Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

BẢO VỆ QUYỀN CÔNG DÂN CỦA PHẠM NHÂN TỪ THỰC TIỄN CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN TRUNG (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
………/………

BỘ NỘI VỤ
.…../……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN VĂN DŨNG

BẢO VỆ QUYỀN CÔNG DÂN
CỦA PHẠM NHÂN - TỪ THỰC TIỄN CÁC TRẠI
GIAM KHU VỰC MIỀN TRUNG

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MINH SẢN

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn không trùng lắp với các công trình có liên quan đã
công bố. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành tất cả


các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học
viện Hành chính Quốc gia.
Vậy, tôi viết bản cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính Quốc gia xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên

Trần Văn Dũng


Lời Câm Ơn
Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời câm
ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc gia đã
trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn Giâng viên TS. Nguyễn
Minh Sân- người Thæy kính mến đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận
tình từ lúc định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu,
thæy luôn động viên và täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn
thành luận văn này.
Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm
giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp
tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này.
Trån trọng!
Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017
Học viên

Træn Văn Dũng


MỤC LỤC

Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO VỆ QUYỀN
CÔNG DÂN CỦA PHẠM NHÂN ......................................................................... 10
1.1. Quyền công dân và quyền công dân của phạm nhân ........................................ 10
1.1.1. Quyền công dân ...................................................................................... 10
1.1.2. Quyền công dân của phạm nhân ............................................................ 17
1.2. Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân ............................................................. 30
1.2.1. Quan niệm, ý nghĩa của bảo vệ quyền công dân .................................... 30
1.2.2. Các biện pháp bảo vệ quyền công dân ................................................... 34
1.2.3. Đặc điểm riêng bảo vệ quyền công dân của phạm nhân ....................... 38
1.3. Nguyên tắc cơ bản bảo vệ quyền công dân của phạm nhân ............................ 40
1.3.1. Đảng lãnh đạo để bảo vệ thực hiện quyền của phạm nhân ................... 40
1.3.2. Quan điểm quản lý chặt chẽ kết hợp giáo dục và thực hiện chế độ chính
sách nhằm bảo đảm phạm nhân được hưởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ41
1.3.3. Quan điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa để bảo vệ và thực hiện quyền của
phạm nhân ........................................................................................................ 42
1.3.4. Quan điểm nhân đạo xã hội chủ nghĩa để bảo vệ và thực hiện quyền của
phạm nhân ........................................................................................................ 43
1.3.5. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và chính sách, pháp luật của Việt Nam
về quyền và bảo đảm quyền công dân của phạm nhân .................................... 44
Chương 2: BẢO VỆ QUYỀN CÔNG DÂN CỦA PHẠM NHÂN TẠI CÁC
TRẠI GIAM Ở MIỀN TRUNG NƢỚC TA HIỆN NAY .................................... 47
2.1 Khái quát về các trại giam ở miền trung nước ta và tình hình phạm nhân chấp
hành hình phạt tù ở đây ................................................................................................ 47
2.1.1. Khái quát về các trại giam ở miền Trung nước ta ................................. 47



2.1.2 Tình hình phạm nhân chấp hành hình phạt tù tại các trại giam ở miền
Trung nước ta ................................................................................................... 50
2.2. Tình hình bảo vệ quyền công dân của phạm nhân chấp hành hình phạt tù tại
các trại giam ở miền trung nước ta hiện nay ............................................................. 56
2.2.1. Tình hình tiếp nhận, quản lý, giáo dục phạm nhân ................................ 56
2.2.2 Công tác chỉ đạo, triển khai tổ chức và kiểm tra .................................... 57
2.2.3. Tình hình bảo vệ về kinh tế ..................................................................... 59
2.2.4 Tình hình bảo vệ về pháp lý..................................................................... 64
2.2.5. Tình hình bảo vệ về chính trị - tư tưởng ................................................. 68
2.2.6. Tình hình bảo vệ về xã hội...................................................................... 72
2.3. Đánh giá chung ...................................................................................................... 77
2.3.1 Những kết quả đạt được và nguyên nhân ................................................ 77
2.3.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân ............................................... 79
Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ
QUYỀN CÔNG DÂN CỦA PHẠM NHÂN TẠI CÁC TRẠI GIAM Ở NƢỚC
TA HIỆN NAY ........................................................................................................ 86
3.1 Phương hướng tăng cường bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại
giam ở nước ta hiện nay ............................................................................................... 86
3.1.1. Tiếp tục thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 trong hệ thống
cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung, trong đó có quyền
công dân của phạm nhân trong các trại giam ................................................. 86
3.1.2. Tăng cường cơ chế kiểm soát mang tính tư pháp đối với thi hành án
hình sự để bảo vệ quyền công dân của phạm nhân trong các trại giam .......... 88
3.1.3. Thay đổi và nâng cao nhận thức về hoạt động chấp hành hình phạt tù
đối với phạm nhân gắn với huy động sự tham gia của xã hội vào tăng cường
các điều kiện cho bảo vệ, bảo đảm quyền công dân của phạm nhân trong các
trại giam ........................................................................................................... 88
3.2. Nhóm giải pháp chung nhằm tăng cường bảo vệ quyền công dân của phạm
nhân tại các trại giam ở nước ta hiện nay .................................................................. 89



3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ, bảo đảm quyền công dân nói chung,
quyền công dân của phạm nhân nói riêng, gắn với các bảo vệ, bảo đảm quyền
con người .......................................................................................................... 89
3.2.2. Thực hiện tốt chính sách pháp luật đối với phạm nhân, tích cực thực
hiện xã hội hóa công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân .................................... 97
3.3. Nhóm giải pháp riêng nhằm tăng cường bảo vệ quyền công dân của phạm
nhân tại các trại giam ở miền trung nước ta hiện nay ............................................ 100
3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng........................................... 100
3.3.2. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị và nâng cao chất
lượng cán bộ thực hiện công tác giam giữ, quản lý, giáo dục phạm nhân .... 101
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 106


