Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tiep can dua tren he sinh thai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.49 KB, 9 trang )

NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI CÁCH TIẾP CẬN DỰA TRÊN
HỆ SINH THÁI TẠI VIỆT NAM
Trương Quang Học
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tóm tắt

Cách tiếp cận hệ sinh thái/dựa trên hệ sinh thái (do Công ước Đa dạng sinh học đề xuất
vào năm 1995), khởi đầu là một chiến lược để quản lý tổng hợp tài nguyên thiên nhiên
(đất, nước và sinh vật) và gần đây, được áp dụng rộng rãi cho phát triển bền vững trong
bối cảnh biến đổi khí hậu. Ở Việt Nam, cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái đã được nghiên
cứu và triển khai từ cuối những năm 90, phục vụ cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học/tài
nguyên. Gần đây, cách tiếp cận này đã được triển khai trong các lĩnh vực quản lý tổng hợp
tài nguyên và ứng phó với biến đổi khí hậu, cả trong quá trình hoạch định chính sách và
triển khai thực hiện trên thực tế. Theo đó, bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được,
cũng còn những khó khăn, thách thức cần phải được tiếp tục nghiên cứu, hướng dẫn, để có
thể áp dụng rộng rãi cách tiếp cận này phục vụ cho sự nghiệp phát triển bền vững trong
bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, thế giới đang đứng trước những cuộc khủng hoảng lớn về kinh tế, xã hội và môi
trường, trong đó nghiêm trọng nhất là cuộc khủng hoảng khí hậu – biến đổi khí hậu (BĐKH).
Trong bối cảnh đó, chiến lược phát triển bền vững (PTBV) của thế giới cũng như của các nước
tập trung theo ba hướng: (i) xã hội cacbon thấp; (ii) xã hội tái tạo tài nguyên; và (iii) xã hội hài
hòa với thiên nhiên (Sumi và nnk., 2011). Theo đó, trong rất nhiều các lĩnh vực của đời sống xã
hội hiện nay đều theo xu hướng có tính từ xanh (green) với hàm ý hợp sinh thái: phát triển
xanh/tăng trưởng xanh/kinh tế xanh, năng lượng xanh, lối sống xanh, cơ quan xanh, xí nghiệp
xanh, đô thị xanh/sinh thái...
Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc (LHQ) về PTBV – RIO+20 tại Rio de Janeiro, Brazil
(tháng 6/2012), có hai chủ đề trọng tâm: “cải thiện khuôn khổ thể chế để phát triển bền vững và
phát triển nền kinh tế xanh trong bối cảnh phát triển bền vững và xóa đói nghèo”. Tuyên bố


“Tương lai mà chúng ta mong muốn” của RIO+20 tuy chưa có các cam kết mang tính ràng buộc
pháp lý, nhưng đã đặt được viên gạch đầu tiên cho Chiến lược Kinh tế xanh – con đường phát
triển kinh tế hài hòa với môi trường, giảm nhẹ BĐKH để thực hiện các mục tiêu PTBV (United
Nations, 2012).
Bài viết này nhằm thảo luận một khía cạnh khác của phát triển xanh – “cách tiếp cận xanh”, tiếp
cận dựa trên hệ sinh thái (HST) nhằm duy trì và nâng cao tính chống chịu – thích ứng của các hệ
sinh thái (HST) tự nhiên và các hệ sinh thái – xã hội trong PTBV và ứng phó với BĐKH trên thế
giới và đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay.

