Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

NHỮNG KHÓ KHĂN KHI THỰC HIỆN dự án đầu tư ở môi TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.43 KB, 16 trang )

NHỮNG KHÓ KHĂN KHI THỰC HIỆN DỰ ÁN
ĐẦU TƯ Ở MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY

NỘI DUNG:
Stt

Đề mục

Trang

Phần 1

Những khó khăn

2

1.1

Lạm phát

2

1.2

Rủi ro tín dụng và hệ thống ngân hàng

2

1.3

Chính sách điều hành kinh tế vĩ mô



3

1.4

Về thủ tục hành chính

4

1.5

Về hạ tầng cơ sở

5

1.4

Về nguồn nhân lực

6

Phần 2

Hậu quả

7

2.1

Số lượng Dự án đầu tư giảm


7

2.2

Chậm tiến độ, tăng chi phí

7

2.3

Dừng Dự án

8

Phần 3

Giải pháp

9

3.1

Đối với các chính sách điều hành kinh tế của 9
chính phủ

3.2

PHẦN 1:


Đối với bản thân các nhà đầu tư

10

NHỮNG KHÓ KHĂN
1


Mặc dù đã có những bước phát triển mạnh
mẽ song về cơ bản Việt Nam vẫn là một nước
nông nghiệp, quy mô của nền kinh tế còn nhỏ
bé, các cơ sở công nghiệp và trình độ kỹ thuật
- công nghệ còn thấp, cơ cấu kinh tế còn
chuyển biến chậm, hiệu quả đầu tư chưa cao,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn chưa đáp
ứng được các yêu cầu phát triển.
Bức tranh môi trường đầu tư ở Việt nam hiện nay bên cạnh những điểm sáng thì vẫn
còn hàng loạt những khó khăn, trở ngại
1.1 Lạm phát
Năm 2011 là năm khủng hoảng, kinh tế gặp nhiều khó khăn, lạm phát ở mức
hai con số, lãi suất huy động và lãi suất cho vay được đẩy lên quá cao, vượt quá khả
năng chịu đựng của người dân và doanh nghiệp (có thời điểm lãi suất vay lên đến 2326%/năm). Do đó, các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, thu hẹp sản xuất và chỉ sản xuất ở
mức duy trì, cắt giảm các chi phí mức tối đa.
Thâm hụt cán cân thương mại, nhập siêu ở mức cao và trở thành căn bệnh kinh
niên của nền kinh tế. Lạm phát cao, nhập siêu lớn là nguyên nhân cơ bản làm mất giá
đồng Việt Nam, suy giảm dự trữ ngoại tệ quốc gia và làm giảm lòng tin của người dân
vào VND, tạo cơ hội cho đầu cơ, găm giữ, buôn lậu, buôn bán trái phép ngoại tệ và
vàng. Tới tháng 4/2011, các nước lân cận lạm phát đều không quá 5 – 6%, còn Việt
Nam thì lên đến gần 18% so với cùng kỳ.
1.2 Rủi ro về tín dụng và hoạt động ngân hàng

Không chỉ có lãi suất cao, tỷ giá cũng được đẩy lên (Tỷ giá niêm yết VCB ngày
01/01/2011 là 19.500 VND/USD; đến 01/01/2012 là 21.036) và giá vàng “nhẩy múa”
cùng với giá vàng thế giới . Sự biến động với biên độ lớn của vàng, tỷ giá tăng chứng
tở sự bất ổn của nền kinh tế, tiền đồng mất giá nhanh chóng so với các ngoại tệ khác.
Tỷ giá luôn được niêm yết ở mức kịch trần tại các ngân hàng, ngoại tệ trên thị trường
cũng khan hiếm do Việt Nam chủ yếu nhập siêu, dòng ngoại tệ ra nước ngoài, dự trữ
2