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân năm 1789 của nước
Pháp là dấu mốc quan trọng trong việc hình thành khái niệm quyền con người và
quyền công dân, đặc biệt đã khẳng định quyền tự nhiên của con người và việc thực
hiện quyền đó trên thực tế. Trong lịch sử phát triển của quyền con người thì nước
Mỹ lại được coi là quốc gia trên thế giới đã hiến định quyền con người. Tuy nhiên,
sự phát triển thực sự của quá trình lập pháp về con người hiện đại chỉ được bắt đầu
từ thế kỷ XIX.
Quyền con người mang tính phổ quát, thuộc về bản chất và bất kỳ ai sinh ra
đều có các quyền đó thì khái niệm quyền công dân lại gắn với một quốc gia cụ thể,
gắn với trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân của mình. Như vậy, quyền
công dân là tập hợp các quyền và nghĩa vụ của một người khi người đó là thành
viên của một cộng đồng mang tính chính trị, xã hội - một quốc gia; được gắn với
một chế định pháp lý cụ thể, đó là: quốc tịch - những quyền mà chỉ khi có quốc tịch

của một quốc gia, con người mới có quyền thụ hưởng.
Ở Việt Nam, vấn đề giải phóng con người, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản Tuyên ngôn độc lập
năm 1945 và đây cũng là nguyên tắc được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của
Việt Nam từ 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 (sửa đổi). Các bản Hiến pháp này đều
ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, công dân bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, việc bảo vệ quyền con người là trách nhiệm của các
cơ quan tổ chức và toàn thể nhân dân. Trên thực tế, có nhiều cơ chế cơ chế pháp lý
để bảo vệ quyền con người, quyền công dân như thông qua Tòa án, các hình thức
pháp lý hành chính, các tổ chức xã hội tự quản trong các đơn vị dân cư truyền thống
ở Việt Nam, v.v…
Việt Nam đang ngày càng quan hệ gắn bó hơn với thế giới văn minh, trong
đó bảo vệ quyền con người là một trong những vấn đề nền tảng để có được sự tôn
trọng quốc gia và giúp tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế. Là một thành viên

1


của Liên hợp quốc, nhà nước Việt Nam đã tham gia vào nhiều văn kiện quốc tế để
đảm bảo các quyền con người được thừa nhận và bảo vệ, như Công ước quốc tế về
các Quyền dân sự và chính trị (Việt Nam gia nhập ngày 24/09/1982), Công ước
quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (Việt Nam gia nhập ngày
24/09/1982). Đáng chú ý là vào ngày 7 tháng 11 năm 2013 Việt Nam đã ký tham
gia Công ước của Liên hiệp quốc về chống tra tấn và trừng phạt hoặc đối xử tàn
nhẫn, vô nhân đạo hoặc làm mất phẩm giá (Công ước chống tra tấn 1984). Như vậy
là chỉ trong vòng 4 năm kể từ khi Luật thi hành án hình sự của Việt Nam có hiệu
lực, Công ước chống tra tấn được ký sẽ tạo thêm những cơ sở pháp lý bảo đảm cho
quyền của phạm nhân. Tuy nhiên trên thực tế việc bảo đảm quyền của phạm nhân
trong nhiều trại giam của Việt Nam vẫn là một vấn đề rất đáng quan tâm. Thực hiện
các quy phạm pháp luật thi hành án hình sự, nhất là thực hiện các quy phạm pháp

luật thi hành án phạt tù đảm bảo quyền con người đang đứng trước những khó khăn
nhất định: tình hình người phải chấp hành án phạt tù ngày càng tăng, hệ thống trại
giam đang quá tải, cơ sở vật chất nhiều trại giam bị xuống cấp. Hơn nữa, khi nói
đến hình phạt tù và phạm nhân, xã hội thường có tâm lý xa lánh, kỳ thị và xem hành
động trừng phạt họ là đương nhiên. Thế nhưng con người càng văn minh thì càng
nhận thức được quyền lợi của mình, không chỉ quyền cho người sống bình thường,
lương thiện mà còn quyền cho những phạm nhân. Phạm nhân cũng phải được tôn
trọng phẩm giá, phải được đối xử như một con người. Hành vi phạm tội của họ đến
đâu thì họ bị ở tù, bị mất tự do đến đó, không ai được phép tra tấn, bỏ đói, nhục mạ
họ. Chính vì vậy, yêu cầu của xã hội đối với hoạt động thi hành án phạt tù ngày
càng cao.
Trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa
(XHCN) của dân, do dân, vì dân, trong thi hành án phạt tù đối với phạm nhân, các
quy định pháp luật về quyền công dân của phạm nhân trong các trại giam còn bộc lộ
những yếu kém, bật cập; thiếu tính đồng bộ, tính thống nhất; quy định về quyền
công dân của phạm nhân còn nằm ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật; nội dung
điều chỉnh còn chung chung, chưa hoàn toàn phù hợp; các quy định về quản lý
phạm nhân của các trại giam còn phân tán, chồng chéo, thiếu thống nhất và gò bó