108


2. KHÁI QUÁT VỀ TIẾP CẬN DỰA TRÊN HỆ SINH THÁI VÀ ỨNG DỤNG

Tất cả mọi thực thể trên Trái đất đều tồn tại trong các hệ thống nhất định, bao gồm hệ xã hội, hệ
tự nhiên và bao quát lên tất cả là hệ sinh thái nhân văn/hệ sinh thái – xã hội. Hệ sinh thái – xã hội
là hệ thống phức tạp nhất và được định nghĩa khái quát là một hệ gồm cả con người và tự nhiên,
một đơn vị sinh-vật-địa và các yếu tố xã hội, thể chế kèm theo. Trong đó, tùy theo góc độ và
phạm vi nghiên cứu mà các đặc trưng khác nhau được nhấn mạnh (Trương Quang Học, 2013).
Cách tiếp cận hệ sinh thái/dựa trên hệ sinh thái (ecosystem/ecosystem based approach – EBA)
(nhấn mạnh con người là trung tâm của HST) là chiến lược do Công ước Đa dạng sinh học
(CBD) đề xuất, đầu tiên là để quản lý tổng hợp tài nguyên đất, nước và sinh vật, nhằm tăng
cường bảo vệ và sử dụng bền vững các dạng tài nguyên này một cách công bằng (MEA, 2005).
IUCN, với sự cộng tác của Ban Thư ký CBD và các tổ chức khác, đã tham gia tích cực vào quá
trình hoàn thiện chiến lược này. Trên cơ sở tổng kết các nghiên cứu trường hợp tại nhiều quốc
gia ở 4 châu lục (châu Phi, châu Á, châu Mỹ Latinh và châu Âu), IUCN đã đưa ra 10 nguyên tắc
(1996), sau đó là một quy trình gồm 12 nguyên tắc (2000), được tổ chức thành 5 bước (2004) và
hướng dẫn áp dụng cách tiếp cận này trong quản lý tài nguyên (Pirot và nnk., 2000; Smith và
Maltby, 2003; Shepherd, 2004; McLeod và Sain, 2006; Andrade Pérez và nnk., 2010).
Trong bối cảnh biến đổi toàn cầu hiện nay, nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định:

+ Phát triển bền vững thực chất là bền vững về sinh thái (Diễn đàn 4 trường đại học Đông Á –
BESETOHA, Hà Nội, 2010).
+ Tác động của BĐKH, về thực chất, là tác động lên các hợp phần của HST và lên toàn HST
nói chung.
+ Ứng phó với BĐKH về nguyên tắc cũng là các giải pháp phục hồi, duy trì tính cân bằng của
HST, làm tăng cường sức khỏe HST.
Vì vậy, cách tiếp cận liên ngành/dựa trên HST ngày càng được áp dụng rộng rãi trong ứng phó
với BĐKH và PTBV theo hướng tăng cường sức khỏe/tính chống chịu của các hệ trong hệ sinh
thái-xã hội (Hình 2.1).
3. NGHIÊN CỨU VÀ ÁP DỤNG TIẾP CẬN DỰA TRÊN HỆ SINH THÁI CHO QUẢN LÝ TÀI
NGUYÊN, PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VIỆT NAM

Tiếp cận dựa trên hệ sinh thái được bắt đầu nghiên cứu tại Việt Nam từ giữa những năm 90 của
thế kỷ XX và triển khai tại vùng bờ biển 2 tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng từ năm 2003 với sự
giúp đỡ của Cơ quan Quản lý khí quyển và Đại dương Hoa Kỳ (NOAA) và IUCN. Tiếp theo,
IUCN đã có những nghiên cứu trong lĩnh vực này, đặc biệt cho các HST đất ngập nước. IUCN đã
tổ chức nhiều hội thảo khoa học, và kết quả được tập hợp trong sách “Tổng quan về áp dụng tiếp
cận hệ sinh thái vào các khu đất ngập nước tại Việt Nam” (Shepherd và Ly Minh Đăng, 2008)…
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, ĐHQGHN đã áp dụng EBA để nghiên cứu
các nguyên nhân làm suy thoái ĐDSH ở Việt Nam (Phạm Bình Quyền và Trương Quang
Học, 1998; Alexander và nnk., 2000; Hoàng Văn Thắng, 2005; Truong Quang Hoc và nnk.,
2006, Trương Quang Học, 2008, 2010). Trương Quang Học và Võ Thanh Sơn (2004-2006) đã

109


thí điểm áp dụng EBA trong quản lý tài nguyên tại Vườn Quốc gia Cúc Phương và Khu Bảo tồn
Na Hang (Trương Quang Học và Võ Thanh Sơn, 2008)...