ngoại tệ căng thẳng. Cung không đáp ứng đủ cầu. Thêm vào đó là thói quen tích trữ
vàng, ngoại tệ của người dân dẫn đến việc thiếu ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng.
Trong năm 2011, thị trường ngoại hối có nhiều biến động,
đã có những thời điểm Ngân hàng Nhà nước sử dụng biện pháp
hành chính nhằm dẹp bỏ hoặc hạn chế hoạt động của thị trường
chợ đen. Với lượng ngoại tệ có hạn, cộng với tỷ giá chính thức
thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do, và việc kiểm soát chặt chẽ
hoạt động giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do khiến cho việc
tiếp cận đến ngoại tệ của các doanh nghiệp gặp khó khăn.
1.3 Chính sách điều hành kinh tế của Chính phủ
Bước vào năm 2011, nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn và thách thức.
Tỷ lệ lạm phát cao gây ra những bất ổn vĩ mô cho nền kinh tế vào các tháng đầu năm.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã ra Nghị quyết 11 để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, giảm tốc độ tăng trưởng cung tiền, giảm tăng trưởng tín dụng, và
hạn chế tín dụng cho các hoạt động kinh doanh bất động sản, chứng khoán. Các biện
pháp này làm cho lãi suất tăng cao, tác động tiêu cực lên khu vực doanh nghiệp, thị
trường bất động sản và thị trường chứng khoán.
Cũng trong năm 2011, thị trường ngoại hối có rất nhiều biến động và đã có
những thời điểm Ngân hàng Nhà nước sử dụng biện pháp hành chính nhằm dẹp bỏ
hoặc hạn chế hoạt động của thị trường chợ đen. Với lượng ngoại tệ có hạn, cộng với tỷ

giá chính thức thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do, và việc kiểm soát chặt chẽ hoạt
động giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do đã làm cho việc tiếp cận đến ngoại tệ của
các doanh nghiệp gặp khó khăn.
Kinh tế Việt Nam bị mắc phải ba vấn đề liên quan: thâm hụt ngân sách nặng nề,
nhập siêu dẫn tới thâm hụt tài khoản vãng lai, và dự trữ ngoại tệ quá mỏng. Chính vì
vậy, lạm phát luôn là vấn đề nhức nhối. Chính phủ không thể ổn định được tỷ giá, một
nguyên nhân dẫn tới lạm phát cao. Trong vòng 5 năm (2006-2010), tính cộng dồn đơn
giản, lạm phát đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Hàng
3


năm Chính phủ Việt Nam đều phải nỗ lực rất lớn trong điều hành để kiềm chế lạm
phát, ổn định vĩ mô. Các giải pháp thực thi chủ yếu đều mang tính ngắn hạn, tình thế
(chữa cháy), nặng về hành chính, chưa tập trung xử lý các vấn đề cơ bản như cơ cấu,
hiệu quả và sức cạnh tranh.
Nợ nước ngoài của Chính phủ cao, rủi ro vỡ nợ là có. Việt Nam bị các tổ chức
đánh giá tín nhiệm hạ thấp mức độ an toàn xuống "rủi ro cao". Tính tới tháng 3 năm
2011, Việt Nam là một trong 20 nước có khả năng vỡ nợ lớn nhất trên thế giới. Thị
trường chứng khoán trong thời gian 2 năm 2009-2010 suy giảm mạnh.
Cơ cấu kinh tế Việt Nam không hợp lý thể hiện ở cơ cấu sở hữu (tài sản và đầu
tư tập trung quá lớn vào khối doanh nghiệp nhà nước, trong khi khối này hoạt động
không hiệu quả). Sự bất cập trong cơ cấu nền kinh tế còn được thể hiện qua việc lựa
chọn ngành trong chiến lược phát triển công nghiệp chưa tận dụng được lợi thế cạnh
tranh của Việt Nam đang có.
Việt Nam phát triển không bền vững là do thiếu tư duy kinh tế và quyết tâm
chính trị đủ mạnh. Rất nhiều chính sách của Việt Nam thuộc dạng lỗi thời so với các
nước Đông Nam Á, không chỉ riêng những chính sách về kinh tế, giáo dục hay khoa
học công nghệ. Theo East Asian Bureau of Economic Research, bất ổn trong nền kinh
tế vĩ mô của Việt Nam đã làm suy yếu tính cạnh tranh và hiệu quả kinh tế của quốc gia
này. Sự bất ổn này không chỉ là một xáo động ngắn hạn mà thực sự là một vấn đề

