Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.75 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VI N HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN KIM PHỤNG

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH Ở CẤP XÃ TRÊN ĐỊA
BÀN HUY N PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VI N HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN KIM PHỤNG

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH Ở CẤP XÃ TRÊN ĐỊA
BÀN HUY N PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 7 năm
2017
Ngƣời cam đoan

Trần Kim Phụng

2


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa
học PGS.TS. Lê Thị Hương đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến
khoa học cho tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính
Quốc gia, các thầy, cô trong Khoa Sau đại học cùng toàn thể các thầy, cô giáo
của Học viện đã nhiệt tình giảng dạy và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
nhiệm vụ học tập của mình.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất cả các thầy, cô

giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Sự giúp đỡ của thầy, cô giáo, gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên quý báu cho tôi hoàn thành luận
văn này!
TP. Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 7 năm 2017
Học viên

Trần Kim Phụng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ QUẢN LÝ
NHÀ NUỚC VỀ HỘ TỊCH Ở CẤP XÃ

7

1.1. Nhận thức chung quản lý nhà nước về hộ tịch

7

1.1.1. Khái niệm hộ tịch, đăng ký hộ tịch

7

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quản lý nhà nước về hộ tịch


11

1.2. Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã

16

1.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã về hộ

16

tịch

17

1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã

20

1.2.3. Vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã

23

1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp

23



25


1.3.1. Sự hoàn thiện của pháp luật về công tác hộ tịch
1.3.2. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về hộ tịch ở cấp xã

25

1.3.3. Năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ công
chức làm công tác hộ tịch ở cấp xã

27

1.3.4. Trình độ dân trí, ý thức chấp hành pháp luật của các cá

28

nhân, tổ chức nhận thức của cộng đồng dân cư về hộ tịch
1.3.5 Ảnh hưởng của phong tục tập quán, hương ước, quy ước

30

1.3.6. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, sự phối hợp giữa các ngành,
các cấp, các cơ quan trong quản lý nhà nước về hộ tịch
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HỘ TỊCH VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH Ở CẤP XÃ TRÊN

32


ĐỊA BÀN HUY N PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG

32


2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp

32

xã trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và dân số của huyện Phú Quốc

33

2.1.2. Tổ chức bộ máy và nhân sự làm công tác hộ tịch ở cấp xã
trên địa bàn huyện Phú Quốc

35

2.2. Tình hình quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn
huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang

35

2.2.1. Về ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành
văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch

38

2.2.2. Về xây dựng và tổ chức thi hành các chính sách, kế hoạch,

42

định hướng về hộ tịch

2.2.3. Về thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch

45

2.2.4. Về thực hiện đăng ký hộ tịch và quản lý dữ liệu hộ tịch,
sổ sách hộ tịch

49

2.2.5. Về quản lý hệ thống tổ chức và hoạt động của các bộ phận
cán bộ, công chức trong công tác hộ tịch

51

2.2.6. Về đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ
về hộ tịch

55

2.2.7. Về thực hiện kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi
phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hộ tịch

57

2.3. Những ưu điểm và hạn chế của quản lý nhà nước về hộ tịch

57

ở cấp xã trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang


61

2.3.1. Những ưu điểm và nguyên nhân của ưu điểm
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƢỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH Ở CẤP XÃ

71


TRÊN ĐỊA BÀN HUY N PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN

71

GIANG

72

3.1. Phương hướng tăng cường quản lý nhà nước về hộ tịch ở

73

cấp xã trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
3.1.1. Đối với UBND huyện

74

3.1.2. Đối với Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã


74

trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
3.2.1. Tăng cường sự chỉ đạo của Đảng ủy xã đối với Ủy ban

77

nhân dân xã về công tác hộ tịch

80

3.2.2. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý nhà
nước về hộ tịch tại cấp xã
3.2.3. Cải tiến phương thức quản lý hộ tịch

