nên. Trọng trách này trước hết
thuộc về nền giáo dục nước nhà và đòi hỏi thanh niên sinh viên phải có khả năng

tự giáo dục cao.
Lâu nay trong xã hội ta, sự chuyển biến rất chậm chạp trong quan niệm về
dạy chữ và dạy người, học chữ và học làm người đã ảnh hưởng lớn tới động thái
dạy học và học tập, tới kết quả của quá trình giáo dục. Đời sống hiện nay đòi hỏi
sự thích ứng của mỗi cá nhân với tốc độ phát triển rất cao của xã hội đã làm cho
vấn đề tự giáo dục, tự rèn luyện trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.


Là giảng viên trường Đại học Hùng Vương trước hết tôi quan tâm đến
sinh viên của mình và trăn trở về kết quả giáo dục, làm sao sau khi rời ghế nhà
trường, các em vững vàng trong cuộc sống, lập thân, lập nghiệp. Chính vì vậy,
tôi chọn vấn đề: Xây dựng ý thức tự giáo dục cho sinh viên Trường Đại học
Hùng Vương hiện nay làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng tự giáo dục đã xuất hiện rất sớm trong tiến trình phát triển của
xã hội loài người. Các triết gia cổ đại đã nhận ra tiềm năng sáng tạo của nhân
loại ngay trong mỗi con người. Về sau, những nhà tư tưởng vĩ đại như
J.J.Rousscau, L.Tolstoi, A.X. Macarencô, M.Gorki,... đều có những ý tưởng
muốn đánh thức tiềm năng sáng tạo, ý thức tự chủ của người học và đặt ra những
yêu cầu cao đối với việc học tập nói chung, trong đó có tự học.
Vấn đề tự giáo dục đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu, kể
cả trong một số giáo trình “Giáo dục học” và ở một số bài viết chuyên đề hội
thảo... Tuy vậy, nhìn chung các tác giả mới dừng lại ở sự chỉ dẫn, khuyến cáo,
nhắc nhở... và chủ yếu là bàn về vấn đề tự học của sinh viên - một nội dung
không thể thiếu được trong quá trình giáo dục nói chung và vấn đề ý thức tự giáo
dục của sinh viên nói riêng.
Trong tài liệu "Đổi mới phương pháp dạy học trong các trường đại học,
cao đẳng đào tạo giáo viên trung học cơ sở" của GS. TS. Vũ Văn Tảo đã nêu lại
triết lý giáo dục của thế kỷ XXI (theo J. Delors, UNESCO, 1996.), đó là:
1/ Học suốt đời (lifelong learning). Năng lực học suốt đời nhờ vào học

cách học
2/ Bốn trụ cột của giáo dục:
* Học để biết (cốt lõi là hiểu)
* Học để làm (trên cơ sở hiểu)
* Học để cùng sống với nhau (trên cơ sở hiểu nhau)


* Học để làm người (trên cơ sở hiểu bản thân)
3/ Xây dựng một xã hội học tập (learning society)
Học thường xuyên học, suốt đời, đào tạo liên tục.
Những vấn đề trên đã gợi ý đến vấn đề tự giáo dục mà trước tiên là vấn đề
tự học.
Vấn đề tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu ở Việt Nam đã được nhiều tác
giả nói đến trong các công trình của mình. Trong bài viết "Khơi dậy tiềm năng
về khả năng tự giáo dục, tự đào tạo, tự học của sinh viên" GS.TS. Nguyễn Cảnh
Toàn đã viết: "Làm giáo dục mà khởi động được tiềm năng về khả năng tự giáo
dục, tự đào tạo, tự học là cách làm giáo dục có hiệu quả và rất kinh tế vì người
học sẽ tự lo được rất nhiều, giảm đi biết bao nhiêu công sức, tiền của đầu tư của
xã hội, của nhà nước. Nó cho phép thực hiện khẩu hiệu "Học, học nữa, học mãi"
vì không ai ngồi mãi trên ghế nhà trường được nhưng lại phải học suốt đời, học
liên tục. Nó cũng cho phép thực hiện khẩu hiệu" Học mọi lúc, học mọi nơi, học ở
mọi người" mà những người quen học thụ động, ỷ lại, bỏ phí đi rất nhiều dịp để
học như học lúc đi chơi, lúc lên giường đi ngủ, học ở đứa trẻ mới lên ba...” [39].
Khi "Dự báo về một số đặc điểm tương lai của giáo dục đầu thế kỷ 21"
[2], tác giả Nguyễn Hữu Châu đã cho rằng, nội dung của môn học không còn là
hệ thống kiến thức ổn định và bất biến, tuyệt đối khách quan nữa; mục tiêu của
môn học cũng không còn hoàn toàn như dự định trước, mà đã trở thành quá trình
thầy trò cùng tìm tòi kiến thức mới. Các thầy giáo từ chỗ giảng dạy, hành nghề
truyền thống trở thành người hợp tác để làm cho học sinh tiến vào xã hội tương
lai. Điều đó, đòi hỏi học sinh không ngừng tự học để thích ứng được với các yêu