nghiêm trọng có hệ thống, bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về các khái niệm về nguyên
tắc phát triển cũng như sự thiếu hụt về nỗ lực mang tính chiến lược nhằm xây dựng
một nền quản lý hiệu quả.
Kết quả của một loạt những thăm dò do các tổ chức nghiên cứu kinh tế và thị
trường thực hiện gần đây cho thấy niềm tin của doanh nghiệp với môi trường kinh
doanh đang bị giảm sút nghiêm trọng. Khó khăn về việc tiếp cận nguồn vốn, lạm phát
cao, cùng nhiều vấn đề cố hữu khác khiến cho môi trường kinh doanh trong năm 2011
trở nên ngột ngạt với giới doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà
kinh tế Võ Trí Thành miêu tả việc doanh nghiệp bị phá sản trong thời gian qua bằng
hình ảnh “xác doanh nghiệp trôi đầy sông Hồng, sông Mekong”.
4


Các nhà kinh tế cho rằng doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục phải chịu nhiều khó
khăn về nguồn vốn và thị trường, trong khi lãi suất chưa có khả năng giảm trong thời
gian tới. Việc lãi suất có giảm được hay không, phụ thuộc rất nhiều vào tình hình hoạt
động của các ngân hàng và liệu “làn sóng” tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, được cho là
đang diễn ra hiện nay, có giải quyết được cuộc khủng hoảng thanh khoản đang diễn ra
giữa các ngân hàng?
1.4 Về thủ tục hành chính
Hệ thống luật pháp về kinh tế của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn
thiện, chưa đảm bảo tính bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế; tính ổn định và minh bạch chưa cao, mức độ rủi ro pháp luật còn lớn và khó dự
báo; hệ thống văn bản pháp luật còn nhiều bất cập...
Cải cách hành chính còn chuyển biến chậm,
các thủ tục liên quan đến hoạt động đầu tư còn phức
tạp; nạn tham nhũng còn phổ biến và chưa có biện
pháp ngăn chặn hữu hiệu; chi phí dịch vụ cơ sở hạ
tầng hỗ trợ kinh doanh, chi phí trung gian, chi phí
gia nhập thị trường của các doanh nghiệp còn lớn so

với các nước trong khu vực.
Theo WorldBank, một trong các trở ngại của môi trường đầu tư là thủ tục quan
liêu. Trong Báo cáo “Môi trường Kinh doanh 2008” của Ngân hàng Thế giới và Tập
đoàn Tài chính Quốc tế, Việt Nam đứng thứ 91 trong số 178 nền kinh tế về mức độ
thuận lợi kinh doanh, trong khi Trung Quốc đứng thứ 83 và Thái Lan thứ 15.
1.5 Về hạ tầng cơ sở
Cơ sở hạ tầng là một trong những trở ngại lớn nhất của phát triển kinh tế tại
Việt Nam. Cơ sở hạ tầng Việt Nam bị đánh giá là yếu kém, thiếu thốn. Việc nâng cấp hạ
tầng vật chất của Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót và trậm trễ. Nhất là trong việc phát
triển cơ sở hạ tầng trọng yếu, như các tuyến đường liên tỉnh, cầu… Những hạn chế về cơ
sở hạ tầng tại Việt Nam theo đánh giá bởi các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đe doạ các dự án

