Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức Từ thực tiễn huyện Thanh Oai thành phố Hà Nội (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.42 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

VŨ THU HƢƠNG

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CÔNG CHỨC - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH OAI,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

VŨ THU HƢƠNG

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CÔNG CHỨC - TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH OAI,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật Hiếp pháp - Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Người hướng dẫn khoa học:

TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Thu Hƣơng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 2
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn................... 6
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................... 6

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ..................................... 7
6. Đóng góp của luận văn.............................................................................. 7
7. Kết cấu của luận văn................................................................................. 7
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỔ CHỨC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨC ........................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về
công chức .................................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm pháp luật về công chức và tổ chức thực hiện pháp luật
về công chức ........................................................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức .................. 15
1.1.3. Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ..................... 16
1.2. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về công chức.................... 16
1.2.1. Tổ chức phổ biến, tuyên truyền pháp luật về công chức ............ 16
1.2.2. Bảo đảm công chức thực thi đúng các quyền và nghĩa vụ đối với
công chức .............................................................................................. 18
1.2.3. Bảo đảm hoạt động quản lý công chức ....................................... 20
1.2.4. Thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
............................................................................................................... 23
1.3. Các yếu tố bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức . 24
1.3.1. Yếu tố pháp luật .......................................................................... 24
1.3.2. Yếu tố kinh tế - xã hội ................................................................ 25
1.3.3. Yếu tố năng lực của công chức ................................................... 26


1.3.4. Truyền thống, văn hóa, phong tục, tập quán .............................. 28
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 29
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ...... 30
VỀ CÔNG CHỨC Ở HUYỆN THANH OAI, HÀ NỘI ............................ 30
2.1. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến tổ chức thực hiện pháp luật về
công chức ở huyện Thanh Oai, Hà Nội ................................................ 30

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ............................................ 30
2.1.2. Tình hình công chức ở huyện Thanh Oai ................................... 31
2.2. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở huyện
Thanh Oai, Hà Nội ................................................................................. 34
2.2.1 Tình hình phổ biến pháp luật về công chức ở huyện Thanh Oai, Hà
Nội ......................................................................................................... 34
2.2.2. Tình hình tổ chức thực hiện các nội dung pháp luật về công chức
ở huyện Thanh Oai, Hà Nội .................................................................. 37
2.3. Nhận xét chung về tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở
huyện Thanh Oai, Hà Nội ..................................................................... 50
2.3.1 Ưu điểm ....................................................................................... 50
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ............................................................. 53
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 58
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨC TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN

THANH OAI, HÀ NỘI ................................................................................. 60
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức 60
3.1.1. Bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức đáp ứng yêu
cầu cải cách hành chính ........................................................................ 60
3.1.2. Bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức phải khách
quan, công khai, minh bạch, kịp thời .................................................... 62


3.1.3. Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức phải căn cứ vào điều
kiện kinh tế - xã hội của mỗi địa phương ............................................. 62
3.2. Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức -Từ
thực tiễn huyện Thanh Oai, Hà Nội ..................................................... 63

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về công chức............................................. 63
3.2.2. Đổi mới nhận thức tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ... 74
3.2.3. Nâng cao chất lượng trong triển khai nội dung, hình thức,
phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật về công chức..................... 78
3.2.4. Tăng cường kiểm tra, tổng kết rút kinh nghiệm trong tổ chức
thực hiện pháp luật về công chức ......................................................... 80
3.2.5. Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ............................................ 81
Tiểu kết Chƣơng 3 ......................................................................................... 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86


DANH MỤC VIẾT TẮT

STT

Chữ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

BNV

Bộ Nội vụ

2

CBCC


Cán bộ công chức

3

HĐND

Hội đồng nhân dân

4

NĐ-CP

Nghị định Chính phủ

5

TB&XH

Thương binh và xã hội

6

TC-KH

Tài chính và kế hoạch

7

TN-MT


Tài nguyên và môi trường

8

TNXH

Tệ nạn xã hội

9

TT

10

UBND

Thông tư
Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số liệu công chức huyện Thanh Oai từ năm 2013 đến 2016 ......... 33
Bảng 2.2: Số liệu tuyển dụng công chức của huyện Thanh Oai từ 2013 - 2016
......................................................................................................... 39
Bảng 2.3: Số liệu khen thưởng công chức của huyện Thanh Oai từ năm 2013
- 2016 .............................................................................................. 48