A


B

C

D

Nguồn: IPCC, 2007; WB, 2010; Sumi và nnk., 2011; Shah và Ranghieri, 2012.

A
B
C
D

Hình 2.1. Cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái cho quản lý tổng hợp tài nguyên,
phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu:
Mối tương tác giữa các dịch vụ hệ sinh thái và đời sống
Nâng cao tính chống chịu của hệ sinh thái-xã hội với biến đổi khí hậu
Tiếp cận xuyên ngành trong phát triển bền vững
Kinh tế xanh, con đường để phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giữa HST/dịch vụ HST với phúc lợi của con người có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Con người, một mặt, sống nhờ vào HST thông qua các dịch vụ của nó,
gồm: (i) Dịch vụ cung cấp (cung cấp các loại vật liệu, cây thuốc, thực phẩm, nước...; (ii) Dịch vụ
điều tiết (điều tiết lũ lụt, hạn hán, chống xói mòn đất, điều hòa nguồn nước, dịch bệnh…);
(iii) Dịch vụ văn hóa-tinh thần (các giá trị du lịch, giải trí, nghỉ dưỡng, nghiên cứu, giáo dục, tôn
giáo, nghệ thuật và các lợi ích phi vật chất khác; và (iv) Dịch vụ hỗ trợ (hình thành đất, duy trì
các chu trình dinh dưỡng, chu trình sinh địa hóa, dòng năng lượng…). Mặt khác, con người lại
tác động vào HST thông qua các hoạt động sinh kế trực tiếp (nguyên nhân trực tiếp) và các hoạt
động phát triển kinh tế-xã hội (nguyên nhân sâu xa/cơ bản) – tác động chính làm suy thoái các


110


HST/ĐDSH. Mối tương tác giữ con người và HST có sự thay đổi giữa/và chịu sự tác động của
các cấp: địa phương, quốc gia và quốc tế (Hình 3.1).

Nguồn: Trương Quang Học và nnk., 2006.
Hình 3.1. Mối liên quan giữa các dịch vụ hệ sinh thái và các thành tố
của cuộc sống thịnh vượng
Gần đây, trong bối cảnh BĐKH, tiếp cận dựa trên HST đã được áp dụng trong nhiều dự án thích
ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt là các dự án hợp tác với nước ngoài, theo hướng tăng cường
tính chống chịu của các khu vực (đô thị) hay lĩnh vực (cơ sở hạ tầng, nông nghiệp, y tế)... Các dự
án tiêu biểu có thể nêu ra như sau:
+ Dự án “Mạng lưới các thành phố ở châu Á có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu”
(ACCCRN) do Quỹ Rockefeller tài trợ, triển khai ở 10 thành phố của Việt Nam, Ấn Độ,
Inđônêxia và Thái Lan, hoạt động từ năm 2008, nhằm nâng cao khả năng chống chịu, thích ứng
cũng như giải quyết hậu quả của biến đổi khí hậu. Tại Việt Nam, Dự án đã có 3 giai đoạn (Giai
đoạn 1: 2008-2010, Giai đoạn 2: 2011-2012). Trong giai đoạn 1, Dự án lựa chọn 3 thành phố để
triển khai thực hiện là Đà Nẵng, Quy Nhơn và Cần Thơ (ACCCRN – Việt Nam, 2010).
+ Dự án “Tăng cường khả năng phục hồi trước tác động của BĐKH thông qua xây dựng khung
hướng dẫn thích ứng với BĐKH dựa trên hệ sinh thái tại Lào và Việt Nam” (6/2012 – tháng 6/2013)
do Viện Chiến lược, Chính sách và Tài nguyên Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) phối
hợp với Quỹ Quốc tế về Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) thực hiện, dưới sự hỗ trợ tài chính và kỹ
thuật của Ngân hàng Thế giới.

