Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ HỒNG PHƯỢNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI,
TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP - LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ HỒNG PHƯỢNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI,


TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP - LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HUỲNH VĂN THỚI

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được
thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, khảo sát tình hình thực tiễn và
sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Huỳnh Văn Thới.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Học viên
Trần Thị Hồng Phượng


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến lãnh đạo Học
viện Hành chính Quốc gia, cùng tập thể các giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ và cán
bộ quản lý của Học viện đã tận tình truyền đạt những kiến thức khoa học quý
báu và tạo các điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành chương trình cao học
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

Xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Huỳnh Văn Thới đã tận tình hướng
dẫn bản thân tôi nghiên cứu hoàn thành tốt luận văn này.
Trong quá trình thực hiện, luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự thông cảm và chia sẻ của quý thầy,
cô giáo và người đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Trần Thị Hồng Phượng


MỤC LỤC

TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
PHỤ LỤC
DANH TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ ...................................................................... 8
1.1. Những vấn đề chung về thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở .......... 8
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở ............................. 8
1.1.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở ......................... 13
1.1.3. Hình thức thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở............................ 19
1.1.4. Vai trò thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở ................................ 21
1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở .......................... 23
1.2.1. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật ....................................................... 23
1.2.2. Chỉ đạo triển khai thực hiện ............................................................... 24
1.2.3. Xây dựng chương trình, tài liệu .......................................................... 28

1.2.4. Xây dựng, phát triển đội ngũ thực hiện pháp luật hòa giải ở cở sở28
1.2.5. Bảo đảm điều kiện thực hiện ............................................................... 33
1.2.6. Kiểm tra, đánh giá công tác thực hiện ............................................... 40
1.3. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở của một số
địa phương .............................................................................................. 41
1.3.1. Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại một số địa phương ...... 41


1.3.2. Kinh nghiệm đúc kết cho công tác thực hiện pháp luật về hòa giải ở
cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi .................................................. 45
Tiểu kết Chương 1 .................................................................................. 46
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ
SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG
NGÃI ....................................................................................................... 47
2.1. Ảnh hưởng của đặc điểm tự nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã
hội đối với công tác thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa
bàn thành phố Quảng Ngãi .................................................................... 47
2.1.1. Ảnh hưởng của tự nhiên.......................................................................... 47
2.1.2. Ảnh hưởng của chính trị........................................................................ 47
2.1.3. Ảnh hưởng của kinh tế .......................................................................... 48
2.1.4. Ảnh hưởng của văn hóa - xã hội ........................................................... 48
2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên
địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi ................................ 50
2.2.1. Chỉ đạo, triển khai thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở ............. 69
Tiểu kết Chương 2 ................................................................................... 81
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI ............................ 82
3.1. Phương hướng hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật về hòa giải ở
cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi .................... 82

3.1.1. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về hòa
giải, xác định đó là một định chế xã hội phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ở cơ sở...................................................................................................... 82
3.1.2. Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Tư pháp và đội ngũ cán bộ
Tư pháp – Hộ tịch xã đối với công tác hòa giải ở cơ sở.............................. 82


3.1.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở; tiếp tục
đảm bảo cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải ở cơ sở .............. 83
3.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa chính quyền với các đoàn thể, tổ chức
chính trị trong thực hiện hòa giải ở cơ sở .................................................... 85
3.1.5. Hòa giải ở cơ sở phải phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội ......... 85
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa
bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay ....................... 86
3.2.1. Giải pháp trước mắt ............................................................................ 86
3.2.2. Giải pháp lâu dài ................................................................................. 87
Tiểu kết Chương 3 ................................................................................... 95
KẾT LUẬN .............................................................................................. 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HĐPHCTPBGDPL : Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
PBGDPL