2


cứng nhắc, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của từng trại giam; một số
chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng về quyền công dân của phạm nhân chưa
được thể chế hóa thành pháp luật; nhiều vấn đề phát sinh mới trong quá trình quản
lý phạm nhân chưa được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Những thiếu sót đó
là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc quyền công dân của phạm
nhân trong các trại giam không được bảo đảm, có lúc có nơi quyền công dân của
phạm nhân bị vi phạm nghiêm trọng.
Để tạo được một hệ thống các quy phạm pháp luật về quyền công dân của

phạm nhân tại các trại giam trên toàn quốc có sự đổi mới cơ bản, có nguyên tắc,
định hướng và mục đích pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, thống nhất và có tính khả
thi cao đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân đã đặt ra
nhiều vấn đề lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp thấu đáo, có căn cứ khoa học
và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Bảo vệ quyền công dân của phạm
nhân - từ thực tiễn các trại giam khu vực miền Trung” là yêu cầu khách quan và
tất yếu, cấp thiết cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan đến đề tài “Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân - từ thực tiễn
các trại giam khu vực miền Trung”, đã có nhiều công trình khoa học được công
bố, tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau về vấn đề. Có thể phân
thành các nhóm chính sau:
Nhóm thứ nhất: bao gồm các công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc bảo vệ, bảo đảm quyền công dân trong lĩnh vực thi hành án phạt tù.
Trong đó, đáng chú ý như:
Sách chuyên khảo về “Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng đồng
chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2006. Cuốn sách đã hệ thống hóa cơ sở lý luận
về Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam thông qua việc phân tích, làm rõ khái
niệm pháp luật thi hành án hình sự; chí rõ đặc điểm pháp luật thi hành án hình sự;
xác định nội dung và vai trò pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam. Trên cơ sở đó,

3


cuốn sách phân tích thực trạng pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam, đánh giá về
những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của thực trạng này.
Sách chuyên khảo về “Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành
án hình sự ở Việt Nam” của TS.Vũ Trọng Hách, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2006.
Dưới góc tiếp cận Hành chính - Tư pháp, cuốn sách đã xây dựng hệ thống lý thuyết

về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự; phân tích, đánh giá thực
trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự ở Việt Nam từ 2010 đến
2006, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
hành án hình sự ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Sách chuyên khảo về “Một số vấn đề thi hành án hình sự” của tác giả Trần
Quang Tiệp, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân, năm 2002. Cuốn sách đã hệ thống
hóa một số vấn đề lý luận về thi hành án hình sự; trên cơ sở phân tích thực trạng thi
hành án hình sự ở Việt Nam, cuốn sách đề xuất một số giải pháp có tính khả thi và
giá trị tham khảo.
Sách chuyên khảo về “Bình luận khoa học Thi hành án phạt tù từ thực tiễn
đến khoa học giáo dục” của PGS.TS Nguyễn Hữu Duyện, Nhà xuất bản Công an
nhân dân, năm 2010. Trên cơ sở khoa học và thực tiễn thi hành án phạt tù ở Việt
Nam, cuốn sách đã phân tích, nhận xét, đánh giá và rút ra những giá trị giáo dục
thông qua thực tiễn thi hành án phạt tù.
“Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam” Chủ biên PGS.TS Nguyễn Ngọc
Chí – Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2014 trong đó với tinh thần đổi mới
theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, cũng như sự
phát triển của khoa học pháp lý tố tụng hình sự những năm gần đây, nhất là vấn đề
đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự. Các tác giả đã nhận thức rõ tầm
quan trọng của việc đảm bảo quyền con người và đưa vấn đề này vào từng chương
và dành hẳn một chương đề cập đến những vấn đề có tính khái quát về quyền con
người, đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự. Giáo trình có phạm vi rộng,
phong phú, kết cấu hợp lý hơn các giáo trình trước đó.
Nhóm thứ hai: bao gồm các công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc bảo đảm quyền công dân theo từng nội dung về các quyền, nghĩa vụ

4


cụ thể. Trong đó, đáng chú ý như: Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con

người bằng pháp luật hình sự của GS.TSKH Lê Cảm, đăng trên tạp chí Tòa án nhân
dân số 11(6)/2006; Thực trạng công tác thi hành án hình sự và những kiến nghị của
tác giả Nguyễn Phong Hoà, đăng trên tạp chí TAND số 21/2006; Thực trạng pháp
luật thi hành án phạt tù và phương hướng hoàn thiện của Phạm Văn Lợi, đăng trên
tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02 /2006; Chuyên đề nghiên cứu khoa học Thực
trạng các quy phạm pháp luật thi hành án hình sự về bảo vệ quyền con người của
TS. Nguyễn Đức Phúc, đơn vị Học viện CSND, năm 2011; Dạy nghề cho phạm
nhân và bảo đảm việc làm cho người mãn hạn tù của ThS.Thượng tá Nguyễn Văn
Cừ, đăng trên tạp chí Nhân quyền số 1+2/2011.
“Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” – đề tài
nghiên cứu khoa học, chủ trì Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí – Khoa Luật, Đại học quốc
gia Hà Nội; Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam những
năm qua đạt được những kết quả khả quan. Tuy vậy vẫn còn nhiều bất cập và hạn
chế. Vì vậy, đề tài nghiên cứu khoa học này đã nghiên cứu, tiếp thu những quan
điểm và nhất là các tiêu chí về quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế
mà Việt Nam đã tham gia. Trên cơ sở đó nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền
con người trong tố tung hình sự. Đề tài này đã làm rõ những quan điểm khoa học về
quyền con người trong tố tụng hình sự và những tiêu chí quốc tế về nhân quyền;
Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về việc bảo vệ quyền con người trong tố
tụng hình sự đồng thời chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của nó đối với việc bảo vệ
quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án; Đề tài cũng đưa ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự. Khía
cạnh mà đề tài này đề cập đến là các quyền con người nói chung trong hoạt động tố
tụng hình sự. Tuy nhiên, trong hoạt động tố tụng hình sự, các quyền con người được
đề cập đến phần lớn là các quyền của những người bị tước tự do trong lĩnh vực tư
pháp hình sự. Bên cạnh những người bị tước tự do, đề tài này cũng phản ánh đến
quyền của những người tham gia tố tụng hình sự mà không bị tước tự do như là các
bị can, bị cáo (trong nhiều trường hợp họ không bị tước tự do).