111


+ Dự án “Lồng ghép phương pháp tiếp cận dựa vào hệ sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu

vào công tác quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam”, với mục tiêu xây dựng mô hình
quy hoạch bảo tồn ĐDSH cấp tỉnh, lồng ghép với phương pháp tiếp cận dựa vào HST thích ứng
với BĐKH của Việt Nam (6/2012 đến tháng 12/2013). Cơ quan chủ trì: Bộ Tài nguyên và Môi
trường do Thụy Điển tài trợ.
+ Dự án “Tăng cường sức chống chịu của vùng ven biển tại Việt Nam, Campuchia và Thái
Lan” được triển khai tại tám tỉnh, thành của ba nước gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre, Sóc
Trăng và Kiên Giang của Việt Nam; Kampot và Koh Kong của Campuchia; Trat và Chanthaburi
của Thái Lan. Tổng kinh phí của Dự án là 3,2 triệu Euro, do Liên minh Châu Âu tài trợ. Dự án
được triển khai từ tháng 8/2011-6/2014, với mục tiêu chính là cải thiện sức chống chịu vùng ven
biển, nhằm ứng phó với tình trạng nước biển dâng, xâm nhập mặn, tăng khả năng thích ứng của
con người và hệ sinh thái đối với BĐKH, đảm bảo điều kiện sống tốt hơn cho người dân ven
biển… Tại Bến Tre, Dự án chú trọng sự lồng ghép với các dự án khác đang được triển khai trên
địa bàn, trọng tâm là xây dựng các kế hoạch ứng phó dựa trên HST, phát triển rừng ngập mặn,
chú trọng nâng cao năng lực của chính quyền địa phương đối với BĐKH.
+ Dự án “Tăng cường khả năng chống chịu biến đổi khí hậu cho cơ sở hạ tầng miền núi phía
Bắc” được thực hiện tại 16 tỉnh miền núi phía Bắc trong thời gian 4 năm (2012-2015), với tổng
số vốn ODA là 3,4 triệu USD, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Quỹ Môi trường
Toàn cầu tài trợ. Mục tiêu của Dự án là nhằm đưa ra các bài học kinh nghiệm về những giải pháp
chi phí thấp, tăng cường khả năng ứng phó BĐKH cho các công trình cơ sở hạ tầng ở các tỉnh
miền núi phía Bắc và ứng dụng rộng rãi cho các dự án tương tự.
+ Ngân hàng Thế giới đã tổng kết các kinh nghiệm tăng cường tính chống chịu để ứng phó với
thiên tai tại 3 đô thị Việt Nam (Hà Nội, Đồng Hới và Cần Thơ) trong cuốn sách “A Workbook on
Planning for Urban Resilience in the Face of Disasters: Adapting Experiences from Viet Nam’s
Cities to Other Cities” để chia sẻ toàn cầu (Shah và Ranghieri, 2012).
+ Mạng lưới BĐKH của các tổ chức phi chính phủ cũng đang có các hoạt động xây dựng các
mô hình thích ứng với BĐKH theo cách tiếp cận dựa trên HST…
+ Trong Quyết định số 1092/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ Ứng phó với biến
đổi khí hậu: Khung ma trận chính sách năm 2012 gồm 3 trụ cột, trong đó Trụ cột 1 về Thích ứng
– phát triển khả năng chống chịu với BĐKH, với các nhiệm vụ cụ thể như: Tăng cường tính
chống chịu BĐKH của cơ sở hạ tầng (Mục tiêu 4); Tăng cường tính chống chịu BĐKH của

ngành y tế (Mục tiêu 5); Tăng cường tính chống chịu BĐKH của ngành nông nghiệp và an ninh
lương thực (Mục tiêu 6)…
Theo đó, nhiều hội nghị, hội thảo, khóa tập huấn đã được tổ chức:
+ Hội thảo “Tiếp cận hệ sinh thái vùng trong quản lý vùng bờ Quảng Ninh – Hải Phòng” do
Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) và UBND
TP. Hải Phòng phối hợp tổ chức tại TP. Hải Phòng (ngày 24/5/2010).
+ Hội thảo khởi động Dự án “Xây dựng khung hướng dẫn kỹ thuật: Thích ứng với BĐKH dựa
vào HST ở Lào và Việt Nam”, do Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường
(ISPONRE) đã phối hợp với các bên liên quan tổ chức tại Hà Nội (ngày 14/8/2012).