: Phổ biến giáo dục pháp luật

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBMT

: Ủy ban Mặt trận


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN

Biểu đồ 2.1: Thống kê thành phần tổ hòa giải trên địa bàn thành phố
Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi .................................................................. 61
Biểu đồ 2.2: Thống kê hòa giải viên theo trình độ trên địa bàn thành phố
Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi .................................................................. 62
Biểu đồ 2.3: Thống kê vụ việc hòa giải theo lĩnh vực (từ năm 2014 đến
2016) trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi ................... 64


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế của nước ta, đời
sống của người dân không ngừng được nâng cao, các quan hệ xã hội, các
quan hệ kinh tế, dân sự phát sinh không ngừng và ngày càng phong phú, đa
dạng, dẫn đến các tranh chấp ngày càng nhiều và phức tạp. Góp phần giải
quyết hiệu quả các tranh chấp, khiếu kiện của người dân; củng cố tinh thần
đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền
thống tốt đẹp trong gia đình, trong cộng đồng; ngăn ngừa và hạn chế vi

phạm pháp luật, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, công tác hoà giải ở cơ sở
đã trở thành yếu tố quan trọng và không thể thiếu trong đời sống xã hội.
Hoà giải ở cơ sở không chỉ đơn thuần góp phần hạn chế các tranh chấp dân
sự và phòng ngừa tội phạm, vận động nhân dân sống và làm việc theo pháp
luật, củng cố tình làng, nghĩa xóm, tăng cường tình đoàn kết trong cộng
đồng dân cư mà còn góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh, tế xã hội. Duy trì,
phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hoà giải
ở cơ sở cũng chính là góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản
lý nhà nước, quản lý xã hội của Nhà nước, giảm bớt các vụ việc phải giải
quyết tại Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tiết kiệm thời gian
và chi phí cho nhà nước và nhân dân, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế xã
hội phát triển.
Với ý nghĩa đó, Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ở cơ sở,
thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi
phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp
luật”. Trên cơ sở quy định này của Hiến pháp, ngày 25/12/1998 Ủy ban
1


Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải
ở cơ sở; ngày 18/10/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 160/1999/NĐCP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà
giải ở cơ sở. Tuy nhiên, trong công cuộc đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát
huy dân chủ, xuất phát từ vai trò và ý nghĩa quan trọng của công tác hòa
giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội, từ tình hình tổ chức, hoạt động hòa
giải ở cơ sở trong thời gian qua và thực trạng pháp luật hiện hành về lĩnh
vực này, các chuyên gia pháp luật cho rằng, việc ban hành Luật Hòa giải cơ
sở sẽ đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống khi mà các mâu thuẫn
và tranh chấp trong nhân dân ngày càng tăng và rất đa dạng, do đó, cần xây
dựng khung pháp lý cao hơn nhằm điều chỉnh hoạt động hòa giải ở cơ sở,

tiết kiệm thời gian, kinh phí cho Nhà nước và nhân dân. Từ các vấn đề thực
tiễn nêu trên, việc ban hành Luật Hòa giải ở cơ sở là hết sức cần thiết.
Ngày 20/6/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật Hòa giải ở cơ sở (Luật), Luật có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2014.
Trong những năm qua, các cấp ủy đảng, chính quyền thành phố
Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của công
tác hòa giải ở cơ sở trong việc đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, an
ninh trật tự ở địa phương. Do đó, đã có những biện pháp phù hợp nhằm duy
trì, củng cố và phát triển công tác hoà giải, tạo cơ sở pháp lý cho công tác
này không ngừng phát triển và tác động tích cực đối với đời sống xã hội.
Tuy nhiên, từ thực tiễn thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở cho thấy vẫn
còn nhiều bất cập và hạn chế nhất định, công tác hòa giải vẫn chưa phát
huy hết vai trò, ý nghĩa của nó, nhiều đơn vị, địa phương còn xem nhẹ công
tác này, một số cấp ủy, chính quyền ở địa phương chưa thật sự quan tâm
đúng mức đến hoạt động hòa giải ở cơ sở, chưa bố trí kinh phí cho hoạt
2