5



Nhóm thứ ba: bao gồm các công trình nghiên cứu là luận văn, luận án, các
bài viết đăng trên Tạp chí chuyên ngành. Trong đó, đáng chú ý như:
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự Việt Nam – Luận án của nghiên cứu sinh Lại Văn Trình, chuyên ngành hình
sự, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2011. Luận án đã làm rõ
thêm một số vấn đề lý luận về quyền con người và đảm bảo quyền con người của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự; hệ thống hóa được các biện
pháp đảm bảo; làm rõ được các đặc điểm chung và những đòi hỏi đặc thù trong việc
đảm bảo quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố
tụng khác nhau. Luận án đã phân tích tìm ra các hạn chế, bất cập trong vấn đề này
và nguyên nhân để tìm ra giải pháp kiến nghị, sửa đổi bổ sung BLTTHS theo hướng
tích cực hơn nhằm bảo vệ tốt hơn cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Luận văn thạc sĩ luật học về “Thi hành án phạt tù ở Việt Nam - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Anh Hào, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2002;
Luận văn thạc sĩ luật học về “Hình phạt tù và thi hành hình phạt tù - những
vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Thị Thu Hằng, Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, năm 2009;
Luận án tiễn sĩ luật học về “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư
pháp” của Nguyễn Huy Hoàng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Năm 2004;
Luận án tiễn sĩ luật học về “Phòng ngừa tội phạm thông qua hoạt động thi
hành án phạt tù của lực lượng Cảnh sát nhân dân hiện nay” của Lê Văn Thư, Học
viện cảnh sát nhân dân, năm 2004;
Luận văn Thạc sĩ luật học của Trần Thị Thu Hằng, Khoa Luật – ĐHQG Hà
Nội, năm 2009;
Một số vấn đề chủ yếu về pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam trong việc
bảo vệ các quyền con người, Luận văn Thạc sĩ luật học, của Hứa Thị Thơ, Khoa

Luật – ĐHQG Hà Nội, năm 2012.

6


Tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy, các công trình khoa học, các bài báo,
luận văn, luân án, sách chuyên khảo trong chừng mực nhất định đã góp phần làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về quyền công dân và bảo
đảm quyền công dân của phạm nhân trong thi hành phạt tù. Tuy vậy, cho đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt về bảo đảm
quyền công dân của phạm nhân - từ thực tiễn các trại giam miền Trung. Luận văn là
công trình khoa học nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên biệt về “Bảo vệ
quyền công dân của phạm nhân - từ thực tiễn các trại giam khu vực miền Trung”,
dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là, làm rõ thực trạng bảo vệ quyền
công dân của phạm nhân trong các trại giam khu vực miền Trung, để đề xuất các
giải pháp cơ bản nhằm tăng cường bảo vệ quyền công dân của phạm nhân trong các
trại giam nói chung, khu vực miền Trung nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận về bảo vệ quyền công dân của phạm nhân
trong các trại giam.
Thứ hai, phân tích thực trạng bảo vệ quyền công dân của phạm nhân trong các
trại giam khu vực miền Trung trong thời gian từ 2013 đến nay, qua đó đánh giá về
những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn
chế, yếu kém này.
Thứ ba, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm bảo vệ quyền công dân của

phạm nhân trong các trại giam nói chung, khu vực miền Trung nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hiện hành và
tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại
giam khu vực miền Trung.

7


4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Dưới góc độ nghiên cứu của Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, bảo vệ
quyền công dân của phạm nhân là một vấn đề có nội dung rộng lớn và phức tạp. Vì
vậy, về không gian luận văn nghiên cứu về bảo vệ quyền công dân của phạm nhân
tại 21 trại giam do Tổng Cục VIII – Bộ Công an quản lý, đóng trên 19 tỉnh thuộc
khu vực miền Trung trong thời gian từ 2013 đến nay, trong đó tập trung vào 04 trại
giam là: Trại giam Kim Sơn (Hoài Ân, Bình Định), Trại giam A2 (Diên Khánh,
Khánh Hòa), Trại giam Sông Ái (Bắc Ái, Ninh Thuận) và Trại giam Xuân Phước
(Đồng Xuân, Phú Yên).
Về nội dung, luận văn nghiên cứu về các cơ chế bảo vệ đối với các nhóm
quyền công dân của phạm nhân theo quy định của pháp luật hiện hành.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lêin; tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước Việt Nam về quyền công dân và bảo vệ quyền công dân của phạm
nhân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích và nội dung nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như sau:

+ Phương pháp phân tích: dùng để phân tích những vấn đề lý luận về quyền
con người, quyền công dân, nguyên tắc bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại
Chương 1 và các quy định của pháp luật tại Chương 2; phân tích tình tình bảo vệ
quyền công dân của phạm nhân, chỉ rõ những ưu, nhược điểm và nguyên nhân của
chúng ở Chương 2.
+ Phương pháp thống kê: để thống kê tình hình phạm nhân và tình hình bảo
đảm quyền công dân của phạm nhân tại địa bàn nghiên cứu.
+ Phương pháp tổng hợp: trên cơ sở kết quả nghiên cứu và hệ thống lý luận,
nguyên tắc, luận văn tổng hợp nên các nội dung phương hướng, các giải pháp nhằm