cầu của xã hội.
Phát huy vai trò của người học, đề cao nhu cầu lợi ích của họ, thúc đẩy họ
tự lực tìm tòi nghiên cứu, GS Trần Bá Hoành nhấn mạnh tới việc "Lấy học sinh
làm trung tâm" của quá trình dạy học (Trần Bá Hoành - Vị trí của tự học, tự đào
tạo trong quá trình dạy học, giáo dục đào tạo - tạp chí nghiên cứu giáo dục.
Tháng 7 năm 1998). Đặc biệt để người học có thể chiếm lĩnh được tri thức và có


phương pháp tư duy để có thể tự học suốt đời, PGS Nguyễn Như Ý cho rằng:
"Cần chuyển cách dạy và học đơn thoại sang cách dạy và học đối thoại" [46].
Luận bàn về phương hướng cơ bản nâng cao chất lượng và hiệu quả tự
học, tự đào tạo của người học, GS Lê Khánh Bằng cho rằng cần thực hiện tốt
quan điểm B.V.T (Bản thân, Việt Nam, Thế giới) trong dạy học. Đó là phát huy
cao độ sức mạnh tiềm năng vật chất, tinh thần và tâm linh của bản thân người
học (B) với sự hỗ trợ ít nhiều của thầy và bạn trên cơ sở kết hợp truyền thống
kinh nghiệm, sức mạnh giáo dục của dân tộc Việt Nam (V) với tinh hoa và sức
mạnh giáo dục của nhân loại, thế giới và thời đại (T) để có thể trở thành những
con người năng động và sáng tạo mang đậm bản sắc dân tộc, thời đại, cá nhân,
hết sức tự tin vào bản thân, có sức đề kháng cao, biết tự khẳng định mình, nhưng
luôn khiêm tốn, biết cùng chung sống [1].
Đánh giá về vai trò hoạt động tự học của người học, GS. Phan Trọng Luận
cho rằng tự học chính là: "Một khâu đột phá chất lượng đào tạo" hiện nay [27].
Trong tác phẩm "Tự học - Một tư tưởng lớn của Hồ Chủ tịch về dạy học".
Tác giả Nguyễn Hoàng Yến đã khái quát tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
tự học có thể quy thành các vấn đề cụ thể như sau:
1/ Một là, trong việc tự học, điều quan trọng hàng đầu là xác định rõ mục
đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn.
2/ Hai là, phải tự mình lao động để tạo điều kiện cho việc tự học suốt đời.
3/ Ba là, Muốn tự học thành công phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học
tập, phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước mọi

trở ngại.
4/ Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức
để tự học.
5/ Học đến đâu, ra sức luyện tập, thực hành đến đó [47].
Trong bài viết: "Vận dụng tư tưởng tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học" - Tạp chí Giáo dục tháng 8 năm


2003, tác giả Nguyễn Văn Quang - Học viện Chính trị quân sự đã khái quát một
tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự học: Một là: Người coi trọng: "Lấy
tự học làm cốt"; Hai là, người xác định động cơ, thái độ học tập là "học để làm
việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân,
phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Đến tháng 5 năm 1950, Người nhắc lại: "Học để
sửa chữa tư tưởng, để tu dưỡng đạo đức cách mạng, để tin tưởng và học để hành"
[34, tr.500].
Theo nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề dạy học - giáo dục và sự phát triển
tâm lý: Khi khẳng định vai trò chủ đạo của giáo dục, dạy học đối với sự phát
triển tâm lý, chúng ta cần lưu ý: Tâm lý con người mang tính chủ thể, những tác
động của điều kiện bên ngoài luôn luôn bị khúc xạ thông qua kinh nghiệm sống
của con người. Do vậy, những học sinh khác nhau có thể có những thái độ khác
nhau trước cùng một yêu cầu của thầy, cô giáo.
Con người là chủ thể hoạt động, chủ thể trước những tác động của môi
trường. Do vậy, các tác động bên ngoài ảnh hưởng tâm lý con người một cách
gián tiếp thông qua quá trình tác động của con người trong môi trường đó.
Hơn nữa, con người là một chủ thể tích cực có thể tự giáo dục thay đổi
được chính bản thân mình - con người có thể tự giáo dục (ở tuổi thanh, thiếu
niên tự ý thức phát triển mạnh mẽ, các em có thể tự giáo dục một cách có ý
thức)... nhưng quá trình tự giáo dục của chủ thể không tách khỏi tác động của
môi trường. Nó được giáo dục, kích thích, hướng dẫn... diễn ra trong quá trình
chủ thể tác động qua lại với những người xung quanh.