5


FDI đối với xuất khẩu và sản xuất. Chừng nào Việt Nam còn chưa cải thiện hạ tầng và
cơ sở hậu cần thì Việt Nam còn tụt hậu.
Chi phí vận tải ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Việt
Nam chưa có cảng biển mang tầm cỡ quốc tế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chi
phí sản xuất hàng hóa ở Việt Nam, vì phải vận chuyển qua cảng trung gian. Vấn đề bất
cập trong cơ sở hạ tầng hiện nay là thiếu một quy hoạch phát triển đồng bộ, chi phí đầu
tư cao, chất lượng đầu tư thấp và thất thoát lớn trong quá trình đầu tư.
Tình trạng ách tắc giao thông, giá đất cao, xây dựng cơ sở hạ tầng, đường giao
thông đắt đỏ tại các đô thị lớn như Hà Nội và Tp. HCM là một trong những bước cản
lớn cho phát triển của 2 thành phố lớn nhất nước này.
1.6 Về nguồn nhân lực
Một trong những trở ngại của nền kinh tế Việt Nam là thiếu nguồn nhân lực có
trình độ. Nguồn lao động của Việt Nam dồi dào, trẻ, có trình độ học vấn nhưng thiếu
kỹ năng và tay nghề. Nhiều dự án đầu tư của Việt Nam không phát huy được những lợi
thế này.Chất lượng nhân lực không cao và chậm áp dụng các tiến bộ khoa học công

nghệ khiến cho năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh của hàng hóa kém, giá trị gia
tăng của các sản phẩm chưa cao.
Nguồn nhân lực giá rẻ không còn được xem là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam.
Chất lượng nguồn nhân lực thấp trở thành một rào cản phát triển kinh tế. Số người lao
động qua đào tạo đang chiếm một tỷ lệ thấp, chất lượng cũng chưa đáp ứng được
những công việc đòi hỏi kiến thức và kỹ năng.
Đào tạo đại học và nghề chưa theo sát với nhu cầu tuyển dụng của doanh
nghiệp. Vì vậy, vấn đề nhân lực là một trở ngại lớn đối với nhiều doanh nghiệp nước
ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam.
Để kết thúc phần này:
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm
2011 bị tụt 6 bậc so với năm 2010. Trong đó, chỉ số đổi mới và độ tinh vi trong kinh
doanh tụt hạng mạnh nhất, đứng thứ 53 năm 2010 nhưng lùi xuống thứ 75 năm 2011.
6


Chỉ số này phản ánh chất lượng của mạng lưới kinh doanh, công nghiệp hỗ trợ, chất
lượng điều hành và chiến lược của các doanh nghiệp,... Chỉ số nâng cao hiệu quả cũng
sụt giảm mạnh: từ vị trí thứ 57 trong danh sách các nước xếp hạng xuống vị trí thứ 66.
So sánh các chỉ số chính của năng lực cạnh tranh quốc gia.

Nguồn: WEF (2011), The Global Competitiveness Report 2011-2012, World Economic Forum.

Còn theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức tài chính quốc tế
(IFC) trong Báo cáo Môi trường kinh doanh 2012: Kinh doanh trong một thế giới
minh bạch, Việt Nam xếp thứ 98 trong tổng số 183 nền kinh tế năm 2010-2011, tụt
xuống 8 bậc so với năm 2010 cho dù Việt Nam đã có những nỗ lực trong việc cải thiện
môi trường kinh doanh. Có thể môi trường kinh doanh của chúng ta tốt dần lên nhưng
đặt trong môi trường toàn cầu, các nước khác cải thiện nhanh hơn sẽ làm cho chúng ta
thụt lùi so với họ. Đáng lưu ý, hai chỉ số tụt hạng mạnh nhất là chỉ số nộp thuế và chỉ

số xử lý doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Như vậy, ở cả hai báo cáo của các tổ chức quốc tế uy tín thì môi trường kinh doanh
và năng lực cạnh tranh của Việt Nam đều bị tụt bậc. Cho dù Việt Nam đã có nhiều nỗ
lực trong việc cải thiện môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, nhưng các
nước khác tiến triển tốt hơn chúng ta nên Việt Nam vẫn bị tụt bậc.