động hòa giải ở cơ sở; một số địa phương chưa thực hiện hỗ trợ kinh phí
cho hòa giải viên theo quy định,…Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không
nhỏ đến quá trình thực thi pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành
phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
Để góp phần nghiên cứu lý luận, bám sát thực tiễn để tìm ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và các giải pháp tổ chức
thực hiện có hiệu quả pháp luật về hòa giải ở cơ sở trong thời gian tới, tác
giả chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn
thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc
sĩ Luật Hiến pháp - Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong những năm gần đây, thực trạng tình hình nghiên cứu về thực
hiện pháp luật và hoạt động hòa giải ở cơ sở đã được một số nhà nghiên cứu
chú ý đến và đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập tới nội dung
này ở nhiều khía cạnh khác nhau, cụ thể có một số công trình nghiên cứu, bài
viết có nội dung liên quan đến vấn đề này sau đây:
- Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa
bàn huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thị Bích Thủy, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, 2015.
- Đặc san Tuyên truyền pháp luật số 6/2014, Hội đồng phối hợp phổ
biến, giáo dục pháp luật Trung ương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2014.
- Sổ tay Pháp luật về hòa giải ở cơ sở, Nguyễn Thị Tố Nga, NXB
Chính trị quốc gia, Hà nội, 2014.

3


- “Hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở góp phần ổn định đời sống xã
hội”, Báo Tin Tức, số 3/2016.
- “Cần phân biệt giữa hòa giải ở cơ sở với hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai”, Báo Đăclăk, số 8/2015.
- “Sự ra đời của Luật Hòa giải ở cơ sở là một bước tiến quan trọng
cho hoạt động hòa giải ở cơ sở”, Trang web Trường Đại học kiểm sát Hà
Nội.
- Thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở, số 7/2016, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật.
- Một số bài viết bình luận nằm rải rác ở trong các tạp chí, báo chí
khác.
Các giáo trình, bài viết liệt kê trên đã đề cập, phân tích việc thực hiện
pháp luật hòa giải ở cơ sở và hoạt động hòa giải ở cơ sở ở nhiều khía cạnh

khác nhau, song chủ yếu đề cập đến công tác quản lý nhà nước trong tổ chức
triển khai Luật Hòa giải ở cơ sở và chưa có bài viết chuyên sâu vấn đề thực
hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi trong những năm gần đây. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy
định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở và việc triển khai thực hiện trên địa
bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi và đưa ra những phương
hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hòa giải ở
cơ sở là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đi sâu phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi,
4


tỉnh Quảng Ngãi. Trên cơ sở đó, đề xuất những quan điểm chỉ đạo và các
giải pháp bảo đảm việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cở sở trên địa bàn
thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ:
- Khái quát một số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về thực hiện
pháp luật hòa giải ở cơ sở, phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và
vai trò của việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ
sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả
pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hoạt động thực hiện pháp luật
về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn khảo sát thực tiễn tại các xã, phường trên địa
bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014 đến năm 2016.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
5


về xây dựng nền dân chủ XHCN, về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN nói chung và về lý luận xây dựng pháp luật nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu văn bản: Được sử dụng để thu thập, phân tích
và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao
gồm các văn kiện của Đảng, văn bản luật pháp của các cơ quan nhà nước ở
Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, các thống kê
của tổ chức và cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc thực hiện pháp
luật về hòa giải ở cơ sở.
- Phương pháp xử lý thông tin: 1) thông tin định lượng, đề tài đã xử lý số
liệu và trình bày dưới nhiều dạng biểu đồ, đồ thị, giúp nhận dạng quá trình thực
hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở 2) thông tin định tính bổ sung thêm cứ liệu cho
thông tin định lượng, làm rõ hơn các ý tưởng mà dữ liệu định lượng chưa phản
ánh được hoặc phản ánh chưa đầy đủ.
- Phương pháp đánh giá: dùng để phân tích, đánh giá thực trạng công tác
thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay, từ đó tìm kiếm cơ sở đề xuất giải pháp
thực hiện có hiệu quả pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố

Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và
có hệ thống việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành
phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi từ khi Luật Hòa giải ở cơ sở được ban
hành.