112


+ Diễn đàn khu vực đầu tiên về chủ đề “Xây dựng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu
cho vùng ven biển” tại Trường Đại học Burapha, tỉnh Chanthaburi, Thái Lan do Tổ chức Bảo tồn
Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), phối hợp với Quỹ Phát triển Bền vững, Tổng cục Biển và Hải đảo
Việt Nam, Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức, Quỹ Nghiên cứu Thái Lan, Đài Truyền hình Thái PBS
và Đại học Burapha (Thái Lan) tổ chức (28/2 – 2/3/2012).
+ Khóa đào tạo các tập huấn viên trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường sức chống chịu với biến
đổi khí hậu của vùng ven biển Đông Nam Á ở 5 tỉnh trọng điểm thuộc khu vực đồng bằng sông
Cửu Long” do IUCN tổ chức (4-6/4/2012).
+ Hội thảo quốc gia “Nâng cao tính chống chịu trước biến đổi khí hậu” do Trung tâm Nghiên
cứu Tài nguyên và Môi trường và Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ninh tổ chức, 2012.
+ Hội thảo “Áp dụng quy hoạch không gian biển và vùng bờ biển tại Việt Nam – Cách tiếp cận
quản lý dựa trên hệ sinh thái” diễn ra trong 2 ngày 30-31/5/2013 tại Hải Phòng do Bộ Tài nguyên
và Môi trường và TP. Hải Phòng tổ chức. Đây là diễn đàn đầu tiên trong khuôn khổ chương trình
“Rừng ngập mặn cho tương lai” do IUCN tại Việt Nam điều phối, thảo luận về việc áp dụng quy
hoạch không gian biển tại Việt Nam.
+ Hội thảo vùng “Khuynh hướng tiếp cận dựa trên hệ sinh thái trong lập kế hoạch bảo tồn
ĐDSH ứng phó với BĐKH” do Ngân hàng Phát triển Châu Á, Bộ Tài nguyên và Môi trường,

Quỹ Bảo tồn Động vật Hoang dã và SIDA đồng tổ chức tại Hà Nội, 15-16/10/2013…
Giải pháp thích ứng với BĐKH dựa vào HST đáp ứng được các vấn đề ưu tiên quốc gia – phát
triển kinh tế bền vững, xóa đói giảm nghèo, bảo tồn ĐDSH.
Như vậy, có thể thấy rằng, chúng ta đã nghiên cứu và triển khai ứng dụng cách tiếp cận HST
trong thực tế từ lâu. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn hạn chế, chỉ dừng lại trong khuôn
khổ những đề tài/dự án, giới hạn trong từng hợp phần của hệ, những hệ thành phần, mà chưa có
những nghiên cứu tổng thể cho toàn hệ thống, nhất là hệ sinh thái – xã hội. Điều này có thể do
mấy lý do:
+ Nghiên cứu về sinh thái học nói chung và HST nói riêng ở Việt Nam còn mỏng.
+ Cách tiếp cận liên ngành/xuyên ngành trong tất cả các khâu của hệ thống quản lý Nhà nước,
từ hoạch định chính sách, đến tổ chức thực hiện, giám sát đánh giá, còn chưa được quán triệt đi
vào cuộc sống.
+ Những hạn chế khác về mặt nhận thức và đầu tư tài chính…
4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái đã được phát triển từ những năm 90. Lúc đầu, chỉ nhằm mục
đích phục vụ cho quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo tồn ĐDSH, sau đó được áp dụng rộng rãi cho
PTBV và hiện nay cho ứng phó với BĐKH, theo nguyên tắc xây dựng/tăng cường tính chống
chịu-thích ứng của các hệ sinh thái – xã hội.
Ở Việt Nam, cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái được bắt đầu nghiên cứu và triển khai khá sớm
trong quản lý tài nguyên và hiện nay đang là cách tiếp cận được thử nghiệm trong nhiều chương
trình, dự án thích ứng với BĐKH. Tính chống chịu và thích ứng với BĐKH, đây đó đã được xây