7


PHẦN 2:

HẬU QUẢ

2.1 Số lượng Dự án dầu tư giảm

8


Lĩnh vực chịu hậu quả nặng nề nhất là các
Dự án BDS và xây dựng, các Dự án dở dang nhiều,
bán không hết, dòng tiền thâm hụt dẫn đến mất
thanh khoản, quá trình giảm giá bán bắt đầu để
“kích cầu” nhưng thất bại do lượng cung trên thị
trường là quá lớn. Cùng với đó là sự thắt chặt đầu tư
của chính phủ, hệ thống ngân hàng hạn chế cho vay,
giải ngân trong lĩnh vực xây dựng.
Trong năm 2011 xu hướng cấp GCNĐT cho những dự án quy mô lớn và rất lớn
với quy mô vốn đăng ký hàng tỷ USD, nhất là các dự án bất động sản, đã giảm hẳn.
Nếu như năm 2008, năm thu hút FDI đạt mức 71,7 tỷ USD, cao nhất trong 25 năm
thực hiện thu hút đầu tư nước ngoài, có đến 11 dự án có quy mô vốn đăng ký từ 1 tỷ

USD trở lên với tổng vốn đăng ký của các dự án này là 45,7 tỷ USD (chiếm tới 64%
tổng vốn đăng ký năm 2008) thì năm 2011, chỉ có 2 dự án có mức vốn đăng ký trên 1
tỷ USD. Hơn nữa, các dự án quy mô lớn của năm 2011 đều là các dự án trong lĩnh vực
công nghiệp, dự án BOT điện lực Jak Hải Dương với quy mô vốn đăng ký 2,26 tỷ
USD, dự án sản xuất pin mặt trời First Solar tại thành phố Hồ Chí Minh với quy mô
vốn đăng ký trên 1 tỷ USD.
2.2 Chậm tiến độ/Tăng chi phí
Theo con số công bố mới đây của Tổng hội xây
dựng Việt Nam, có đến 99% dự án đều… chậm tiến độ do
nhiều nguyên nhân. Trong đó, nếu không bởi thủ tục kéo
dài, giải phóng mặt bằng chậm… thì cũng là hệ quả tất yếu
từ bất cập trong Luật đấu thầu.
- Ví dụ: Đại lộ Thăng Long - Hà Nội là dự án bị đội vốn lớn vì chậm tiến độ được
công bố gần đây nhất. Mức đầu tư ban đầu (11/7/2003) của dự án là khoảng 3.700 tỉ
đồng, nhưng đến khi hoàn thành (tháng 10/2010), tổng mức đầu tư của dự án này bị
điều chỉnh tăng lên hơn 7.500 tỉ đồng.

9


Bên cạnh đó, theo một thống kê chưa đầy đủ, hiện cả nước có khoảng 1.300 DA
FDI với tổng vốn đăng ký khoảng 17 tỉ USD đã cấp phép nhưng chưa giải ngân được.
Các DA này mặc dù vẫn đang hoạt động nhưng lâm vào tình trạng phá sản, khả năng
tồn tại thấp, nhà đầu tư cố tình trì hoãn để giữ đất nhưng không có năng lực tài chính
thực hiện DA.
Quan hệ nhân quả giữa chậm tiến độ với tăng chi phí:
Khi dự án bị kéo dài thì chi phí của nó bị ảnh hưởng trực tiếp bởi một số yếu tố
quan trọng sau:
-


Đơn giá đất quy định bởi Nhà Nước phục vụ cho công tác đền bù, giải phóng
mặt bằng.

-

Biến động của giá nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào phục vụ cho dự án. Theo
kết quả tính toán của Bộ Xây dựng thì mức biến động giá nguyên, nhiên vật
liệu 6 tháng đầu năm 2011 vào khoảng 17,44% so với tháng 12/2010 và
khoảng 20,5% so với cùng kỳ năm 2010.