Trong cuốn “Quy trình học tập và tự học” (cẩm nang cho học sinh, sinh
viên) tác giả Nguyễn Đình Xuân và các cộng sự đã khẳng định vấn đề tự giáo
dục, tự học thể hiện ở những phẩm chất tâm lý: Xu hướng học tập được kết tinh
và hứng thú ước mơ hoài bão, niềm tin và lý tưởng. Chúng sẽ là ngọn đèn pha
soi rọi trong đêm tối, là chiếc la bàn chỉ phương hướng cho con người đi trên
biển cả và rừng rậm của cuộc đời. Nó có thể là đôi cánh chim nâng bổng các bạn
trẻ lên không gian hạnh phúc, nhưng cũng có thể là hòn đá tảng kéo thanh niên


xuống vũng bùn của cuộc đời. Khi con người có quan niệm đúng đắn về học tập
thì nó sẽ tạo ra động cơ thúc đẩy con người rất chăm chỉ, cần cù và kiên nhẫn
học tập, coi việc học tập, tiếp thu tri thức để lập thân lập nghiệp như cơm ăn,
nước uống hàng ngày [45].
Giáo dục, dạy học có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển. Nhưng mối
quan hệ giữa giáo dục, dạy học và phát triển là mối quan hệ biện chứng. Hai quá
trình này không phải là hai quá trình diễn ra song song mà chúng thống nhất với
nhau, có tác động tương hỗ với nhau. Sự phát triển nhân cách con người chỉ có
thể diễn ra một cách thuận lợi trong những điều kiện của giáo dục và dạy học.
Nhưng để giữ vai trò chủ đạo, giáo dục và dạy học phải kích thích, dẫn dắt sự
phát triển chứ không chờ sự phát triển, tạo nên ở chủ thể quá trình giải quyết
mâu thuẫn liên tục để thúc đẩy sự phát triển. Vì thế, khả năng giáo dục và dạy
học rất rộng lớn, nhưng không vô hạn. Muốn phát triển nhân cách đúng đắn rất
cần có sự tự giáo dục của cá nhân chủ thể trong tất cả các thời kỳ cuộc đời.
Theo nhiều tác giả, chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi và
chỉ khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo
dục thành quá trình tự giáo dục. Luật Giáo dục đã ghi rõ: "Phương pháp giáo dục
đại học phải coi trọng việc bồi đưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều
kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham
gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng". Như vậy, phương pháp dạy và học ở
các trường đại học, cần thực hiện theo ba định hướng:

- Bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu;
- Tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo;
- Rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, ứng dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở những thành tựu lý luận đã đạt được
về ý thức tự giáo dục; qua tìm hiểu, khảo sát ý thức tự giáo dục của sinh viên
trường Đại học Hùng Vương, từ đó xác định những giải pháp cơ bản để xây


dựng ý thức tự giáo dục cho sinh viên trường Đại học Hùng Vương trong giai
đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nêu khái quát được vai trò của tự giáo dục và tầm quan trọng của việc
xây dựng ý thức tự giáo dục cho sinh viên hiện nay.
+ Làm rõ thực trạng và các nguyên nhân của thực trạng ý thức tự giáo dục
của sinh viên trường Đại học Hùng Vương.
+ Xác định những giải pháp cơ bản xây dựng ý thức tự giáo dục cho sinh
viên trường Đại học Hùng Vương trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm và thực trạng giáo dục nói chung, về
ý thức tự giáo dục trong quá trình giáo dục nói riêng.
* Phạm vi nghiên cứu: Quá trình giáo dục (giáo dục và tự giáo dục) ở
Trường Đại học Hùng Vương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của đề tài: Luận văn cơ bản dựa vào những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vấn
đề giáo dục, tự giáo dục; kết hợp với việc tham khảo kết quả nghiên cứu đã được
công bố có liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận biện chứng duy vật và một
số phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, hệ

thống - cấu trúc, điều tra khảo sát, thống kê, so sánh... trong nghiên cứu và trình
bày.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ thực trạng và các nguyên nhân của thực trạng ý thức tự giáo dục
của sinh viên trường Đại học Hùng Vương hiện nay.
- Xác định những giải pháp cơ bản xây dựng ý thức tự giáo dục cho sinh
viên trường Đại học Hùng Vương trong giai đoạn hiện nay.