6


- Luận văn phân tích, đánh giá một cách khá toàn diện về thực trạng
thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại địa phương. Trên cơ sở đó phát
hiện những điểm chưa hợp lý, những tồn tại vướng mắc để đề xuất phương
hướng và những giải pháp có tính khả thi nhằm nhằm đẩy mạnh và nâng
cao hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cở sở trên địa bàn
thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về thực hiện pháp luật về hòa
giải ở cơ sở
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên
địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện công tác thực hiện
pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi

7



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1.1. Những vấn đề chung về thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
Pháp luật về hòa giải ở cơ sở là một bộ phận cấu thành của hệ thống
pháp luật nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện pháp luật
về hòa giải ở cơ sở là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực trong xã hội, cụ
thể là lĩnh vực hòa giải ở cơ sở. Để làm sáng tỏ khái niệm thực hiện pháp
luật về hòa giải ở cơ sở, trước hết cần làm rõ những khái niệm có liên quan
như: hòa giải, hòa giải ở cơ sở, pháp luật về hòa giải ở cơ sở...
Trong lý luận khoa học cũng như trong thực tiễn tùy theo cách tiếp
cận khác nhau mà xuất hiện nhiều quan niệm về hòa giải.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thì hòa giải là:
“thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách
ổn thỏa” [46, tr.430].
Theo Từ điển Luật học thì hòa giải là: Tự chấm dứt việc xích mích,
tranh chấp giữa các bên bằng sự thương lượng với nhau hoặc qua sự trung
gian của một người khác. Hòa giải thành thì giữ gìn được sự đoàn kết giữa
các bên, tránh được việc kiện tụng kéo dài, tốn kém và những trường hợp
chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà biến thành việc hình sự [44, tr.208]. Quan niệm
này không phân biệt được phương thức thương lượng tự giải quyết với
phương thức hòa giải, vô hình đồng nhất người trung gian với người hòa
giải.

8


Một số luật gia lại cho rằng hòa giải là chế định pháp luật về hòa
giải, coi hòa giải như là một quy định, một trình tự, thủ tục để giải quyết

các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai… Trong khi đó, các
nhà hoạt động thực tiễn thì coi hòa giải là hành vi thuyết phục các bên
tranh chấp xóa bỏ những mâu thuẫn, bất đồng.
Trên thực tế đời sống xã hội, có nhiều loại hình hòa giải với phạm vi
điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh riêng, cũng như có nội dung, thủ tục
tiến hành, chủ thể tham gia và các đặc trưng pháp lý riêng. Vì thế, trên cơ
sở những điểm chung giống nhau giữa các loại hình hòa giải, có thể rút ra
một định nghĩa tổng quát về hòa giải như sau:
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp mà trong đó có sự tham
gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định làm vai
trò trung gian để hỗ trợ các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp
nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột và
chấm dứt các tranh chấp, bất hòa.
Hình thức hòa giải trong cộng đồng dân cư đã có từ lâu ở Việt Nam,
trước khi Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở (ngày
25/12/1998) được ban hành, và cũng được gọi là “hòa giải ở cơ sở”.
Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2014) tiếp tục kế thừa và phát triển khái niệm hòa giải ở cơ
sở. Tại Khoản 1 Điều 2 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định: “Hòa giải ở cơ sở
là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự
nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật
theo quy định của Luât này” [28].