-

Mức tiền lương chi trả cho người lao động cũng thay đổi. Mức tiền lương tối
thiểu từ ngày 01/01/2011 tăng khoảng 22 - 35% so với năm 2010.

-

Lãi xuất ngân hàng, tỷ giá ngoại hối giữa đồng tiền Việt Nam với các ngoại tệ
mạnh cũng thay đổi do lạm phát

2.3 Dừng Dự án
Những con số báo động: số các DA buộc phải rút giấy phép đầu tư (GPĐT),
giải thể trước thời hạn tăng liên tục thời gian qua. Nếu như trong 3 năm đầu khi có
Luật ĐTNN tại VN (1988-1990), số DA bị rút GPĐT chỉ có bình quân 2 dự án/năm;
thời kỳ 1991-1995, con số này tăng lên 47 DA/năm; thời kỳ 1996-2000 là 80 DA/năm
thì thời kỳ 2001-2006 đã tăng lên trên 100 DA/năm.
Không chỉ số DA bị giải thể tăng, mà số vốn đầu tư bị giải thể trước thời hạn
cũng không ngừng tăng qua các giai đoạn. Tính đến cuối năm 2006, cả nước có 6.813
DA còn hiệu lực hoạt động với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 60,4 tỉ USD, trong số này
nguồn vốn đã thực hiện đạt 28,7 tỉ USD.

10


Nếu tính cả các DA đã hết hiệu lực thì tổng vốn
thực hiện đạt hơn 36 tỉ USD, tức là đã có gần 10 tỉ
USD bị rút giấy phép hoặc giải thể trước thời hạn.
Hầu hết các DA bị rút giấy phép là do nhà đầu tư
kinh doanh thua lỗ dẫn đến phá sản, phải ngừng
hoạt động. Các DN liên doanh có tỉ lệ lỗ vốn hoặc
giải thể nhiều nhất.

PHẦN 3:

GIẢI PHÁP

3.1 Đối với các chính sách điều hành kinh tế của chính phủ
Một là Chính phủ Việt Nam cần chuyển từ đường lối "kiểm soát và chỉ đạo" sang
"điều tiết, theo dõi và cưỡng chế tuân thủ". Một số biện pháp cần thực hiện ngay như
cụ thể hoá danh sách các hạn chế tiếp nhận đầu tư, xoá bỏ giới hạn về thời gian trong
giấy chứng nhận đầu tư...

11


Hai là thực hiện đầu tư vào một số lĩnh vực
quan trọng, khuyến khích các dòng đầu tư
mới nhằm đa dạng hoá lĩnh vực chứ không
chỉ vào xuất khẩu.
Ba là tạo điều kiện thuận lợi cho việc hấp thu
các kỹ năng cần thiết cho nền kinh tế. Việt

Nam cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chính
sách phát triển kỹ năng dựa trên giáo dục.
Bốn là phân biệt rõ ràng chức năng sở hữu và chức năng điều tiết của Nhà nước.
Trong đó, UNCTAD đề xuất: chuyển giao quyền sở hữu tất cả các doanh nghiệp
Nhà nước cho SCIC và trao cho tổng công ty này chức năng thực hiện ràng buộc
ngân sách đối với tất cả các doanh nghiệp quốc doanh và thực hiện cơ chế trợ cấp
Nhà nước một cách minh bạch khi cần thiết.
Năm là đơn giản hoá hệ thống thuế và hợp lí hoá cơ cấu ưu đãi thuế nhằm giúp cơ
quan quản lí thuế dễ dàng thực thi. Cụ thể, Chính phủ nên tiến hành đánh giá tổng thể
các ưu đãi thuế và cải cách hệ thống hiện hành khiến cho hệ thống thuế phổ cập trở
nên hấp dẫn và cạnh tranh.
Sáu là hấp thu và thực hiện các thay đổi của pháp luật một cách lành mạnh. Cần có
nhiều nỗ lực để trang bị thông tin, giáo dục-đào tạo các thẩm phán và các nhà quản lý.
3.2 Đối với bản thân các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư trong nước), bên cạnh những khó khăn
khách quan do môi trường đầu tư hiện nay mang lại thì
a. Các rủi ro trong quá trình hình thành 01 Dự án đầu tư:
(Các trục trặc và nguyên nhân trong giai đoạn khởi đầu)