8


tăng cường hiệu quả bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam ở miền
Trung nói riêng, các trại giam ở nước ta nói chung.
+ Phương pháp so sánh: để tăng cường tính thuyết phục cho các luận điểm
được đưa ra, luận văn sử dụng phương pháp so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan
trọng vào lý luận và thực tiễn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp phần hoàn
thiện hệ thống lý luận về bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con
người của một nhóm chủ thể dễ bị tổn thương là phạm nhân bị tước bỏ quyền tự do
đi lại và một số quyền công dân khác nói riêng.
Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể làm tư liệu
tham khảo cho các nhà nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân về hoạt
động tố tụng hình sự đặc biệt là hoạt động thi hành án hình sự.
Những giải pháp được luận giải thuyết phục từ cơ sở để xuất đến nội dung giải
pháp và các điều kiện bảo đảm thực hiện từng giải pháp trong luận văn sẽ giúp các
nhà quản lý trong tham mưu, đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo đảm
quyền con người, quyền công dân của phạm nhân.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về bảo vệ quyền công dân của
phạm nhân
Chương 2: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam ở miền
Trung Việt Nam hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường bảo vệ quyền công dân
của phạm nhân tại các trại giam ở Việt Nam hiện nay

9


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ BẢO VỆ QUYỀN CÔNG DÂN CỦA PHẠM NHÂN
1.1. Quyền công dân và quyền công dân của phạm nhân
1.1.1. Quyền công dân
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền công dân
Quyền công dân về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất hiện cùng
với cách mạng tư sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tư sản đã biến
con người (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị thần dân trong Nhà nước quân
chủ sang địa vị công dân trong Nhà nước cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái
niệm công dân là đề cập tới một bộ phận con người, theo quy định của pháp luật với
tư cách là những thành viên bình đẳng trong Nhà nước, từ đó mà quyền con người
được thừa nhận một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân.
Nhưng quyền công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng
của quyền con người, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và
mối quan hệ đó được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định
quốc tịch.

Nếu xét về phương diện ngữ nghĩa của từ thì thuật ngữ “quyền công dân”
được phân tích cụ thể như sau:
“Quyền” theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, là: “1. Điều mà pháp luật
hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi (quyền công dân,
quyền bầu cử và quyền ứng cử); 2. Những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm
(nói tổng quát. Có chức có quyền. lạm dụng quyền” [1, tr.815].
Tuy nhiên, dù với cách giải thích thứ hai, “quyền” vẫn là những gì “mà pháp
luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”, là khả năng
xử sự nhất định của cá nhân, tổ chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi từ cộng

1

Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

10


đồng xung quanh. “Công dân” theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, là “người
dân, trong mối quan hệ về mặt quyền lợi và nghĩa vụ với Nhà nước” [2, tr.207].
Khi con người được coi là công dân, quyền công dân chính là quyền con
người trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ xã hội - chính trị cụ thể.
Như vậy trên bình diện phân tích về ngữ nghĩa của câu từ chúng ta có thể
hiểu quyền công dân là những quyền của những con người được hiến pháp và pháp
luật của một quốc gia nhất định ghi nhận và bảo vệ.
Về khái niệm quyền công dân C. Mác cho rằng: “Quyền công dân là những
quyền chính trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên "xã hội
công dân” [3, tr.14]. Tại Việt Nam hiện vẫn tồn tại một số khái niệm khác nhau về
quyền công dân như theo tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc:
Quyền công dân - đó là sự thể chế hóa về mặt Nhà nước bằng
pháp luật địa vị con người trong khuôn khổ Nhà nước, là sự thừa nhận,

trong chừng mực mà Nhà 4nước chấp nhận, địa vị con người của cá
nhân trong Nhà nước [, tr.75].
Tiến sỹ Vũ Công Giao cho rằng: “Quyền công dân là tập hợp
những quyền tự nhiên được pháp luật của một nước quy định, mà tất cả
những người có chung quốc tịch của nước đó được hưởng một cách bình
đẳng” [5, tr.21].
Thực ra, khái niệm quyền công dân không phải dùng để chỉ các quyền cụ thể
của công dân là quyền nào mà là khái niệm có tính chất là tiêu chí đánh giá, hàm ý
chỉ rằng Nhà nước đã ghi nhận và bảo đảm cho công dân, quyền con người như thế
nào trong các quyền và trong các nghĩa vụ cụ thể của công dân. Tính cụ thể của khái
niệm chỉ là chỗ nó không tồn tại độc lập như khái niệm quyền con người mà phải
gắn với các quy định của pháp luật, phải qua việc xem các quy định cụ thể về quyền
và nghĩa vụ của một hệ thống pháp luật như thế đã phản ánh quyền công dân như
thế nào. Thông qua quyền công dân trong một hệ thống pháp luật, người ta có thể
2

Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1998), Về quyền con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4
Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2000), Một số bài viết về quyền con người của các tác giả Việt Nam, Tài
liệu phục vụ tọa đàm, Hà Nội.
5
Vũ Công Giao (2001), Cơ chế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền, Luận án thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
3