9


Pháp luật về hòa giải ở cơ sở là những quy định của pháp luật dùng
để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động hòa giải ở cơ
sở.
Pháp luật về hòa giải ở cơ sở được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm

tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thầm
quyền ban hành có chứa đựng các quy phạm pháp luật về hòa giải ở cơ sở,
từ văn bản cao nhất là Hiến pháp cho đến các văn bản dưới luật khác.
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ở cơ sở thành lập các tổ
chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vi phạm pháp luật và
tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật” [25, tr.72]. Để
cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, ngày 25/12/1998 Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở;
ngày 18/10/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 160/1999/NĐ-CP
quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa
giải cơ sở. Ngoài ra còn có các văn bản khác như: Quyết định số
06/2008/QĐ-BTP ngày 26/5/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban
hành biểu mẫu thống kê về tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải ở cơ sở;
Chương trình phối hợp số 1285/CTPH-BTP-BTTUBTƯMTTQVN ngày
24/4/2009 giữa Bộ Tư pháp và Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam về tăng cường thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở;
Chỉ thị số 03/CT-BTP ngày 27/6/2011 về tăng cường công tác hòa giải ở cơ
sở…
Cùng với Hiến pháp 2013, Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và những
văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành của Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu
quan, các văn bản của UBND các cấp ban hành đã tạo nên một hệ thống
đồng bộ các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.

10


Như vậy, có thể định nghĩa pháp luật về hòa giải ở cơ sở như sau:
Pháp luật về hòa giải ở cơ sở là tổng thể các quy phạm pháp luật thể chế
hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, do cơ
quan Nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành nhằm điều chỉnh các

quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hòa giải ở cơ sở.
Thực hiện pháp luật là sự nối tiếp xây dựng pháp luật, gồm toàn bộ
các hoạt động nhằm đưa các quy phạm pháp luật vào đời sống xã hội và
sinh hoạt của công dân. Về bản chất, thực hiện pháp luật là quá trình hiện
thực hóa pháp luật, làm bộc lộ và phát huy những giá trị tiềm năng của
pháp luật trong thực tế. Trong thực hiện pháp luật, những hoạt động có tính
chủ động như sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật đòi hỏi phải có một cơ
chế tổ chức và nguồn lực lớn về con người lẫn vật chất mới có thể bảo đảm
thực hiện tốt.
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thực hiện pháp luật.
Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật của Khoa Nhà nước và Pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh nay là Viện Nhà nước - Pháp luật thuộc Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì thực hiện pháp luật được hiểu
là: “quá trình hoạt động có mục đích làm cho những qui định của pháp luật
trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực
tế của các chủ thể pháp luật” [18, tr.270].
Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học
Luật Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [18, tr.463].

11


Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học
viện Hành chính Quốc gia: Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình
làm cho những quy tắc của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các
chủ thể pháp luật.
Các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối đồng nhất về nội

dung cơ bản đó là: thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm thực
hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt động thực tế,
hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật
trở thành hiện thực trong cuộc sống. Tuy nhiên, cũng có sự khác nhau trong
các định nghĩa trên. Có định nghĩa nêu thực hiện pháp luật là một quá trình
hoạt động, các định nghĩa khác lại chỉ nêu thực hiện pháp luật là hiện
tượng, quá trình. Tóm lại, thực hiện pháp luật được thống nhất hiểu chung
là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các qui định của pháp luật trở
thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật và
được thực hiện trong thực tế cuộc sống.
Pháp luật về hòa giải ở cơ sở muốn đi vào thực tiễn đời sống xã hội
cần phải biến những quy định, những yêu cầu trong quy phạm pháp luật về
hòa giải ở cơ sở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể
pháp luật. Từ đó, có thể đưa ra định nghĩa về thực hiện pháp luật hòa giải ở
cơ sở như sau:
Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở là quá trình hoạt động có
mục đích làm cho những quy phạm pháp luật về hòa giải ở cơ sở đi vào
cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật nhằm góp phần giải quyết vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong
nhân dân; củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp
trong gia đình và cộng đồng dân cư; phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp

12


luật; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; giảm bớt một phần gánh nặng cho
tòa án và các cơ quan hành chính nhà nước, góp phần tạo sự ổn định để
phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
- Nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện của các bên, không bắt buộc, áp

đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở:
Hòa giải ở cơ sở là quá trình giải quyết tranh chấp giữa các bên trong
đó có sự tham gia của bên thứ ba - hòa giải viên giữ vai trò làm trung gian,
trung lập. Với vai trò trung gian ấy, hòa giải viên có nhiệm vụ thuyết phục,
giúp các bên tranh chấp tìm được tiếng nói chung để tự dàn xếp mâu thuẫn
một cách ổn thỏa. Vì lẽ đó, trước hết hòa giải viên phải tôn trọng sự tự
nguyện của các bên, tôn trọng ý chí của họ. Hòa giải viên chỉ đóng vai trò
là người trung gian hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên giải quyết
tranh chấp bằng con đường hòa giải chứ không áp đặt, bắt buộc các bên
phải tiến hành hòa giải. Nếu các bên không chấp nhận việc hòa giải thì hòa
giải viên không thể dùng ý chí chủ quan của mình mà bắt buộc họ phải tiến
hành hòa giải. Kể cả trường hợp hòa giải thành, nếu việc thực hiện thỏa
thuận giữa các bên có khó khăn thì hòa giải viên động viên, thuyết phục
các bên thực hiện thỏa thuận; kịp thời thông báo cho tổ trưởng tổ hòa giải
để báo cáo Trưởng ban công tác mặt trận những vấn đề phát sinh trong quá
trình theo dõi, đôn đốc thực hiện. Trưởng ban công tác mặt trận chủ trì,
phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, gia đình, dòng họ, người có
uy tín vận động, thuyết phục mà không áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành những thỏa thuận của họ. Vì vậy, mọi tác động đến tự do ý chí của
các bên như cưỡng ép, làm cho một trong hai bên bị lừa dối hay nhầm lẫn
đều không thể hiện đầy đủ ý chí tự nguyện của các bên.

13


- Nguyên tắc kết hợp bảo đảm phù hợp chính sách, pháp luật với
phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp:
Chính sách pháp luật của nhà nước là những định hướng cho các hoạt
động xã hội. Pháp luật của Nhà nước là những quy định chung thể chế hóa
đường lối, chính sách của Đảng, điều chỉnh những mối quan hệ xã hội có

tính phổ biến nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức và công dân. Các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán
tốt đẹp là các quy tắc xử sự có tính truyền thống trong quan hệ xã hội phù
hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân.
Chính sách pháp luật của Nhà nước cùng với đạo đức xã hội và phong tục
tập quán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình hòa giải viên
thực hiện nhiệm vụ của mình. Người hòa giải viên nếu biết kết hợp chính
sách, pháp luật của Nhà nước với các chuẩn mực đạo đức, phong tục tập
quán tốt đẹp của dân tộc ta sẽ là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên
sự thành công của hòa giải.
Để đạt được sự thành công đó, người hòa giải viên phải hiểu, nắm
vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trước hết,
cần nắm vững các văn bản pháp luật có liên quan mật thiết với công tác
hòa giải ở cơ sở như pháp luật dân sự (quan hệ tài sản, quan hệ hợp đồng
dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế...); pháp luật hôn nhân và gia đình (quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng, quan hệ cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn...);
pháp luật đất đai; pháp luật hành chính, pháp luật hình sự...
Bên cạnh việc nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, hòa giải viên cần nắm vững các phong tục, tập quán tốt đẹp
của địa phương để động viên, khuyên nhủ các bên dàn xếp mâu thuẫn,
tranh chấp nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu

14


số. Tuy nhiên việc vận dụng các phong tục tập quán, câu ca dao, tục ngữ
phải có sự chọn lọc cho phù hợp, tránh giáo lý, hủ tục lạc hậu. Ví dụ, ở Tây
Nguyên, hòa giải viên có thể kết hợp một số quy định tiến bộ trong luật tục
Êđê để hòa gải. Cụ thể trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, luật tục Êđê
coi trọng việc “vợ chồng kết hôn ăn ở bền vững, không bỏ nhau” hoặc luật

tục nhấn mạnh trách nhiệm của con cái với cha mẹ, không có cử chỉ bất
kính, vâng lời cha mẹ không bỏ nhà đi lang thang, có trách nhiệm chăm sóc
cha mẹ, ông bà. Nếu vi phạm quy định của luật tục thì có thể bị mất quyền
thừa kế tài sản.... đây là một số quy định tiến bộ của luật tục mà hòa giải
viên có thể khai thác và vận dụng hợp lý vào từng vụ việc cụ thể để giải
quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhằm củng cố giữ gìn hạnh phúc trong
mỗi gia đình, dòng họ.
Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 đã bổ sung điểm mới quan trọng vào
nguyên tắc này. Đó là “phát huy tinh thần đoàn kết tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư;
quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật
và người cao tuổi”. Bởi vì, người Việt Nam vốn sống trọng tình, quan tâm,
đùm bọc, kính trên, nhường dưới, tình cảm gia đình, dòng họ, xóm giềng
luôn là thiêng liêng và gần gũi, nếu hòa giải viên biết phát huy, khơi gợi
những tình cảm này sẽ giúp cho việc hòa giải đạt kết quả mong muốn.
- Nguyên tắc khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí
mật thông tin đời tư của các bên:
Khi mâu thuân, tranh chấp xảy ra, mỗi bên đều có lý riêng, tự cho
mình là đúng, không thấy điều sai trái của mình gây ra cho người khác
hoặc cố tình bảo vệ quyền lợi của mình một cách bất hợp pháp. Vì vậy, khi
thực hiện hòa giải, hòa giải viên phải bảo đảm nguyên tắc khách quan,

15


công minh để giải quyết tranh chấp một cách công bằng, bình đẳng, quan
tâm đến lợi ích của các bên tranh chấp. Là người trung, hòa giải viên không
được thiên vị, không định kiến hay nể nang bên này mà cần phải lắng nghe
các bên tranh chấp, đồng thời tôn trọng sự thật khách quan, công bằng, đề
cao lẽ phải, tìm ra cách giải thích, phân tích cho mỗi bên hiểu rõ đúng, sai,

không xuê xoa “dĩ hòa vi quý” cho xong việc. Hơn nữa, có khách quan,
công bằng thì hòa giải viên mới tạo được lòng tin của các bên, để họ lắng
nghe, tiếp thu ý kiến phân tích, giải thích của mình, từ đó có nhận thức và
tự nguyện điều chỉnh hành vi cho phù hợp với quy định của pháp luật, đạo
đức xã hội và phong tục tập quán.
Hoạt động hòa giải ở cơ sở đòi hỏi phải tuân thủ nguyên tắc có lý, có
tình, nghĩa là hòa giải phải dựa trên cơ sở pháp luật và đạo đức xã hội.
Trước hết cần đề cao yếu tố tình cảm, dựa vào đạo đức xã hội để phân tích,
khuyên nhủ các bên ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức: như con cái
phải có hiếu với cha mẹ; anh chị em phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn
nhau “như thể tay chân”, “chị ngã em nâng”, “máu chảy ruột mềm”, “môi
hở răng lạnh”; vợ chồng sống với nhau phải có tình, có nghĩa : “đạo vợ,
nghĩa chồng”, “gái có công chồng chẳng phụ”, tất cả vì con cái; xóm giềng
thì “tối lửa tắt đèn có nhau”, “vắng anh em xa mua láng giềng gần” và
“thương người như thể thương thân”...Cùng với việc giải thích, thuyết phục
các bên ứng xử phù hợp với các quy tắc đạo đức xã hội, hòa giải viên phải
dựa vào pháp luật để phân tích, tư vấn pháp luật, đưa ra những lời khuyên
và hướng dẫn các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy
định của pháp luật nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố
và pháp huy những tình cảm, đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và
cộng đồng, phòng ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.
16


×