TT Các trục trặc thường gặp

Mức độ

Mức độ

xuất hiện tác động

Nguyên nhân của các
trục trặc
12



1

Quyết định đầu tư sai

Trung bình Nghiêm

trọng
liên quan không có kinh
Trung bình
nghiệm triển khai dự án

2

Không nghiên cứu khả thi

3

Quy trình lập và thẩm định dự Phổ biến

Không

mới

án không chuẩn

nghiêm

- CĐT thiếu vốn, nhân


4

Không thống nhất được các Ít gặp

trọng
Nghiêm

lực và khả năng quản lý

5

phương án t.kế, xây dựng
Không tiến hành hoặc không

Rất phổ

trọng
công trình
Trung bình

6

có đủ các khảo sát địa chất
Khả năng tài chính hạn hẹp

biến
Rất phổ

Nghiêm


lường trước và thiếu

7

Quyết định đầu tư phụ thuộc

biến
Phổ biến

trọng
Không

thông tin trong giai đoạn

nhiều vào cấp trên và các đơn

nghiêm

đầu của dự án.

vị
lienđầu
quantưkhác
Chủ
không biết tiến Bình

trọng
Trung bình - Xung đột trong nội
bộ CĐT xem nên tiến


8

Phổ biến

- CĐT và các đơn vị

hành công việc khởi đầu, ít thường
9

kinh nghiệm thực hiện dự án
Nhiều yếu tố khó lường tác Phổ biến

động đến quyết định đầu tư
10 Có nhiều thay đổi trong

Phổ biến

tương lai về kinh tế, xã hội..
b. Quá trình làm thủ tục:

- Nhiều yếu tố khó

hành dự án hay không
Bình

và thực hiện thế nào.

thường
Bình


- Quyết định đầu tư phụ

thường

thuộc nhiều vào cá nhân
lãnh đạo, cấp trên hoặc

Hợp đồng thuê đất
Đàm phán thanh toán trả tiền thuê đất Dự án (35-50 năm) một lần sau khi đã trừ số
năm được miễn do ưu đãi thay vì trả từng năm. Lý do: Trong tương lai, việc tăng giá
tiền thuê đất là ko thể lượng trước.
Duyệt và thẩm định các thiết kế và tài liệu liên quan đến Dự án:
“Hợp đồng” với chính các cơ quan duyệt và thẩm định Dự án toàn bộ các thiết kế
và tài liệu lien quan đến Dự án như: bản vẽ quy hoạch mặt bằng tổng thể; báo cáo đánh
giá tác động môi trường; phương án PCCC…
Quan hệ với địa phương:
13


Tránh các nguy cơ xảy ra rắc rối trong giai đoạn đền bù giải tỏa, giải phóng mặt
bằng cho Dự án. Ở nhiều nơi, đây là nguyên nhân chính làm Dự án thất bại do thời
gian chờ đợi kéo dài, chi phí đội lên không thể chịu đựng nổi, nhà đầu tư chán nản…
c. 10 bước để cứu nguy một Dự án:
Khi một Dự án bị “sa lầy”, chúng ta nên cứu nó hay để cho nó chết? Và làm sao để
cứu ? Việc cần làm ngay là tổ chức đánh giá lại Dự án. Quá trình này gồm các bước
sau:
Ngừng dự án
Những nhà tài trợ, Giám đốc Dự án hay những nhà đầu tư chính là những người có thể
yêu cầu ngừng thực hiện dự án. Việc này nhằm hạn chế thiệt hại và thu hút sự chú ý