82

3.2.4. Củng cố, kiện toàn tổ chức và năng cao nâng lực, phẩm
chất đạo đức của công chức làm công tác Tư pháp - Hộ tịch tại
Ủy ban nhân dân cấp xã

86

3.2.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác
hộ tịch của Ủy ban nhân dân xã và có chế độ đãi ngộ, khen

89

thưởng đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã
3.2.6. Xây dựng môi trường làm việc, tạo điều kiện và động lực

cho cán bộ Tư pháp - Hộ tịch phát huy năng lực công tác

91

3.2.7. Tăng cường sự kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn,
nghiệp vụ của Phòng Tư pháp huyện kết hợp với thực hiện tốt
công tác tự kiểm tra và chế độ thông tin, báo cáo, thống kê, định

93

kỳ sơ kết, tổng kết

96

3.2.8. Tăng cường sự phối hợp giữa UBND cấp xã với các cơ

98

quan, tổ chức, đoàn thể quần chúng tại địa phương trong quản lý


nhà nước về hộ tịch
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LI U THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự đổi mới đất nước cùng với tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
đã đặt ra yêu cầu to lớn và cấp bách về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đáp ứng yêu cầu của xã hội
hiện đại, trong đó có quản lý nhà nước về hộ tịch.
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản trong đời sống một con người như:
Sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc tịch...
Một trong những nội dung liên quan đến hoạt động quản lý con người là công
tác quản lý hộ tịch. Con người là nhân tố trung tâm của mọi quan hệ xã hội, là
chủ thể quan trọng và quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Chính vì vậy, vấn đề đầu tiên của xã hội là quản lý con người.
Việc đăng ký và quản lý hộ tịch là quyền và nghĩa vụ của mỗi người
được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật về hộ tịch quy định. Những
sự kiện hộ tịch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận bằng văn bản
và ghi vào Sổ hộ tịch. Những giấy tờ, hộ tịch đã được xác nhận và được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ghi nhận nhằm để cá biệt hoá một công dân,
đây là những chứng cứ pháp lý trong các trường hợp cần thiết. Mặt khác việc
đăng ký hộ tịch giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý
dân số, là cơ sở khoa học để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội, quốc phòng và trật tự, an toàn xã hội.
Nhận thức được vị trí và vai trò quan trọng của việc thực hiện pháp luật
về hộ tịch nên trong những năm qua, kể từ khi thực hiện Nghị định
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ
tịch cũng như Luật Hộ tịch năm 2014 và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch cùng với Thông
1


tư số 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch
và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch... Đây chính là cơ sở
pháp lý để công dân thực hiện các quyền nhân thân và Nhà nước thực hiện sự
quản lý đối với công dân.

Có thể nói, từ khi có các văn bản quy phạm pháp luật nói trên, công tác
đăng ký và quản lý hộ tịch đã đạt được một số kết quả bước đầu, từng bước
ổn định và đi vào nề nếp. Người dân đã nhận thức tầm quan trọng của giấy tờ
hộ tịch nên không tùy tiện sữa chữa, thêm, bớt, tự giác đi đăng ký các sự kiện
hộ tịch theo quy định của pháp luật. Không còn tình trạng "sinh không khai,
tử không báo" như trước đây.
Thực tế cho thấy, cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước, quản
lý nhà nước về hộ tịch ở huyện đảo Phú Quốc vẫn còn một số tồn tại, bất cập
chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính và cải cải cách tư pháp trong
giai đoạn mới. Tình trạng cơ quan, tổ chức, đoàn thể chưa xác định đúng giá
trị pháp lý của giấy tờ hộ tịch, về thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về hộ
tịch, còn gây nhiều khó khăn cho công dân. Thực trạng trên có nguyên nhân
xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ quy định của pháp luật về đăng ký và
quản lý hộ tịch của một bộ phận cán bộ, công chức và nhân dân; sự phối hợp
thiếu nhịp nhàng giữa các cơ quan hữu quan trong việc giải quyết những sai
sót trong hồ sơ, giấy tờ cá nhân; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật, trợ giúp pháp lý về đăng ký và quản lý hộ tịch chưa thực sự sâu
rộng; năng lực của một số công chức còn hạn chế...
Đó là lý do đề tài “Quản lý nhà nước về Hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn
huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang” được tác giả lựa chọn để làm luận văn tốt
nghiệp cao học chuyên ngành Quản lý Công.
2. Tình hình nghiên cứu