11


biết nó đã thể hiện quyền con người như thế nào. Quyền công dân khác với khái
niệm “quyền cơ bản” của công dân được ghi nhận trong các bản hiến pháp, nó mang

tính chất cụ thể chỉ các lợi ích cơ bản mà pháp luật ghi nhận cho công dân. Cần
nhấn mạnh rằng quyền cơ bản của công dân là quyền được thể hiện trong các quy
định cụ thể cho cả quyền và cả nghĩa vụ cơ bản cho đối với công dân.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể hiểu thuật ngữ quyền công dân dưới
hai phương diện theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp như sau:
Theo nghĩa rộng: Quyền công dân được hiểu là quyền con người giới hạn
trong phạm vi các đặc tính xã hội của con người và trong phạm vi một quốc gia,
một chế độ chính trị trong đó con người tồn tại.
Theo nghĩa hẹp: Quyền công dân là các quyền cụ thể của con người được
pháp luật của một quốc gia ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Quyền công dân có những đặc điểm sau:
Một là quyền công dân là một bộ phận của quyền con người.
Quyền con người xét về nguồn gốc tự nhiên là quyền của tất cả các cá nhân,
không liên quan đến việc nó có được ghi nhận trong pháp luật một Nhà nước cụ thể
nào không. Quyền công dân lại là các quyền được thể hiện trong pháp luật của một
nước ghi nhận (dưới dạng là các quyền và nghĩa vụ cụ thể) và bảo đảm thực hiện
trong một Nhà nước cụ thể. Nội hàm của khái niệm “quyền con người” rộng hơn
khái niệm “quyền công dân”, hay nói cách khác, “quyền công dân” là một bộ phận
của “quyền con người”. So với khái niệm quyền con người, khái niệm quyền công
dân mang tính xác định hơn, gắn liền với mỗi quốc gia, được pháp luật của mỗi
quốc gia quy định. Và do gắn với đặc thù của mỗi quốc gia mà nội dung, số lượng,
chất lượng của quyền công dân ở mỗi quốc gia thường không giống nhau. Tuy
nhiên, không có sự đối lập giữa quyền con người và quyền công dân trong quy định
của các nước.
Trong mỗi quốc gia, quyền công dân trong nội dung là sự thể hiện cụ thể của
quyền con người, khó có thể phân định một cách thật sự rạch ròi quyền con người,
quyền công dân theo quan điểm quyền con người là quyền tự nhiên, quyền công dân
là do pháp luật quy định; hay quyền con người là do luật quốc tế quy định, quyền

12



công dân là do pháp luật quốc gia quy định. Việc nhận thức giá trị và bản chất của
quyền con người có vai trò quyết định trực tiếp trong việc xây dựng các quy chế
pháp lý về quyền công dân trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Việc ghi
nhận và bảo đảm thực hiện các quyền công dân chính là đã thực hiện nội dung cơ
bản của quyền con người.
Trong văn kiện quốc tế đặc biệt quan trọng là Tuyên ngôn thế giới về quyền
con người và các Công ước quốc tế về quyền con người, theo đó, quyền con người
là nhân phẩm, các nhu cầu (về vật chất và tinh thần), lợi ích cùng với nghĩa vụ của
con người được thể chế hoá trong các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia. Còn quyền công dân phản ánh, thể hiện là quyền con người, là những giá
trị gắn liền với một Nhà nước nhất định và được Nhà nước đó bảo đảm thực hiện
bằng pháp luật dựa trên mối liên hệ pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với
một Nhà nước cụ thể.
Hai là quyền công dân được ghi nhận trong hệ thống pháp luật và được bảo
đảm thực hiện.
Sự xác lập các quyền nghĩa vụ này tạo thành một chế định quan trọng của
Luật Hiến pháp - chế định quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Ở nhiều nước chế
định này gọi là quyền và nghĩa vụ của công dân (Nhật Bản), quyền và nghĩa vụ của
con người và công dân (Nga). Nhưng với đặc trưng được ghi nhận trong Hiến pháp,
tức được điều chỉnh bằng Hiến pháp, mà Hiến pháp là đạo Luật cơ bản nên các
quyền và nghĩa vụ này ở nhiều nước thường gọi là quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành sử dụng cách gọi quyền và nghĩa
vụ cơ bản của nhân dân. Với sự ghi nhận bằng pháp luật các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm bảo đảm quyền công dân được thực hiện và có cơ chế xử lý đối với
hành vi vi phạm quyền công dân của bất cứ đối tượng nào kể cả cơ quan quyền lực
Nhà nước.
Ba là quyền công dân gắn liền với vấn đề về quốc tịch.
Trong một quốc gia thì không chỉ có công dân của quốc gia đó mà còn có thể

có công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch, thậm chí có người mang nhiều
quốc tịch. Hay nói cách khác không phải mọi cá nhân sinh sống trên lãnh thổ của

13


một quốc gia đều được coi là công dân của quốc gia đó. Một cá nhân muốn trở
thành công dân thì cần những điều kiện nhất định. Những điều kiện đó có thể giống
hoặc khác nhau tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia nhất định.
Để trở thành công dân của một nước, các cá nhân bao giờ cũng phải có quốc
tịch của nước đó. Tư cách công dân mang đến cho cá nhân một địa vị pháp lý đặc
biệt trong quan hệ với nước mà họ mang quốc tịch. Đó chính là tất cả các quyền và
nghĩa vụ của công dân. Các quyền và nghĩa vụ này tồn tại đối với công dân trong
quan hệ với Nhà nước mà họ mang quốc tịch, ngay cả trong trường hợp họ sống ở
nước ngoài. Những người không phải là công dân (người không có quốc tịch, người
nước ngoài) có thể sẽ không có được hoặc chỉ có các quyền, nghĩa vụ của nước sở
tại ở mức độ hạn chế. Một số quyền, nghĩa vụ mà họ sẽ không được hưởng như:
quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, tham gia nghĩa
vụ quân sự và xây dựng quốc phòng toàn dân... Dựa trên những điều kiện cụ thể của
mình mà Nhà nước quy định cho công dân những quyền và phải thực hiện những
nghĩa vụ nhất định. Nhưng bất luận thế nào thì các quyền và nghĩa vụ này cũng nói
lên một điều rằng, quyền công dân cũng như quyền con người đã được ghi nhận và
bảo đảm như thế nào, tiến bộ hay lạc hậu.
Có thể nói, việc đặt ra khái niệm công dân có một ý nghĩa rất quan trọng.
Điều này thể hiện, nếu là công dân của một Nhà nước thì người đó được hưởng đầy
đủ các quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà Nhà nước đó quy định. Còn
những người không phải là công dân của nước sở tại thì quyền và nghĩa vụ của họ
bị hạn chế trong một số lĩnh vực như: họ không có quyền tham gia quản lý Nhà
nước và xã hội; không có quyền bầu cử; ứng cử; họ cũng không phải thực hiện
nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân,… Mặt khác, khái