của mọi người. Nếu vẫn tiếp tục thực hiện Dự án song hành với việc tìm giải pháp
khắc phục khó khăn thì sẽ không có được sự chú ý của mọi người.
Xác định mức độ của vấn đề
Chọn thẩm định viên hoặc một đội thẩm định (với dự án lớn) để thẩm định Dự án.
Đánh giá tình trạng của Dự án
Để hiểu rõ hiện trạng của Dự án, chuyên gia thẩm định cần tiếp xúc với các nhà đầu tư
Dự án và các thành viên quản lý. Cũng cần phải xem xét lại hồ sơ dự án để đánh giá
quá trình triển khai.
Thẩm định khả năng của những người thực hiện Dự án
Chuyên gia thẩm định cần xem xét lại tính năng động, kỹ năng của những người tham
gia thực hiện Dự án cũng như khả năng lãnh đạo của Giám đốc Dự án. Có thể Giám
đốc Dự án không có kinh nghiệm về lĩnh vực kỹ thuật. Thay vì thuyên chuyển vị Giám
đốc đó, chúng ta có thể đề xuất bổ nhiệm thêm một Giám đốc chuyên trách về kỹ
thuật.
Tái xác định những mục tiêu tối thiểu

14


Chuyên gia thẩm định cần làm việc với nhà đầu tư để thiết lập những yêu cầu tối thiểu
cho Dự án. Có thể chia những yêu cầu này thành ba nhóm: thiết yếu, rất quan trọng và
bình thường. Ưu tiên hàng đầu cho những yêu cầu thiết yếu.
Xem xét tính khả thi của những mục tiêu
Sau khi đã xác định các yêu cầu thiết yếu, cần đánh giả tính khả thi của những yêu cầu
này, phải bảo đảm rằng nhà đầu tư sẽ đồng ý với những mục tiêu mới, thời gian thực
hiện, và ngân sách. Chuyên gia thẩm định có thể đề nghị hủy bỏ dự án nếu phát hiện
những trở ngại nghiêm trọng không thể khắc phục .
Sắp xếp lại nhân sự
Chuyên gia thẩm định cần phải xem xét thành tích, kỹ năng và động lực của những
người thực hiện Dự án dựa trên những yêu cầu mới .

Phân tích những rủi ro
Chuyên gia thẩm định, Giám đốc Dự án, những thành viên chủ chốt trong nhóm thực
hiện Dự án và nhà đầu tư cần phải liệt kê và đánh giá hậu quả của những rủi ro có thể
xảy ra theo mức độ nghiêm trọng. Sau đó , mọi người sẽ đưa ra kế hoạch cụ thể để
giảm thiểu những rủi ro đó.
Lập lại kế hoạch triển khai
Kế hoạch triển khai sẽ là phương tiện cho việc khôi phục Dự án.
Thực hiện một hệ thống cảnh báo sớm
Để bảo đảm cho dự án tránh được “vết xe đổ” trước đó, cần phải thu thập các dữ liệu
trong quá trình thực hiện, định kỳ xem xét tình trạng của Dự án, xác định những nguy
cơ ảnh hưởng đến Dự án và thiết lập quy trình điều chỉnh các sai sót một cách kịp thời.

NGUỒN TAÌ LIỆU TRÍCH DẪN
15


TT

DANH MỤC

1

Tư vấn ASA

2

Việt Báo />
3

Tác giả: Vietnam Report

Bài đã được xuất bản.: 25/11/2011 06:00 GMT+7
/>
4

Báo dantri.com.vn
/>
5

Kinh tế Việt nam
/>
6

TC Xây dựng, số 1/2007

7

TC Xây dựng, số 4/2007

8

Thời báo Vi tính Sài Gòn
/>
9

Kết quả đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trực tiếp của Việt Nam
ra nước ngoài năm 2011

04/01/2012
/>
16




×