2


Đề tài hộ tịch đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà khoa học,
những người làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác
nhau. Cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hộ tịch
của cá nhân, tập thể được công bố. Cụ thể là:

- Nguyễn Lan Hương, Nguyễn Hữu Lạc: Tập bài giảng Quản lý nhà
nước về trật tự xã hội,Khoa Luật Đại học Cần Thơ, 2007;
- Ths. Phạm Trọng Cường: Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch, Nxb. Tư
Pháp, Hà Nội, 2007;
- Ths. Phạm Trọng Cường: Về quản lý hộ tịch, NXB. Chính trị quốc gia,
2004;
- Giáo trình“ Hành chính công” – dùng cho nghiên cứu học tập và giảng
dạy sau đại học” của Học viện hành chính quốc gia (2006), Nxb Khoa học và
kỹ thuật, Hà Nội;
- Giáo trình “Quản lý hành chính – Tư pháp” của Học viện hành chính,
nhà xuất bản khoa học kỹ thuật năm 2008;
- Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp: Bảo vệ quyền trẻ em
trong pháp luật về quốc tịch và đăng ký hộ tịch ở Việt Nam, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000;
- Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp: Chuyên đề thông tin
khoa học pháp lý về hộ tịch, Hà Nội, 1995;
- Nguyễn Thị Hồng Liên: Quản lý hộ tịch ở thành phố Hồ Chí Minh,
luận văn thạc sĩ luật học, 1996;
- Lê Thị Hoàng Yến: Đăng ký hộ tịch thực tiễn và hướng hoàn thiện,
Luận văn thạc sĩ luật học, 2002;
- Tổng cục Thống kê: Một số kết quả về dự án cải tiến đăng ký hộ tịch và
thống kê dân số, NXB. Thống kê, 1989;

3


- Bài “Nâng cao năng lực đội ngũ công chức Tư pháp – hộ tịch trong
giai đoạn hiện nay”, Tác giả Trần Văn Quảng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
tháng 9 năm 2006;
- Số chuyên đề về “Công chứng, hộ tịch và quốc tịch:, phần 2 hộ tịch và

quốc tịch", Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2007;
- Bài “Tư pháp Hà Nội không khó khăn mà từ chối đăng ký khai sinh”,
tác giả Đàm Thị Kim Hạnh, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 03 năm
2008;
- Chuyên đề “Quản lý hành chính – Tư pháp” trong chương trình bồi
dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính;
- Chuyên đề “Hôn nhân biên giới và những vướng mắc trong thủ tục
đăng ký kết hôn”, tác giả Phạm Trọng Cường, Tập san Biên giới và lãnh thổ,
số 9 (tháng 4-2001);
Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên ngành như
“Quản lý nhà nước”, “Tổ chức nhà nước”, “Cải cách nền hành chính nhà
nước” về vấn đề hộ tịch và đăng ký hộ tịch.
Nhìn chung các công trình nêu trên đã đi sâu nghiên cứu làm rõ bản
chất, nội dung, lịch sử quản lý hộ tịch, các sự kiện, phương thức quản lý và
đăng ký hộ tịch. Các tác giả cũng chỉ ra các phương hướng và giải pháp nhất
định nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu trên chỉ đưa ra các giải pháp chung và nghiên cứu ở các
lĩnh vực, các địa phương khác nhau mà chưa đi sâu nghiên cứu thực tiễn quản
lý hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn

4


Mục đích của luận văn là đề xuất những giải pháp góp phần tăng cường
quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện Phú Quốc trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được những mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ

sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp
xã.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã
trên địa bàn huyện Phú Quốc trong thời gian qua; rút ra nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về hộ tịch
của UBND xã, thị trấn trên địa bàn huyện Phú Quốc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý nhà nước về Hộ tịch tại xã, thị trấn trên địa bàn huyện
Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch tại 10 ủy ban nhân dân xã, thị
trấn trên địa bàn huyện Phú Quốc trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến hết
năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5


5.1. Phương pháp luận: Đề tài dựa trên quan điểm và phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, một số văn kiện của Đảng, văn bản quản lý nhà
nước ở Trung ương và địa phương về công tác hộ tịch.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, khảo sát,
so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận quản lý nhà nước về hộ tịch thông qua các nội
dung: khái niệm, đặc điểm, vai trò cũng như nội dung của quản lý nhà nước

về hộ tịch ở cấp xã. Đồng thời chỉ ra các yếu tố tác động đến quản lý nhà
nước về hộ tịch ở cấp xã.
- Mô tả thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn
huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang với những nhận xét xác đáng về ưu điểm
cũng như những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế. Trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên
địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và
giảng dạy tại các cơ sở đào tạo Luật học và Quản lý nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã
Chương 2: Thực trạng công tác hộ tịch và quản lý nhà nước về hộ tịch ở
cấp xã trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về hộ
tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ HỘ TỊCH Ở CẤP XÃ
1.1. NHẬN THỨC CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH

1.1.1. Khái niệm hộ tịch, đăng ký hộ tịch
Hộ tịch là những sự kiện được quy định xác định tình trạng nhân thân
của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Đây là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên của chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và biến
động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân
và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội,

an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình. Công tác quản lý hộ
tịch là một tổng thể của nhiều công việc như tuyên truyền giáo dục pháp luật
về hộ tịch, tổ chức đăng ký hộ tịch, báo cáo thống kê tăng, giảm dân số, kiểm
tra, xử lý vi phạm về đăng ký hộ tịch. Các công việc nêu trên phải được tiến
hành thường xuyên tại cơ sở nhằm bảo đảm kịp thời, chính xác đồng thời phải
thuận tiện, tránh gây phiền hà cho dân.
Theo quan niệm truyền thống: Đăng ký hộ tịch là việc ghi chép vào Sổ
các sự kiện về việc hộ tịch của các hộ lại nhằm quản lý việc biến động tự
nhiên, biến động xã hội của các sự kiện đó, trên cơ sở đó xác định nghĩa vụ
đối với Nhà nước như đóng thuế, nghĩa vụ nô dịch, quân dịch ...
Theo quan niệm hiện tại: Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, thay đổi họ,
tên, xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và các sự kiện khác theo quy định của
pháp luật về hộ tịch.
Theo điều 3, Luật Hộ tịch năm 2014 (Luật này thay thế cho Nghị định
số 158 ngày 27/12/2005) quy định:

7


“1. Hộ tịch là những sự kiện được quy định, xác định tình trạng nhân
thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết.
2. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận
hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để
Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về
dân cư”.
Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và quyền nhân thân của
con người được Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định
để xác định sự kiện hộ tịch như: quyền có họ tên; quyền thay đổi họ; quyền
thay đổi tên; quyền xác định, xác định lại dân tộc; quyền được khai sinh; khai