113


dựng, nhưng mới chỉ giới hạn ở từng khía cạnh, từng bộ phận, từng hợp phần của các hệ thống,
mà chưa có cách nhìn và cách làm tổng thể, liên ngành, cho toàn hệ thống và ở các cấp.
Để có thể áp dụng hiệu quả hơn cách tiếp cận này trong thực tế, có một số khuyến nghị như sau:
+ Tăng cường nghiên cứu và đào tạo về sinh thái học theo nghĩa: hệ sinh thái vừa là đối tượng

nghiên cứu (cấu trúc, chức năng, dịch vụ, các chu trình sinh-địa-hóa, dòng năng lượng, diễn thể,
tính chống chịu, tính thích ứng), vừa là cách tiếp cận khoa học (ecosystem-based approach) vừa
là giải pháp (ecological engineering solutions) để giải quyết vấn đề, như là các giải pháp chủ đạo
trong nhóm giải pháp phi công trình, mang tính chiến lược. Trong đó, chú ý các vấn đề có thể
tích hợp cao và xuyên suốt (dịch vụ HST, tính chống chịu – thích ứng (adaptive-resisiliance),
kinh tế sinh thái…) của các hệ thống, bao gồm HST tự nhiên và đặc biệt là hệ sinh thái – xã hội
và các giải pháp tổng hợp để duy trì và tăng cường nó trong từng điều kiện cụ thể.
+ Đấy mạnh công tác nghiên cứu và triển khai khoa học – công nghệ để xây dựng cơ sở khoa
học cho quá trình hoạch định và thực thi các thể chế chính sách.
+ Ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực trong hai lĩnh vực mới: BĐKH và Khoa học bền vững, đảm
bảo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ ứng phó với BĐKH và PTBV.
+ Xây dựng cơ sở khoa học và quy trình kỹ thuật hướng dẫn triển khai cách tiếp cận HST trong
thực tế ở các cấp, các lĩnh vực và tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

ACCCRN – Việt Nam, 2010. Dự án Mạng lưới các thành phố châu Á có khả năng chống
chịu với biến đổi khí hậu ACCCRN – Việt Nam. Hà Nội.

2.

Alexander W., P. Stedman-Edwards and J. Mang, 2000. The Root Causes of Biodiversity
Loss. Earthscan Publication Ltd, London and Sterling, VA.

3.

Andrade Pérez A., B. Herrera Fernández and R. Cazzolla Gatti (Eds.), 2010. Building
Resilience to Climate Change: Ecosystem-based Adaptation and Lessons from the Field.
IUCN. Grand, Switzerland.


4.

Chính phủ, 2011. Quyết định số 2139/QĐ-TTg, ngày 05/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu.

5.

Chính phủ, 2012a. Quyết định số 432/QĐ-TTg, ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

6.

Chính phủ, 2012b. Quyết định số 1092/QĐ-TTg, ngày 16/8/2012 về phê duyệt Chương trình
hỗ trợ Ứng phó với biến đổi khí hậu: Khung ma trận chính sách năm 2012.

7.

Chính phủ, 2012c. Quyết định số 1393/QĐ-TTg, ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Chiến lược Tăng trưởng xanh.

8.

Truong Quang Hoc, 2008. Linkage between Biodiversity and Climate Change in Viet Nam.
In: Proceedings, The 2nd Viet Nam – Japan Symposium on Climate Change and the
Sustainability, 11/2008. Viet Nam National University Press, Ha Noi: pp. 53-58.

114



9.

Trương Quang Học, 2010. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến đa dạng sinh học của Việt
Nam. Kỷ yếu Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ III. Hà Nội.