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Để hệ thống chính trị ở các cấp hoạt động có hiệu quả, yếu tố quan
trọng và quyết định là phải có đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính
trị, có trình độ chuyên môn đáp ứng được tốt yêu cầu thực thi công vụ. Cán
bộ, công chức là những người trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với người dân và là người trực tiếp tổ
chức để nhân dân thực hiện. Trong đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò rất
quan trọng. Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.Công chức có trách nhiệm tham mưu giúp thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về công. Vì vậy, chất lượng của đội ngũ
công chức ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật của
chính quyền .
Xuất phát từ vai trò quan trọng của chính quyền các cấp và đội ngũ
công chức , Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc ban hành pháp luật
để điều chỉnh đối với công chức . Pháp luật về công chức đã được hình thành
và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Qua các giai đoạn lịch sử, pháp luật về
công chức đã đạt được những thành tựu nhất định góp phần vào việc thực
hiện thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng, xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân vững mạnh. Đã có nhiều văn bản qui phạm pháp luật được
ban hành tạo hành lang pháp lý cho việc tuyển dụng, quản lý và sử dụng đội
ngũ công chức các cấp. Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua và yêu cầu của
tình hình nhiệm vụ mới cho thấy pháp luật về công chức hiện hành đã bộc lộ
những hạn chế nhất định như: qui định tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, tiền
lương và phụ cấp, thôi việc, nghỉ hưu đối với các đối tượng này vẫn còn bất
cập, chưa khuyến khích và chưa động viên được đội ngũ công chức ở cơ sở;
1



chất lượng công chức và hiệu quả hoạt động chưa cao.Mặt khác, xuất phát từ
yêu cầu của nền kinh tế thị trường, của quá trình hội nhập kinh tế cũng như
chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân, công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia đòi hỏi phải đổi mới sự
điều chỉnh pháp luật đối với công chức cấp. Trong bối cảnh như vậy, việc
nghiên cứu đề tài “Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức - từ thực tiễn
huyện Thanh Oai, Hà Nội” nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ công
chức cơ sở vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có tính thực tiễn cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là vấn đề được sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu.Tuy nhiên, trực tiếp nghiên cứu về Tổ chức thực
hiện pháp luật về công chức- từ thực tiễn huyện Thanh Oai vẫn còn là một
khoảng trống trong nghiên cứu. Có thể kể một số công trình nghiên cứu có
những liên quan nhất định đến nội dung của đề tài như sau:
- Sách chuyên khảo về "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước" do PGS.TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS.Trần Xuân Sầm (đồng
chủ biên), nghiên cứu những vấn đề lý luận và phương pháp luận nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) đất nước; thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ hiện nay; quan
điểm và phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước KX.04.09 (2002-2004) về "Xây dựng đội
ngũ cán bộ công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân" do Bộ Nội vụ chủ trì, đã phân tích tính tất yếu khách quan
của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thực trạng đội ngũ và thể chế quản lý cán bộ,
công chức; phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2



- Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2001 nghiên cứu về "Đổi mới chính sách
đối với cán bộ chính quyền cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính" của
Bộ Nội vụ; Dự án năm 2004 về "Điều tra thực trạng và đề xuất phương
hướng, giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ Hội đồng nhân dân các cấp và
cán bộchuyên trách cơ sở" do Bộ Nội vụ chủ trì, đã đánh giá thực trạng chất
lượng cán bộ Hội đồng nhân dân (HĐND) và cán bộ, công chức cơ sở, chỉ ra
những nguyên nhân và từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, năng lực
công tác của cán bộ HĐND và cán bộ, công chức cơ sở. Sách chuyên khảo về
"Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay" do GS.TS. Hoàng
Chí Bảo (chủ biên), nghiên cứu hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn từ quan
điểm lý luận đến lịch sử và thực tiễn; đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt
động của chính quyền cơ sở và chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở ở
nông thôn; đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp
tục kiện toàn chính quyền và đội ngũ cán bộ ở cơ sở nước ta hiện nay. Tác
giả Lê Tư Duyến với bài "Bầu trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn - thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân" đăng
trên Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 4, 2005; TS. Vũ Đức Đán với bài "Vấn
đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở" đăng trên Tạp chí
Quản lý nhà nước, số 5, 2002; TS.Nguyễn Hữu Đức với bài "Từ đặc điểm,
tính chất đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở để xây dựng chế độ, chính sách
phù hợp" đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 8, 2003; ThS. Vũ Hữu
Kháng với bài "Phân định thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và tập
thể Ủy ban nhân dân" đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước, số 3, 2003; TS.Lê
Chi Mai với bài "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở - vấn đề và
giải pháp" đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 20, 2002; Tác giả Hữu Phan với bài
"Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh cán bộ, công chức cấp xã"
đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 10, 2003 (tổng thuật Hội nghị tọa
đàm); TS. Thang Văn Phúc với bài "Những định hướng đổi mới công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước theo yêu cầu cải cách hành chính
tổng thể (2001- 2010)" đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 9, 2003...
3


- Sách chuyên khảo về "Công vụ, công chức nhà nước" của GS.TS. Phạm
Hồng Thái đã đưa ra quan niệm về pháp luật công vụ, công chức; phân tích và
đánh giá về nội dung của pháp luật công vụ, công chức ở nước ta hiện nay.
- Luận án về "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức ở nước ta"
của Nguyễn Văn Tâm (1997), đã phân tích những vấn đề lý luận và thực trạng
pháp luật về công chức nhà nước; sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về
công chức nhà nước; đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới và
hoàn thiện pháp luật về công chức ở nước ta.
- Mạc Minh Sản (2003), Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền
cấp cơ sở theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
- Lê Thị Lý (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trước yêu
cầu đổi mới, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
- TS Nguyễn Minh Phương (2003), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 7).
- Nguyễn Hữu Đức (2003), “Từ đặc điểm, tính chất đội ngũ cán bộ,
công chức cơ sở để xây dựng chế độ, chính sách phù hợp”, Tạp chí Tổ chức
nhà nước, (số 8).
- Nguyễn Hữu Lộc (2003), “Tăng cường cán bộ cơ sở”, Tạp chí Tổ
chức nhà nước, (số 8).
- Hữu Phan (2003), “Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh
cán bộ, công chức cấp xã”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (số 10).
- Dương Hương Sơn (2004), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội .

- Trần Tấn Tài (2004), Đào tạo nguồn cán bộ quản lý hành chính nhà
nước cấp xã trên địa bàn thành phố Cần Thơ – thực trạng và giải pháp, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
4


- Hiền Lương (2004),“Chính sách của Đảng và Chính phủ nhằm nâng
cao chất lượng cán bộ xã vùng cao”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 5).
- Lê Đình Vĩ (2005), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã miền núi đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thanh (2006), Hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức
cấp xã ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
TP Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Ths. Nguyễn Thế Vịnh (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo
Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X), Hà Nội.
- TS. Nguyễn Minh Sản (2009), Pháp luật về cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Sách
chuyên khảo, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
- Châu Nam Trung (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
tỉnh Cà Mau hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Tuyền (2009), Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- PGS.TS Bùi Đức Kháng chủ nhiệm (2010), Đổi mới phương thức và
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ - công chức nhà nước
đáp ứng yêu cầu hội nhập, Đề tài khoa học cấp bộ, TP Hồ Chí Minh.
- Hồ Đức Việt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng

Ban Tổ chức Trung ương (2010), “Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (số 2).
- Nguyễn Thị Phương Thảo (2010), Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã
5


của tỉnh Tuyên Quang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Những công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp về mặt lý luận
và thực tiễn đối với đề tài.Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng đến nay chưa có đề tài
nào đi sâu nghiên cứu về tổ chức thực hiện pháp luật công chức gắn với địa
phương cụ thể là huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. Do đó đề tài: “Tổ chức
thực hiện pháp luật công chức - từ thực tiễn huyện Thanh Oai, thành phố Hà
Nội” là một đề tài không trùng lặp, mang tính lý luận và thực tiễn cao, đòi hỏi
cần được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ hơn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu:Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
Phạm vi nghiên cứu:Luân văn tập trung nghiên cứu tình hình tổ chức thực
hiện pháp luật đối với công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước (Ủy
ban nhân dân huyện và Ủy ban nhân dân xã) tại huyện Thanh Oai, Hà Nội.Thời
gian nghiên cứu từ năm 2013 đến năm 2016.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Phân tích những vấn đề lý luận tổ chức thực hiện pháp luật về công
chức.Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về công chức tại huyện
Thanh Oai, Hà Nội.Luận văn đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm
tổ chức thực hiện pháp luật về công chức từ thực tiễn tại huyện Thanh Oai, Hà
Nội.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:

- Phân tích những vấn đề lý luận về công chức và tổ chức thực hiện pháp
luật về công chức bao gồm khái niệm, đặc điểm, nội dung, nguyên tắc và các yếu
tố bảo đảm tổ chức thực hiện;
- Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về công chức tại huyện
Thanh Oai, Hà Nội, tìm ra các ưu điểm và hạn chế khi tổ chức thực hiện pháp
luật về công chức tại huyện Thanh Oai, Hà Nội.
6


- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp
luật về công chức tại huyện Thanh Oai, Hà Nội trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về nhà nước và pháp
luật.
- Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, trong đó sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như:
phân tích tổng hợp, thống kê và so sánh, phương pháp lịch sử và logic…
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về công chức và tổ chức thực
hiện pháp luật về công chức.
- Làm rõ thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về công chức tại Thanh
Oai, Hà Nội.
- Nêu quan điểm và một số giải pháp có tính khả thi để bảo đảm tổ chức
thực hiện pháp luật về công chức tại huyện Thanh Oai, Hà Nội.trong giai đoạn
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của tổ chức thực hiện pháp

luật về công chức
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở huyện
Thanh Oai, Hà Nội
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về
công chức - từ thực tiễn huyện Thanh Oai, Hà Nội

7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỔ CHỨC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨC
1.1. Khái niệm, đặc điểm, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về công
chức
1.1.1. Khái niệm pháp luật về công chức và tổ chức thực hiện pháp luật
về công chức
1.1.1.1. Khái niệm công chức và pháp luật về công chức
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, cùng với Nghị định
95/1998/NĐ-CP ngày 17-11-1998 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và
quản lý công chức đã kế thừa khái niệm công chức trong Nghị định
169/HĐBT ngày 25-5-1991 và qui định cụ thể hơn bằng cách liệt kê những
đối tượng là công chức nhà nước.
Theo Điều 1 Nghị định 95/1998/NĐ-CP, công chức bao gồm những đối
tượng được quy định tại khoản 3, khoản 5 của Điều 1 Pháp lệnh: Những
người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên,
được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một
ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, làm việc trong các cơ quan: Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng
Quốc hội; Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện,…
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường

xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc
trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghiệp.Như vậy Nghị định đã chỉ ra các dấu hiệu đặc trưng
của công chức nhà nước: Là công dân Việt Nam; được tuyển dụng, bổ nhiệm
hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên…; được phân loại theo trình độ đào
tạo, ngành chuyên môn; được xếp vào ngạch hành chính, sự nghiệp; trong
8


biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Qua các quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và các văn
bản có liên quan, bên cạnh những ưu điểm còn cho thấy sự bất hợp lý, chưa
phân định rõ cán bộ, công chức, viên chức. Nội hàm của khái niệm cán bộ,
công chức trong Pháp lệnh quá rộng nên không phân biệt được đặc thù của
từng loại cán bộ, công chức. Việc quản lý, sử dụng và đãi ngộ đối với cán bộ,
công chức khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp chưa có sự phân định về
cơ chế, chính sách phù hợp với đặc điểm, tính chất hoạt động của từng khu
vực. Mặt khác, chưa có nội dung quy định về cán bộ, công chức cấp xã. Đây
là điều bất hợp lý trong quy định của pháp luật, làm cho hoạt động của chính
quyền cấp xã lâu nay kém ổn định, hiệu lực và hiệu quả thấp.
Để khắc phục dần những hạn chế của Pháp lệnh cán bộ, công chức năm
1998, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công
chức năm 2003 tại khoản 1 Điều 1 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh thêm các
đối tượng công chức (mục g, h) gồm những người được bầu cử để đảm nhiệm
chức vụ theo nhiệm kỳ (cán bộ chuyên trách cấp xã) và những người được
tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp
xã (công chức cấp xã), mặt khác có phân biệt rõ các đối tượng công chức
ngạch hành chính và ngạch sự nghiệp.
Trên cơ sở đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày

10-10-2003 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong
các cơ quan nhà nước.Theo Điều 2 của Nghị định, công chức là công dân Việt
Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước được quy định tại
điểm b, điểm c, điểm e khoản 1 Điều 1 của Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa
đổi, bổ sung năm 2003, làm việc trong cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Như vậy, Nghị định không chỉ
điều chỉnh những vấn đề liên quan đến công chức nhà nước, mà còn liên quan
đến công chức thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội. Điều này
9


nếu xét từ góc độ chính trị - pháp lý thì hợp lý, bởi các công chức trong bộ
máy giúp việc của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội cũng cần chịu sự
điều chỉnh của pháp luật, nhưng xét về mặt kỹ thuật ban hành văn bản thì lại
có mâu thuẫn cả về hình thức tên gọi và nội dung của Nghị định.
Pháp lệnh Cán bộ, công chức, các Nghị định, Thông tư của Bộ Nội vụ đã
tạo thành cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ công chức và
hoàn thiện công tác cán bộ công chức, góp phần to lớn vào thực hiện các
nhiệm vụ cải cách hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng nền
kinh tế thị trường đáp ứng yêu cầu đổi mới và mong muốn của nhân dân.Tuy
nhiên trong các quy định của Pháp lệnh cũng như trong các Nghị định của
Chính phủ còn những bất cập, hạn chế chưa đáp ứng được các yêu cầu đổi
mới hoạt động công vụ theo tinh thần cải cách hành chính, hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật chưa quy định đầy đủ, toàn diện thống nhất các lĩnh
vực hoạt động công vụ, như quản lý cán bộ công chức, nguyên tắc hoạt động
công vụ, nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ, công chức trong thực
thi công vụ cũng như hoạt động thanh tra công vụ chưa được quy định cụ thể;
các quy định về phân loại, bố trí sử dụng, quy hoạch, đánh giá, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức không hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
quản lý nhà nước.

Để khắc phục các hạn chế nói trên, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền, nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế, ngày
13/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật Cán bộ, công chức, ngày
28/11/2008 Chủ tịch nước đã ký Sắc lệnh số 20/2008/SL - CTN công bố
Luật Cán bộ, công chức.Việc ban hành Luật Cán bộ công chức là việc thể
chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm chủ trương của Đảng và công tác cán bộ
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ
để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và nền công vụ theo tinh thần cải
cách, hiện đại hóa nền hành chính.
10