tử; quyền được kết hôn, ly hôn; quyền đối với quốc tịch…
Như vậy, Luật Hộ tịch năm 2014 đã sử dụng phương pháp mô tả để
phản ánh đầy đủ, toàn diện khái niệm đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, về mặt kỹ
thuật, trong khái niệm đăng ký hộ tịch, chữ “tịch” đã có giá trị biểu đạt tương
đương với “đăng ký”. Chữ “tịch” có nghĩa là “sổ sách đăng ký quan hệ lệ
thuộc”[13, tr.100]. Điều này tạo nên sự trùng lặp về ý nghĩa khi giải thích
khái niệm. Đây là một nét đặc trưng của việc sử dụng ngôn ngữ Hán - Việt.
Hạn chế có thể được khắc phục nếu thay thế khái niệm đăng ký hộ tịch bằng
khái niệm thuần Việt“đăng ký tình trạng dân sự”. Tuy nhiên đây là khái niệm
xa lạ với người dân, do đó, việc sử dụng khái niệm thay thế “đăng ký tình
trạng dân sự” mặc dù có thể đạt được sự chặt chẽ về mặt học thuật nhưng lại
hoàn toàn không có tính đại chúng, hạn chế khả năng phổ biến trong đời sống
xã hội.
Như vậy, sự kết hợp giữa khái niệm “hộ tịch” (mà đúng hơn là sự kiện
“hộ tịch”) và “đăng ký hộ tịch” mới có thể mang lại cách hiểu đầy đủ về khái
niệm “hộ tịch”, vì khái niệm “hộ tịch là những sự kiện được quy định, xác định
tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết” là một khái

8


niệm “mở”, theo đó, chỉ có thể hiểu “những sự kiện được quy định, xác định tình
trạng nhân thân của một người” là những sự kiện nào khi viện dẫn tới định
nghĩa về “đăng ký hộ tịch”.
Khi định nghĩa hành vi đăng ký hộ tịch, Luật Hộ tịch năm 2014 đồng
thời đã phân biệt thành 4 nhóm hành vi với tính chất khác nhau rõ ràng:
- Hành vi xác nhận vào Sổ Hộ tịch các sự kiện hộ tịch: khai sinh; kết
hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch; xác định lại dân
tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; khai tử. Đối với các sự kiện hộ tịch trên, cơ
quan đăng ký hộ tịch xác nhận bằng cách đăng ký vào Sổ hộ tịch dành riêng

cho từng loại việc đồng thời cấp giấy chứng nhận về việc đó cho đương sự
(như Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn). Hành vi xác nhận của cơ
quan đăng ký hộ tịch đã làm phát sinh hiệu lực pháp lý của các sự kiện được
đăng ký. Chỉ sau khi đăng ký, các sự kiện đó mới làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của cá nhân.
- Hành vi ghi (ghi chú) vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân
theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: thay đổi quốc
tịch; xác định cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt
việc nuôi con nuôi; ly hôn, huỷ việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết
hôn; công nhận giám hộ; Tuyên bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã
chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Khác với hành vi xác
nhận, đối với các loại việc hộ tịch này, cơ quan đăng ký hộ tịch chỉ đơn thuần
căn cứ quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi chú việc đó vào
Sổ hộ tịch. Điểm phân biệt cơ bản giữa hành vi này với nhóm hành vi thứ
nhất là nó không làm phát sinh hiệu lực pháp lý, bởi vì bản thân các quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã đem lại hiệu lực pháp lý cho các
việc đó.

9


- Hành vi ghi (ghi chú) vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly
hôn; hủy việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con;
nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải
quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Hành vi này khác với nhóm
hành vi thứ hai là nó công nhận các sự kiện hộ tịch của công dân Việt Nam đã
được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
- Hành vi xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo
quy định của pháp luật.
Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận, ghi

vào Sổ các sự kiện hộ tịch của cá nhân nhằm xác định tình trạng nhân thân
của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân và thực hiện quản lý về dân cư, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Đăng ký, quản lý hộ tịch là việc Nhà nước ghi nhận những sự kiện
quan trọng của một đời người từ khi sinh ra đến khi mất đi và có trách nhiệm
bảo hộ các quyền nhân thân của cá nhân gắn liền với các sự kiện đó. Trải qua
nhiều giai đoạn với những phương pháp và cách thức khác nhau, Nhà nước ta
đã ban hành, thay thế, sửa đổi và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về
hộ tịch phù hợp và đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ở mỗi thời
điểm, thể hiện rõ quan điểm, mục đích và những quy định cụ thể về đăng ký
và quản lý hộ tịch.
Đăng ký và quản lý hộ tịch có ý nghĩa quan trọng để Nhà nước thực
hiện quản lý dân cư và quản lý các mặt kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh
đồng thời tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước công nhận và bảo hộ các quyền nhân
thân phi tài sản và quyền nhân thân gắn liền với tài sản của cá nhân.
Ở nước ta, việc đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử lâu đời từ thời
phong kiến nhà Trần và các triều đại phong kiến tiếp theo. Tuy nhiên, việc
10