10. Trương Quang Học, 2013. Cơ sở sinh thái học cho phát triển bền vững và ứng phó với biến
đổi khí hậu. Trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Năng cao sức chống chịu trước
biến đổi khí hậu”. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường. NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội: tr. 3-24.
11. Truong Quang Hoc et al., 2006. Biodiversity – Human Wellbeing Linkage (a Case Study in
DaKrong District, Quang Tri Province, Viet Nam). The International Workshop on
Biodiversity – Human Wellbeing Linkage, Costa Rica (lecture).
12. Trương Quang Học và Võ Thanh Sơn, 2008. Tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý tài nguyên
thiên nhiên. Trong: Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Tuyển tập các công trình
khoa học và Kỷ niệm 20 năm thành lập VACNE 1988-2008. NXB Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội.
13. IPCC, 2007. Báo cáo đánh giá lần 4 của UBLCPVBĐKH: Nhóm I: Khoa học vật lý về biến
đổi khí hậu, Nhóm II: Tác động, thích ứng và khả năng bị tổn thương, Nhóm III: Giảm nhẹ
biến đổi khí hậu.
14. Millennium Ecosystem Assessement (MEA), 2005. Ecosystems and Human Well-being.
MEA, Malaysia and United States.
15. McLeod E. and R.V. Sain, 2006. Managing Mangroves for Resilience to Climate Change.
The Nature Conservancy, IUCN.
16. Pirot J.-Y., P.J. Meynell and D. Elder (Eds.), 2000. Ecosystem Management: Lessons from
Around the World. A Guide for Developement and Conservation Practionners. IUCN.
Grand, Switzerland and Cambridge, UK.
17. Phạm Bình Quyền và Trương Quang Học, 1998. Nghiên cứu những nguyên nhân sâu xa về
kinh tế-xã hội của sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam. Trong: Tuyển tập các báo cáo
tại Hội nghị Môi trường toàn quốc năm 1998. Tr. 1079-1098.
18. Shah F. and F. Ranghieri, 2012. A Workbook on Planning for Urban Resilience in the Face

of Disasters: Adapting Experiences from Viet Nam’s Cities to Other Cities. The World
Bank.
19. Shepherd G., 2004. Tiếp cận hệ sinh thái: Năm bước thực hiện. Ấn phẩm về quản lý hệ sinh
thái. Số 3. IUCN.
20. Shepherd G. và Ly Minh Đăng (Biên tập), 2008. Tổng quan về áp dụng tiếp cận hệ sinh thái
vào các khu đất ngập nước tại Việt Nam. IUCN.
21. Smith A.D. and E. Maltby, 2003. Using the Ecosystem Approach to Implement the
Convention on Biological Diversity: Key Issues and Case Studies. Ecosystem Management
Series No.2. IUCN – The World Conservation Union.
22. Sumi A., N. Mimura and T. Masui, 2011. Climate Change and Global Sustainability: A
Hoclistic Approach. UN University Press. Tokyo – New York – Paris.

115


23. Hoàng Văn Thắng, 2005. Đa dạng sinh học, các chức năng chính và một số nhân tố tác động
lên hệ sinh thái đất ngập nước khu vực Bàu Sấu, Vườn Quốc gia Cát Tiên. Luận án Tiến sĩ.
Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. United Nations, 2012. The Future We Want: Outcome Documents Adopted at RIO+20.
Http://www.un.org/en/sustainablefuture.
25. WB, 2010. Convenient Solution to an Inconvenient Truth: Ecosystem-Based Approaches to
Climate Change. The World Bank.

Abstract
RESEARCH AND DEVELOPMENT
OF ECOSYSTEM-BASED APPROACH IN VIET NAM
Truong Quang Hoc
Centre for Natural Resources and Environmental Studies, VNU

Ecosystem approach/ecosystem-based approach (proposed by the Convention on

Biodiversity in 1995), was initiated as a strategy for the integrated management of natural
resources (land, water and living organisms) and it has been widely adopted for
sustainable development in the context of climate change. In Viet Nam, the ecosystembased approach has been studied and implemented since the late 90s, and employed in the
conservation of biodiversity/natural resources. Recently, this approach has been
implemented in the field of integrated management of natural resources and adapted to
climate change as well as in the process of policy formulation and implementation in
practice. Although the initial results have been achieved, there are still difficulties and
challenges that need to be further studied in order to widely apply this to sustainable
development in the context of current climate change.

116



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×