Luật Cán bộ, công chức quy định rõ về cán bộ ở Trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện, cấp xã; công chức ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã.
Bước phát triển mới của Luật Cán bộ, công chức là đã phận định rõ cán bộ
với công chức. Cụ thể cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ, công chức gắn với cơ chế tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Cùng với Luật Viên chức năm 2010
xác định viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc
làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc,
hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật.( Điều 2 Luật Viên chức năm 2010), lần đầu tiên pháp luật nước ta
phân biệt cụ thể các đối tượng làm việc trong khu vực nhà nước thành các
nhóm cán bộ, công chức, viên chức để xác định cơ chế quản lý phù hợp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Mặc dù hiện nay quan niệm và phạm vi công chức ở mỗi quốc gia có
khác nhau. Có nơi hiểu công chức theo nghĩa rất rộng như ở Pháp là bao gồm
tất cả những nhân viên trong bộ máy hành chính nhà nước, tất cả những người
tham gia dịch vụ công. Hay hẹp hơn như tại Anh, nơi công chức là những
người thay mặt nhà nước giải quyết công việc công, nhất là ở tại Trung ương,

nên phạm vi công chức thu hẹp hơn rất nhiều.
Qua lịch sử phát triển Việt Nam, TS. Chu Văn Thành đưa ra khái niệm
công chức là: “Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ
thường xuyên, làm việc trong một cơ quan nhà nước, được phân loại theo
trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính,
trong biên chế nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. [19]
Luật Cán bộ, công chức năm 2008, tại Khoản 2, Điều 4 quy định:
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
11


quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi
chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Tại Khoản 3,Điều
4 quy định “Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ
một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”[17].
Theo GS.TS. Phạm Hồng Thái và PGS.TS. Đinh Văn Mậu, hệ thống
pháp luật là “Tổng thể các quy phạm pháp luật được quy định một cách khách
quan bởi các điều kiện kinh tế-xã hội, được phân chia thành các bộ phận cấu
thành khác nhau (các ngành luật, phân ngành luật, chế định pháp luật), phù
hợp với đặc điểm, tính chất của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, nhưng

các bộ phận khác nhau ấy có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ và thống
nhất với nhau” [18].
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tiếp cận quan niệm pháp luật là
các quy phạm pháp luật. Như vậy, pháp luật chỉ gắn với hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về công chức.Từ đó, có thể hiểu pháp luật về công chức là
các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành để điều chỉnh hoạt động công vụ
của những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh
trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước và những người đứng đầu trong đơn
vị Hành chnhs sự nghiệp công lập
Với khái niệm như vậy, nội hàm của pháp luật về công chức bao
12


gồm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định công chức do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Như vậy pháp luật về công chức
sẽ được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật có thứ bậc
khác nhau do nhiều chủ thể ban hành. Bên cạnh việc quy định trong các
văn bản như Hiến pháp, Luật Cán bộ, công chức 2008 và các nghị định,
thông tư, quyết định về công chức, pháp luật về công chức còn chịu sự
điều chỉnh của nhiều ngành luật khác như Luật Lao động điều chỉnh về
tiền lương, thời gian làm việc, Luật Hình sự quy định về xử lý hình sự
khi công chức vi phạm pháp luật hình sự, Luật Dân sự…. Ngoài ra còn
rất nhiều văn bản dưới luật khác có tính chất chuyên ngành điều chỉnh
bởi lẽ đội ngũ công chức vừa chịu sự quản lý của Ủy ban nhân dânvề
công tác tổ chức, biên chế vừa chịu sự hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan
chuyên môn cấp trên.
- Pháp luật về công chức là lĩnh vực pháp luật liên ngành, được qui định
trong nhiều văn bản qui phạm pháp luật do nhiều chủ thể ban hành trong đó
chủ yếu là các quy phạm thuộc ngành Luật hành chính.

Pháp luật về công chức được qui định trong các văn bản như: Luật Cán
bộ, công chức năm 2008 và các Nghị định của Chính phủ, Thông tư, Quyết
định, Thông tư liên tịch của các Bộ hướng dẫn thi hành và Quyết định của
UBND tỉnh. Bên cạnh đó công chức còn chịu sự điều chỉnh của các ngành
luật khác như Lao động, dân sự, hình sự… Ngoài ra theo lĩnh vựcchuyên
môn, công chức còn chịu sự điều chỉnh của những Luật chuyên ngành như
công chức Địa chính - xây dựng - đô thị - môi trường chịu sự điều chỉnh của
Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường, Luật xây dựng…, công chức Tài chính
- kế toán chịu sự điều chỉnh của Luật Ngân sách, Luật Kế toán... Đặc điểm
này của pháp luật về công chức đòi hỏi khi xây dựng, hoàn thiện pháp luật về
công chức cần phải phân định rành mạch thẩm quyền, phạm vi của từng chủ
thể khi ban hành các văn bản qui phạm pháp luật, đồng thời phải tránh mâu
13