quản lý hộ tịch được thực hiện một cách đầy đủ, khoa học chỉ được bắt đầu từ
thời kỳ Pháp thuộc. Điểm nổi bật trong hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch
của thời kỳ Pháp thuộc là có một đội ngũ hương chức chuyên làm công tác hộ
tịch, gọi là Hộ lại. Hộ lại là người nắm giữ sổ sách hộ tịch và trực tiếp đăng
ký các việc hộ tịch trong địa bàn cấp xã do mình phụ trách. Vì việc quản lý hộ
tịch đòi hỏi phải nắm rất kỹ từng người dân, từng gia đình nên chức danh Hộ
lại được bổ nhiệm suốt đời (trừ phi bị truất chức do vi phạm), thậm chí được
khuyến khích “cha truyền con nối”. Điểm nổi bật thứ hai trong quản lý hộ tịch
thời Pháp thuộc là có hệ thống sổ sách hộ tịch (gọi là “sổ bộ”) đầy đủ, khoa

học và được bảo quản rất cẩn thận. Hiện nay, một số sổ sách hộ tịch thời Pháp
thuộc vẫn còn được lưu giữ tại các thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố
Hồ Chí Minh, Cần Thơ.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quản lý nhà nƣớc về hộ tịch
Quản lý là một khái niệm được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Theo
sách "Gốc và Nghĩa từ Việt thông dụng", quản lý là "trông nom, sửa sang,
sắp đặt công việc", trong đó "quản" là "coi sóc công việc", "lý" là "sửa sang,
sắp đặt công việc".
Theo quan niệm của điều khiển học, quản lý là "điều khiển, chỉ đạo một
hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên
tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của
người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước".[18, tr.100].
Quản lý trong xã hội nói chung là quá trình tổ chức điều hành các hoạt
động nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên những quy
luật khách quan.
Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy. Có tổ chức thì mới
phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của những
người tham gia hoạt động chung. Có quyền uy thì mới đảm bảo sự phục tùng

11


của cá nhân đối với tổ chức. Quyền uy là phương tiện quan trọng để chủ thể
quản lý điều khiển, chỉ đạo cũng như bắt buộc các đối tượng quản lý thực
hiện các yêu cầu, mệnh lệnh của mình.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của
cả bộ máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực
nhà nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách
hiểu này, quản lý nhà nước được đặt trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân lao động làm chủ”.

Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều
hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục
tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan quản lý nhà
nước nói chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều
hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng
cố chế độ công tác nội bộ của mình. Chẳng hạn ra quyết định thành lập, chia
tách, sát nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen
thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ ... Quản
lý nhà nước theo nghĩa hẹp này còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành
chính nhà nước.
Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động quản lý con người, hoạt
động quản lý hộ tịch hướng đến đối tượng quản lý là các đặc điểm nhân thân
làm nên căn cước của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, các yếu tố thuộc về căn cước
của mỗi người rất phong phú và là đối tượng quản lý của rất nhiều hoạt động
khác nhau. Do đó cần phân biệt đối tượng của quản lý hộ tịch với đối tượng
quản lý của một số hoạt động quản lý thuộc phạm trù quản lý căn cước con
người như: quản lý hộ khẩu, quản lý lý lịch tư pháp, quản lý chứng minh nhân
dân…