niệm công dân thể hiện mối quan hệ pháp lý có tính chất đặc biệt, tồn tại trong cả
trường hợp công dân nước đó đã ra nước ngoài sinh sống nhưng vẫn còn mang quốc
tịch. Việc sinh sống ở trong hay ngoài nước sẽ không ảnh hưởng đến tư cách công
dân khi họ vẫn mang quốc tịch nước đó.

14


1.1.1.2. Phân loại quyền công dân
Tới thời điểm hiện nay, tùy theo mỗi quốc gia, mỗi chế độ chính trị khác
nhau mà hệ thống các quyền công dân được thể hiện ở những mức độ khác nhau
nhưng tựu chung lại vẫn có những cách phân loại cơ bản sau:
Căn cứ vào nhu cầu bảo đảm sự tồn tại và phát triển của con người thì quyền
công dân được chia thành 02 nhóm sau:
Nhóm quyền được bảo đảm những điều kiện xã hội để con người tồn tại bao
gồm: quyền có công ăn việc làm; quyền cư trú, đi lại; quyền bất khả xâm phạm về
thân thể; quyền được bảo đảm chỗ ở; quyền an ninh chính trị; quyền tự do kết hôn;
quyền sở hữu và thừa kế tài sản;...
Nhóm quyền tự do lựa chọn các hoạt động sáng tạo, quyền được sáng tạo để
tự biểu hiện mình như một nhân cách bao gồm: quyền được học hành và nâng cao
học vấn; quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp; quyền được xã hội đào tạo nghề
nghiệp; quyền tự do ngôn luận; quyền tự do bầu cử và ứng cử; quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; quyền đấu tranh bảo vệ lẽ phải, chân lý;...
Căn cứ vào các lĩnh vực đời sống xã hội, các phương diện hoạt động của cá
nhân thì quyền công dân bao gồm:
Nhóm quyền trong lĩnh vực chính trị: Gồm các quyền như quyền tham gia
quản lý Nhà nước; quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực Nhà nước;
quyền tự do ngôn luận, tự do báo trí, hội họp, lập hội biểu tình theo quy định của
pháp luật đây; quyền khiếu nại, tố cáo...
Nhóm quyền trong lĩnh vực kinh tế: Gồm các quyền như quyền lao

động; quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật; quyền sở hữu tư
liệu sản xuất...
Nhóm quyền trong lĩnh vực văn hóa - xã hội: Quyền học tập; quyền nghiên
cứu khoa học; quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền bình đẳng nam - nữ; quyền được
bảo hộ về hôn nhân và gia đình; quyền được hưởng ưu đãi và chăm sóc; quyền được
thông tin...
Nhóm quyền trong lĩnh vực tự do cá nhân: Gồm các quyền như quyền tự do
tín ngưỡng; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được bồi thường thiệt hại

15


về vật chất và phục hồi danh dự; quyền bí mật thư tín, điện thoại; quyền tự do đi lại
và cư trú…
Căn cứ theo phương pháp tiếp cận của khoa học pháp lý thì quyền công dân
được phân chia thành các nhóm sau:
Nhóm các quyền và tự do dân chủ về chính trị: Gồm có các quyền như quyền
tham gia quản lý Nhà nước và xã hội; quyền bầu cử, ứng cử; quyền bình đẳng nam
nữ; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin; quyền tự do tín
ngưỡng;...
Nhóm các quyền về dân sự bao gồm: Gồm các quyền như quyền tự do đi lại
cư trú trong nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền khiếu nại, tố cáo;...
Các quyền về kinh tế - xã hội: Gồm các quyền như quyền lao động; quyền tự
do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế; quyền học tập;...
Mặc dù có nhiều các phân loại thành nhiều nhóm quyền dựa vào các căn
cứ khác nhau nhưng sự phân định giữa các nhóm quyền này chỉ mang tính chất
tương đối.
Ở nước ta, Hiến pháp 10 năm 2013 là văn kiện chính trị - pháp lý có giá trị

tối thượng để bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam hiện
nay. Hiến pháp đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự,
kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được tại chương V thì ở Hiến pháp năm
2013 chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là
chương II, chỉ xếp sau chương về chế độ chính trị. Đây không phải là sự ngẫu nhiên
hoặc cơ học mà đây là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con người
trong Hiến pháp. Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân
và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền
công dân; thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
Về tên chương cũng có sự thay đổi, nếu như ở Hiến pháp năm 1992 là
"Quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân", đến Hiến pháp năm 2013 chương này có tên