thuẫn, đảm bảo tính thống nhất.
- Nội dung pháp luật về công chức rất đa dạng từ tuyển dụng, khen
thưởng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, kỷ luật, đánh giá…
1.1.1.2. Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
Để pháp luật về công chức đi được vào cuộc sống bằng những hành vi
hợp pháp của các chủ thể sử dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cần phải tổ chức đưa pháp luật vào thực thi trong hoạt động công vụ
nhằm bảo đảm tính pháp quyền, tuân thủ pháp luật của các công chức trong
mọi hoạt động của mình.
Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là quá trình hoạt động có
mục đích làm cho những quy định pháp luật liên quan tới trách nhiệm công vụ
của công chức đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của công
chức và các cá nhân, tổ chức có liên quan.
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về công chức có vai trò quan trọng vì
công chức làm việc ở Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính có vị trí đặc

biệt trong các cấp chính quyền. Hiệu quả và sức mạnh của Nhà nước do
chính quyền trung ương quyết định và cách thức tổ chức, thực thi quyền
lực nhà nước ở cơ sở. Trong đó, cấp cơ sở là cấp gần dân nhất, là cấp chủ
yếu thực thi pháp luật. Các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước muốn đi vào cuộc sống phải thông qua hoạt động
của chính quyền cấp xã, cụ thể là hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức
nói chung và công chức xã nói riêng.
Công chức cấp xã là những người trực tiếp đem chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành; đồng thời
nắm bắt tình hình triển khai thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Bên cạnh đó, thực hiện pháp luật công chức được biểu hiện trên hai
14


phương diện chủ yếu: không thực hiện hành vi trái pháp luật công chức và
thực hiện hành vi hợp pháp, tuân thủ pháp luật công chức, pháp luật công
chức trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể sử dụng pháp
luật đòi hỏi trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật công chức phải có nội
dung, hình thức, phương pháp phù hợp.Từ những phân tích ở trên, chúng ta
có thể hiểu Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là hoạt động sắp xếp,
định hướng một cách có tổ chức, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và
thường xuyên, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện làm cho pháp
luật về công chức được triển khai trong thực tiễn.
1.1.2. Đặc điểm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
Từ khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức nêu trên, có thể
nhận thấy một số đặc điểm cơ bản của tổ chức thực hiện pháp luật về công
chức như sau:
Thứ nhất, tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là hoạt động sắp

xếp, có định hướng nhằm đưa pháp luật công chức vào cơ quan nhà
nước.Suy cho cùng, tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là hoạt động
nhằm đưa pháp luật công chức vào cơ quan nhà nước, trở thành ý thức và
thói quen xử sự trong cơ quan nhà nước.Hoạt động đó được thực hiện một
cách có chủ định, có tổ chức, có định hướng và có kế hoạch cụ thể. Qua hoạt
động đó, mục đích của chủ thể tác động nhằm hình thành ở các đối tượng
được tác đông những tri thức, thói quen xử sự phù hợp với quy định của
pháp luật về công chức, là cho mọi đối tượng tự giác tuân thủ pháp luật, có ý
thức pháp luật cao.
Thứ hai, tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là hoạt động được
thực hiện bởi các chủ thể nhất định.
Thứ ba, tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là một chuỗi các hoạt
động từ phổ biến, giáo dục pháp luật cán bộ, công chức, ban hành văn bản
pháp luật, tổ chức bộ máy nhằm triển khai pháp luật cán bộ, công chức, bảo
15