12


Căn cước của mỗi cá nhân được hình thành từ rất nhiều đặc điểm
nhân thân gắn liền với cá nhân như: họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính,
dân tộc, quốc tịch, quê quán, nơi sinh, nơi cư trú, các mối quan hệ gia đình,
quan hệ hôn nhân, năng lực hành vi dân sự, tình trạng tiền án tiền sự,… Tất cả
các dấu hiệu đặc trưng đó bảo đảm cho việc phân biệt chính xác một cá nhân
này với một các nhân khác.
Quản lý hộ tịch là một trong những hoạt động của quản lý nhà nước, do

các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm theo dõi
thực trạng và những biến động về hộ tịch và những biến động về dân cư trong
đời sống xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo cơ sở
khoa học để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng và trật tự an toàn xã hội, hoạch định chính sách dân số và kế hoạch hoá
gia đình.
Là một nội dung trong quản lý hành chính nhà nước về hành chính – tư
pháp, quản lý nhà nước về hộ tịch tập trung chủ yếu vào các hoạt động: ban
hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyên ban hành văn bản quy định pháp luật
về hộ tịch; xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách, kế hoạch, định
hướng về hoạt động hộ tịch; quản lý hệ thống tổ chức và hoạt động của các
cơ quan, tổ chức trong hoạt động hộ tịch; đào tạo, bồi dưỡng hướng dẫn
nghiệp vụ về đăng ký hộ tịch; kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm;
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động đăng ký hộ tịch; bảo đảm kinh phí
cơ sở vật chất, phương tiện cho một số hoạt động hộ tịch; tổng kết hoạt động
hộ tịch; báo cáo cơ quan nhà nước cấp trên về hoạt động đăng ký hộ tịch.
Như vậy, có thể hiểu: Quản lý nhà nước về hộ tịch là một hình thức
hoạt động của nhà nước, do các chủ thể có thẩm quyền (trước hết và chủ yếu
là các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền) thực hiện trên cơ
sở pháp luật và để thi hành pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch, góp phần bảo

13


đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, phục vụ cho công cuộc phát
triển kinh tế xã hội.
Quản lý nhà nước về hộ tịch có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước.
Tính quyền lực nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước đối với hộ

tịch trước hết thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà
nước thông qua phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc
biệt quan trọng được sử dụng là văn bản quản lý hộ tịch.
Bằng việc ban hành văn bản, chủ thể quản lý hộ tịch thể hiện ý chí của
mình dưới dạng các hoạt động áp dụng pháp luật; dưới dạng các mệnh lệnh cá
biệt nhằm áp dụng pháp luật vào thực tiễn, trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa
vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý; dưới những dạng mệnh lệnh chỉ đạo
trong hoạt động, nhằm tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn; dưới dạng
những thông tin hướng dẫn người dân để thực hiện việc đăng ký hộ tịch thông
qua hệ thống bộ máy quản lý hộ tịch của nhà nước.
Bên cạnh đó, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có
thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết bảo đảm thể hiện ý chí của
nhà nước, như các biện pháp tổ chức, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục, hòa
giải... Chính những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức
mạnh nhà nước, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước, nhờ đó ý chí của
các chủ thể quản lý hộ tịch được đảm bảo thực hiện.
Thứ hai, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động được tiến hành bởi
các chủ thể có quyền năng hành pháp là các công chức trong bộ máy nhà
nước.
Chủ thể chủ yếu thực hiện quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch là
các cơ quan quản lý hành chính nhà nước (Chính phủ, Bộ Tư pháp, Ủy ban