- Làm tài liệu tham khảo cho việc xác định hệ thống giải pháp để nâng cao
hiệu quả giáo dục của trường Đại học Hùng Vương hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 4 tiết.


Danh mục Tài liệu tham khảo
1

Lê Khánh Bằng (7/1998), “Phương hướng cơ bản nâng cao chất lượng và
hiệu quả tự học, tự đào tạo của học sinh sinh viên”, Tạp chí Đại học và
giáo dục chuyên nghiệp.

2

Nguyễn Hữu Châu (2000), “Dự báo về một số đặc điểm của giáo dục đầu
thế kỷ XXI”, Tạp chí Phát triển giáo dục, (1).

3

Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Triết học cổ điển Đức, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

4

Quang Đạm (1990), Đại học và Trung dung, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.

5

Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị TW lần thứ 2 khóa
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8

Giáo trình triết học Mác - Lênin (2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9

Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.


10

Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết học trong văn hóa phương Đông, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.

11

Trần Bá Hoành (1998), “Vị trí của tự học, tự đào tạo trong quá trình dạy
học, giáo dục đào tạo”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục.

12

Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Trí thức Việt Nam xưa và nay,
Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.


13

Hội sinh viên Việt Nam (12/2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
Hội sinh viên Việt Nam lần thứ 7, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

14

Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb. Văn hóa, Hà
Nội.

15

Trần Đình Hượu (2006), Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.


16

Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội, Hà Nội.

17

Nguyễn Hiến Lê (1994), Khổng tử, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.

18

V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.

19

V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.

20

Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục và thi cử Việt Nam trước cách mạng
tháng 8 năm 1945, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội

21

Lịch sử triết học (1991), tập 1, Nxb. Tư tưởng - Văn hóa, Hà Nội.

22

Lịch sử triết học (1991), tập 2, Nxb. Tư tưởng - Văn hóa, Hà Nội.


23

Lịch sử triết học (1991), tập 3, Nxb. Tư tưởng - Văn hóa, Hà Nội.

24

Luật giáo dục (2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25

Luật bảo vệ môi trường (2004), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26

L.M.Ac-kham-ghen-xki (1984), Chủ nghĩa xã hội và Nhân cách, Nxb.
Sách giáo khoa Mác-Lênin.

27

Phan Trọng Luận (1999), “Lại bàn về một khâu đột phá cho chất lượng đào
tạo”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (5).

28

C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.


29


C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

30

C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 37, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

31

Hồ Chí Minh (1993), Về đạo đức cách mạng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

32

Hồ Chí Minh (1995), Về đạo đức con người mới, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.

33

Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34

Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35

Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.


36

Nguyễn Văn Quang (8/2003), “Vận dụng tư tưởng tự học lý luận của chủ
tịch Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học”, Tạp chí
Giáo dục.

37

Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội.

38

Nguyễn Cảnh Toàn (1998), Quá trình Dạy tự học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

39

Nguyễn Cảnh Toàn (2002), Tuyển tập tác phẩm bàn về giáo dục Việt Nam,
Nxb. Lao động, Hà Nội.

40

Trường Đại học Hùng Vương (2006), Báo cáo của Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh nhà trường năm học 2005-2006.

41

Thái Duy Tuyên (2001), Giáo dục học hiện đại, Nxb. Đại học quốc gia, Hà
Nội.


42

La Quốc Việt (2003), Tu dưỡng đạo đức tư tưởng, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.


43

Huỳnh Khái Vinh (2000), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị
xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44

Phạm Viết Vượng (2000), Giáo dục học, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.

45

Nguyễn Đình Xuân (2000), Quy trình học tập và tự học, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội.

46

Nguyễn Như Ý (1999), “Cần chuyển cách dạy học và học đơn thoại sang
cách dạy và học đối thoại”, Tạp chí Dạy học và giáo dục chuyên nghiệp,
(10).

47

Nguyễn Hoàng Yến (1990), “Tự học - Một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh

về dạy học”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (3).



×