đảm các điều kiện cơ sở vật chất để thực thi pháp luật cán bộ, công chức và
kiểm tra, đánh giá, tổng kết công tác thi hành pháp luật cán bộ, công chức
trong thực tế.
Có thể nói, tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là sự tác động một
cách thường xuyên, lâu dài chứ không phải chỉ là sự tác động nhất thời, một
lần của chủ thể tới đối tượng được được tổ chức thực hiện pháp luật. Đó là
một quá trình đưa pháp luật về công chức vào cơ quan nhà nước gắn liền với
hoạt động quản lý nhà nước.
1.1.3. Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là hoạt động có sự tham gia
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tác động tới các đối tượng là công chức
nhà nước nhằm đạt được mục đích của cơ quan nhà nước. Do vậy, có thể nói,
tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là hoạt động có định hướng, có chủ

định của các cơ quan nhà nước.
Bộ Nội vụ là cơ quan được Chính phủ giao giúp Chính phủ thực hiện
quản lý thống nhất trong cả nước về công tác tổ chức.Các nội dung quản lý
nhà nước về công chức còn được phân cấp cho các bộ và cơ quan ngang bộ,
cơ quan khác thuộc Chính phù, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, UBND
cấp xã và cơ quan đơn vị sử dụng công chức. Công chức làm việc trong nhiều
cơ quan, tổ chức khác nhau theo quy định của pháp luật vì vậy tổ chức thực
hiện pháp luật công chức sẽ do các cơ quan, tổ chức này triển khai thực hiện.
1.2. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
1.2.1. Tổ chức phổ biến, tuyên truyền pháp luật về công chức
Tổ chức phổ biến, tuyên truyền pháp luật công chức là một trong
những nội dung quan trọng của công tác tổ chức thực hiện pháp luật công
chức, nhằm giúp công chức không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
công chức cấm. Đồng thời, việc tuyên truyền giúp công chức nhà nước
nhận thức được những hành vi phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mà quy
16


phạm pháp luật về công chức cụ thể quy định về các nghĩa vụ pháp lý theo
luật công chức.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật công chức có thể thực
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: tuyên truyền miệng; thông qua
các cuộc thi tìm hiểu; thông qua tờ rơi; thông qua hệ thống thông tin đại
chúng…
Tuyên truyền miệng về pháp luật là một hình thức tuyên truyền khá phổ
biến mà người nói trực tiếp nói với người nghe về lĩnh vực pháp luật trong đó
chủ yếu là các văn bản pháp luật đó nhằm nâng cao nhận thức về pháp luật,
niềm tin vào pháp luật và ý thức pháp luật cho người nghe và kích thích người
nghe hành động theo các chuẩn mực pháp luật.Tuyên truyền miệng về pháp
luật có nhiều ưu thế thể hiện ở tính linh hoạt, có thể tiến hành ở bất cứ nơi

nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào và số lượng người nghe; người nói
có điều kiện thuận lợi để giải thích, phân tích, làm sang tỏ nội dung cần tuyên
truyền, hai bên có thể hỏi đáp trực tiếp để đáp ứng yêu cầu của nhau. Trong
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật từ trước đến nay, hình
thức phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tuyên truyền miệng được sử dụng
phổ biến, rộng rãi và có mối quan hệ chặt chẽ với các hình thức phổ biến, giáo
dục pháp luật khác.
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật công chức còn có thể thực hiện thông
qua việc biên soạn, phát hành tài liệu pháp luật. Tài liệu phổ biến, giáo dục
pháp luật gồm nhiều loại như đề cương tuyên truyền, văn bản pháp luật, sách
hướng dẫn, giải thích pháp luật, sách pháp luật bỏ túi, sách hỏi đáp pháp luật,
tờ rơi, tờ gấp, bản tin, tranh áp phích, lịch… Trong tuyên truyền miệng, trong
các hoạt động giảng dạy và học tập pháp luật công chức tại các trường đào tạo
nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, công chức… đều sử dụng tài liệu pháp luật để
thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Hiệu quả của công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật chịu sự tác động nhất định của chất lượng các tài
17


×