14


nhân dân, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, đội ngũ công chức
làm công tác tư pháp hộ tịch)
Thứ ba, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính thống nhất,
được tổ chức chặt chẽ.
Để đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động hộ tịch, bộ máy các cơ quan

hộ tịch được tổ chức thành một khối thống nhất từ trung ương đến địa
phương, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành thống
nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nước, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp
nhàng giữa các địa phương, tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả nước, tránh được
sự cục bộ phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền khác nhau.
Tuy nhiên, do mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều
kiện kinh tế xã hội, nên để có thể phát huy tối đa yếu tố của từng địa phương,
tạo ra sự năng động trong quản lý điều hành, bộ máy quản lý hộ tịch còn được
phân cấp, trao quyền tự quyết, tạo sự chủ động sáng tạo cho chính quyền địa
phương.
Thứ tư, quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính chấp hành,
điều hành.
Tính chấp hành điều hành trong hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch
thể hiện trong việc những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật
và nhằm mục đích thực hiện pháp luật, cho dù đó là hoạt động chủ động sáng
tạo của chủ thể quản lý thì cũng không được vượt quá khuôn khổ của pháp
luật, điều hành cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những hoạt
động thực tiễn.... trên cơ sở quy định pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp luật.
Tính điều hành của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch còn thể hiện
trong việc chủ thể có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống
xã hội. Trong quá trình đó, các chủ thể này không chỉ tự mình thực hiện pháp
luật mà quan trọng hơn cả chúng đảm nhận chức năng vận hành hoạt động

15


của cơ quan, đơn vị trực thuộc theo một quy trình thống nhất, tổ chức để mọi
đối tượng có liên quan thực hiện pháp luật nhằm hiện thực hóa các quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý.
Thứ năm, quản lý nhà nước đối với hộ tịch là hoạt động mang tính liên

tục.
Quản lý nhà nước đối với hộ tịch luôn cần có tính liên tục, kịp thời và
linh hoạt để đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội. Chính
điểm đặc thù này được coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy
định về tổ chức hoạt đông, quy chế công chức của bộ máy quản lý hộ tịch; tạo
ra bộ máy quản lý hộ tịch gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội ngũ
công chức quản lý hộ tịch năng động, sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng
buộc trách nhiệm đối với hoạt động của mình.
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH Ở CẤP XÃ

1.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã về hộ tịch
Là cấp hành chính cơ sở gần dân nhất, trực tiếp đảm nhiệm việc đăng
ký và quản lý hộ tịch trong phạm vi địa phương nên UBND cấp xã có nhiệm
vụ, quyền hạn sau (theo quy định tại Điều 71 Luật Hộ tịch năm 2014):
 Thực hiện đăng ký hộ tịch tại xã theo quy định của Luật này;
 Căn cứ quy định của Ủy ban nhân dân, bố trí công chức Tư pháp – Hộ
tịch thực hiện việc đăng ký hộ tịch;
 Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về Hộ tịch;
 Quản lý, sử dụng Sổ Hộ tịch, biễu mẫu hộ tịch theo quy định;
 Quản lý, cập nhật, khai thác Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và cấp bản
sao trích lục hộ tịch theo quy định;
 Tổng hợp tình hình và thống kê hộ tịch báo cáo Ủy ban nhân dân cấp
huyện theo quy định của Chính phủ;
16


 Lưu trữ Sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch;
 Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về hộ tịch theo thẩm
quyền.
Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền đăng ký các loại việc hộ tịch phát

sinh trên địa bàn xã, bao gồm:
 Đăng ký khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; khai tử, cho
công dân Việt Nam cư trú ở trong nước; đăng ký khai sinh cho người đã có hồ
sơ, giấy tờ cá nhân; đăng ký lại việc sinh, kết hôn, khai tử;
 Đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa đủ 14 tuổi; bổ sung
thông tin hộ tịch cho công dân Việt Nam cư trú ở trong nước.
 Ghi vào Sổ Hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: thay đổi quốc tịch; xác định cha,
mẹ, con; xác định lại giới tính; chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly hôn, hủy việc
kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên bố
hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực
hành vi dân sự.
 Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định
của pháp luật.
 Đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là
công dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam; kết hôn;
nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với
công dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam;
khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của
Việt Nam.
Người thực hiện thẩm quyền đăng ký hộ tịch ở UBND cấp xã là Chủ tịch
hoặc Phó chủ tịch UBND cấp xã được giao phụ trách công tác Tư pháp.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về hộ tịch ở cấp xã
17


×