16


là "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân". Qua đó để khẳng định
quyền con người được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo vệ theo Công
ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. So với Hiến pháp năm 1992 thì
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ quyền con người, quyền công dân chỉ sẽ hạn chế
trong một số trường hợp nhất định, tránh tình trạng xâm phạm quyền con người,
quyền công dân. Ngoài một số nội dung cơ bản trên, Hiến pháp năm 2013 quy định
về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân đã quy định rõ ràng, cụ thể
và bổ sung đầy đủ hơn so với Hiến pháp năm 1992 như gộp các Điều 65, 66, 67 và
bổ sung thêm một số nội dung thành Điều 37 Hiến pháp năm 2013; tách Điều 53
Hiến pháp năm 1992 quy định về công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng
cầu ý dân thành Điều 29 Hiến pháp năm 2013: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên
có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”.
Về cách thức thể hiện, Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới quan trọng theo
hướng ghi nhận mọi người có quyền, công dân có quyền và quyền con người là

quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của
người có quốc tịch Việt Nam… Để mọi người, công dân thực hiện quyền của mình
thì Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành văn
bản pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người và công dân thực hiện đầy
11 đủ các quyền của mình. Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là sự kế thừa tinh hoa tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong Hiến pháp năm 1946, đồng thời, đã thể chế hóa chủ trương,
đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người, coi con người
là chủ thể, là động lực quan trọng của sự phát triển đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
1.1.2. Quyền công dân của phạm nhân
1.1.2.1. Khái niệm phạm nhân
Phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân
(Khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự).

17


Một con người được coi là phạm nhân khi họ phạm tội bị kết án phạt tù và
được đưa đến trại giam để chấp hành bản án, đồng thời với việc trở thành phạm
nhân họ có một địa vị pháp lý hoàn toàn khác với các công dân bình thường ngoài
xã hội. Phạm nhân bị tước hoặc bị hạn chế một số quyền tự do cơ bản như: hội họp,
biểu tình, tự do cư trú, đi lại, bầu cử, ứng cử. v.v... nhưng không có nghĩa là đã mất
quyền công dân. Họ còn các quyền và nghĩa vụ chủ yếu như: lao động, học tập, bảo
vệ sức khoẻ, bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, khiếu
nại, tố cáo v.v...
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới nêu:
Tăng cường và đổi mới công tác cảm hoá, giáo dục giúp đỡ những người phạm tội

được đặc xá, tha tù, người mắc tệ nạn xã hội tại cộng đồng và tại các trại giam, cơ
sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng với những hình thức phù hợp.
Quan tâm hỗ trợ những người lầm lỗi đã cải tạo tốt để sớm ổn định cuộc sống, tái
hoà nhập cộng đồng.[6]
Tại Điều 27 Bộ luật Hình sự nêu rõ mục đích của hình phạt: Hình phạt không
chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho
xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.[7]
Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định buộc
phạm nhân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành có ích
cho xã hội. Từ những quan điểm trên cho thấy: Phạm nhân là các công dân có vị trí
pháp lý đặc biệt. Chính vị trí này là cơ sở để các cơ quan thi hành án phạt tù áp
dụng các biện pháp cưỡng chế và giáo dục đặc thù đối với họ, nhằm mục đích giáo
dục họ trở thành người lương thiện. Việc họ bị giam giữ trong trại giam không có
nghĩa chỉ là để trừng phạt, bảo đảm an toàn cho xã hội mà mục đích chủ yếu là giáo

6

Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Hà Nội.
7
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999, 2009), Bộ Luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung
năm 2009, Hà Nội.

18


dục họ trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật
và các qui tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội.

1.1.2.2. Khái niệm quyền công dân của phạm nhân
Quyền là khả năng của mỗi công dân được tự do lựa chọn và hành động, khả
năng đó được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước.
Nghĩa vụ là sự tất yếu phải hành động của mỗi công dân bởi lợi ích của toàn thể
Nhà nước và xã hội. Sự tất yếu đó được quy định trong Hiến pháp, pháp luật và
được bảo đảm bằng mọi biện pháp kể cả biện pháp cưỡng chế. Khi nói đến quyền
thường gắn liền với nghĩa vụ. Chính điều đó tạo nên địa vị pháp lý của công dân
trong một chế độ Nhà nước.
Trong thực tiễn công tác tổ chức thi hành hình phạt tù, việc hiểu rõ người
đang chấp hành hình phạt tù có những quyền gì, những quyền gì của công dân họ bị
tước bỏ hoặc bị hạn chế và nghĩa vụ thế nào có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
cơ quan thi hành án. Điều quan trọng được thể hiện ở chỗ, nó không chỉ dừng lại ở
mức độ nhận thức, mà còn thể hiện trong việc vận dụng các quy định của pháp luật
trong công tác quản lý, giáo dục người phạm tội hướng tới mục đích trả về cho xã
hội những con người hoàn lương. Đồng thời trên cơ sở đó tiến hành các biện pháp
quản lý, giáo dục, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Ở nước ta cũng như một số nước trên thế giới, không có văn bản quy phạm
pháp luật nào quy định đầy đủ hết quyền và nghĩa vụ của người đang chấp hành
hình phạt tù, mà quyền và nghĩa vụ của họ được quy định ở nhiều văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau, trong các ngành luật khác nhau trong hệ thống pháp luật
Việt Nam như Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật
Dân sự, Luật Thi hành án hình sự,… Qua nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam
cho thấy, ngoài các quy định trong pháp luật thi hành hình phạt tù còn có các căn cứ
khác xác định địa vị pháp lý của người đang chấp hành hình phạt tù, như:
Khoản 4 Điều 3 Bộ luật Hình sự: Đối với người bị phạt tù thì buộc họ 12
phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người
có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt.
Điều 39 Bộ luật Hình sự quy định: Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm

19



×