Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Chất lượng cán bộ ủy ban nhân dân cấp xã, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.82 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KA RÌM

CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ ỦY BAN NHÂN DÂN
CẤP XÃ, HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

ĐẮK LẮK, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KA RÌM

CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ ỦY BAN NHÂN DÂN
CẤP XÃ, HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS, TS. NGUYỄN HỮU HẢI

ĐẮK LẮK, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sĩ: “Chất lượng cán bộ Uỷ ban nhân dân cấp xã,
huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi.
Trong Luận văn có sử dụng các tài liệu và thông tin có xuất sứ rõ rằng,
có trích dẫn rõ nguồn gốc.
Tôi cam đoan nội dung bản Luận văn là kết quả tự nghiên cứu và thực
hiện của bản thân tôi.
Học viên thực hiện

Ka Rìm


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban giám đốc Học viện
Hành chính quốc gia, khoa sau đại học, khoa Hành chính công và phân viện
Hành chính khu vực Tây Nguyên đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Hữu
Hải, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
này.

Qua đây, tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và dia đình đã đỗng viên,
khích lệ, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên thực hiện luận văn

Ka Rìm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số lượng đơn vị hành chính và số lượng cán bộ, công
chức cấp xã, thị trấn huyện Di Linh…………………………….

41

Bảng 2.2: Cơ cấu về giới tính, dân tộc, độ tuổi của cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã, huyện Di Linh …………………………………..

43

Bảng 2.3: Trình độ học vấn ……………………………………..

44

Bảng 2.4: Trình độ chuyên môn của đội ngũ Chủ tịch, Phó Chủ
tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân

45

Bảng 2.5: Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp xã, thị trấn huyện Di Linh ………………………………...

47

Bảng 2.6: Trình độ quản lý Nhà nước của đội ngũ Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp xã, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng …………………….

48


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ ỦY BAN NHÂN
DÂN CẤP XÃ............................................................................................................. 8
1.1. Cán bộ và cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã .......................................................... 8
1.2. Chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã....................................................... 17
1.3. Những yêu cầu đạt ra đối với chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân
cấp xã......................................................................................................................... 32
Tiểu kết Chương I ..................................................................................................... 35
Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP
XÃ HUYỆN DI LINH TỈNH LÂM ĐỒNG ............................................................. 37
2.1. Khái quát chung về huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng .......................................... 37

2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã của huyện
Di Linh. ..................................................................................................................... 39
2.3. Chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã, huyên Di Linh. ............................ 49
Tiểu kết Chương II .................................................................................................... 68
Chương III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CÁN BỘ ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở HUYỆN DI LINH, TỈNH
LÂM ĐỒNG ............................................................................................................. 70
3.1. Định hướng tăng cường chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện Di
Linh, tỉnh Lâm Đồng. ................................................................................................ 70


3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
huyện Di Linh. .......................................................................................................... 76
Tiểu kết Chương III ................................................................................................... 94
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 107
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 111


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước Việt Nam, cấp xã giữ vai
trò, vị trí hết sức quan trọng, bởi đây là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao,
là nơi trực tiếp chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối trực tiếp giữa nhà
nước với nhân dân. Cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã là người trực tiếp lãnh đạo, tổ
chức thực hiện các quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ vai trò cực
kỳ quan trọng. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định trong các khoá Đại hội như Đại hội
VII, VIII, IX, X, XI lấy phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt,
mà công tác xây dựng Đảng thì cán bộ và công tác cán bộ là quan trọng nhất, là

khâu “then chốt trong vấn đề then chốt”, là nguyên nhân của nguyên nhân.
Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) khẳng
định:“Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng” [1, tr. 117]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc. Vì vậy huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” .
Trên thực tế đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã luôn được các cấp uỷ
Đảng quan tâm, có sự trưởng thành, đáp ứng với nhiệm vụ chính trị, góp phần củng
cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự nghiệp cách mạng và vai trò lãnh đạo
của Đảng. Tuy nhiên, việc xây dựng chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã thật
sự có chất lượng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần xem xét nghiên cứu làm sáng
tỏ, nhằm xây dựng chất lượng đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân cấp xã thực sự đáp ứng
với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới.
Những năm qua, Đảng ta đã thường xuyên quan tâm chăm lo về mọi mặt,
trong đó chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt
là đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã. Thực hiện các chủ trương, Nghị quyết
của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ, huyện đã tổ chức quán triệt và cụ thể hóa
thành những Nghị quyết, chương trình, kế hoạch để chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán

1


bộ ở địa phương, nhất là đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã, phù hợp với điều
kiện thực tiễn. Vì vậy, công tác cán bộ và việc nâng cao chất lượng cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã ở huyện Di Linh trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích
cực. Đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã đã thể hiện sự vững vàng về bản lĩnh
chính trị, giữ gìn và phát huy truyền thống cách mạng; trình độ kiến thức và năng
lực thực tiễn được cập nhật và nâng cao, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà
nước giao.
Tuy nhiên, hiện nay kinh tế xã hội của huyện vẫn trong đà phát triển tốt; tình

hình an ninh chính trị có nhiều phức tạp bởi các thế lực thù địch thường xuyên lợi
dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, đời sống khó khăn, trình độ kinh tế và dân trí
thấp của đồng bào các dân tộc thiểu số để thực hiện chiến lược “ Diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ, gây mất ổn định chính trị xã hội. Mặc khác, chất lượng đội
ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã của huyện hiện nay còn nhiều hạn chế và bất
cập. Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước, trình độ lý luận
chính trị vẫn còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Năng lực tổ chức
thực tiễn, giải quyết các sự vụ còn hạn chế, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo,
hiệu quả còn thấp... Nhìn chung, chất lượng đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
chưa thật sự ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới.
Điều đó đặt ra yêu cầu mới đối với việc phát triển Di Linh và nâng cao chất
lượng toàn diện đội ngũ cán bộ đủ sức đáp ứng yêu cầu, trong đó có đội ngũ cán bộ
Ủy ban nhân dân cấp xã.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, tác giả đã nhận thấy, việc
tiến hành nghiên cứu đề tài về “Chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã,
huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng” trong giai đoạn hiện nay là rất thiết thực, vừa có
tính cơ bản, lâu dài, vừa có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã và nâng cao chất lượng cán bộ
cấp xã đã được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và các nhà hoạt động chính trị
quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau như:

2


- Văn Tất Thu (2012), “Yêu cầu nâng cao chất lượng trình độ, năng lực đội
ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế”, Kỷ yếu hội thảo khoa học “ Phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
Tạp chí Cộng sản - NXB Chính trị quốc gia tháng 8/2012;

- TS Nguyễn Quốc Sửu (2011), “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,
công chức hành chính trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội năm 2011;
- Ngô Văn Nhân “ Một số điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam qua văn kiện Đại hội Đảng XI của Đảng”, Tạp chí triết học,
số 3/2011;
- Bùi Xuân Đức (2004), “ Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay”, Nhà xuất bản Tư Pháp. Tác giả đề cập đến đổi mới cấp hành chính
bên dưới cấp thành phố, có thể là quận hoặc phường nhưng bộ máy hành chính phải
gọn, nhẹ có thể hoặc 2 cấp dưới cấp thành phố, chính quyền đô thị không nhất thiết
phải 3 cấp như hiện nay;
- GS.TS Phạm Hồng Thái (2004), “Công vụ, công chức Nhà nước”, Nhà xuất
bản Tư pháp Hà Nội, năm 2004. Trong công trình này, tác giả đã tiếp cận, phân tích
pháp luật thực thi của Nhà nước từ năm 1945 đến nay, xu hướng điều chỉnh của
pháp luật về công vụ, công chức qua các thời kỳ lịch sử, phân tích, đánh giá các quy
định pháp luật về công vụ, công chức ở nước ta, bao gồm các nội dung tuyển dụng,
tập sự, sử dụng và quản lý, quyền và nghĩa vụ, điều động, kiêm nhiệm, thăng giáng
chức, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng, chế độ hưu trí và chế độ thôi việc;
- Tô Tử Hạ (1998) “Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình giới thiệu
kinh nghiệm xây dựng đội ngũ công chức của các nước trên thế giới và quá trình
hình thành, phát triển đội ngũ công chức nước ta từ sau Cách mạng tháng tám; Giới
thiệu và phân tích các hoạt động trong tổng thể công tác quản lý công chức nói
chung;

3


- Nguyễn Thị Hồng Hải (2013), “Hỏi đáp về quản lý cán bộ, công chức cấp
xã”, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội.

- Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng (2008), “Thực trạng và giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị xã, phường, thị
trấn ở tỉnh Lâm Đồng”, đề tài khoa học cấp tỉnh.
- Phan Xuân Khanh (2005),“Bước đầu nghiên cứu công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Lâm Đồng (1986-2005)”, luận văn thạc sĩ Lịch sử
Việt Nam, Trường Đại học Đà Lạt.
- Nguyễn Thị Thu Hà (2011), Đổi mới công tác quản lý Nhà nước đối với
các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở địa phương, luận văn thạc sĩ
Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia.
- Nguyễn Văn Khá (2011), Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã tại
tỉnh Bình Định, Luận văn thạc sĩ Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính
Quốc gia.
- Nguyễn Văn Lợi (2006), Góp phần xây dựng chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cơ sở từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, luận văn thạc sĩ Quản
lý Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia.
- Nguyễn Trung Trực (2005), Chất lượng công tác đào tạo cán bộ của hệ
thống chính trị xã, phường, thị trấn ở Trường Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay,Thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Xuân Thăng (2001), Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
xã, phường, thị trấn ở tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn thạc sĩ Quản lý Hành chính công,
Học viện hành chính Quốc gia.
- Trần Ngọc Điệp (1999), Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh Cần
Thơ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, luận văn thạc sĩ

4



Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia.
- Nguyễn Văn Đồng (2014), “Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã, huyện
Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng”, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, Học viện hành chính
quốc gia.
- Trần Thị Mai (2014), “Chính sách đào tạo, bồi dượng công chức cấp xã,
tỉnh Đắk Lắk”, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, Học viện hành chính quốc gia.
Cùng một số luận văn thạc sỹ, tiến sỹ thuộc Học viện chính trị Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh viết về cán bộ và công tác cán bộ; Bên cạnh đó còn có rất
nhiều bài báo, tạp chí, sách tham khảo nói về xây dựng Chất lượng cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã trong giai đoạn hiện nay được đăng tải trên các phương tiện thông
tin đại chúng.
Nhìn chung các công trình khoa học nói trên đã đề cập đến công tác cán bộ ở
nhiều gốc độ khác nhau. Tuy nhiên, về chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
của huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng thì hiện nay chưa có tác giả nào viết. Cũng có
những đề tài đề cập đến vấn đề cán bộ cấp xã nhưng ở nhiều cấp độ, phạm vi khác
nhau. Tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các chương trình nói trên, đề tài
đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề: “Chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp
xã ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay”, nhằm góp phần
vào công tác chất lượng cán bộ nói chung, đặc biệt là cán bộ Ủy ban nhân dân cấp
xã của huyện Di Linh nói riêng, đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn chất lượng và nâng cao
chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng; đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân
cấp xã ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu một số khái niệm, phạm trù liên quan đến đề tài về quan niệm,
vai trò và đặc điểm của đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã; quan niệm về chất


5


lượng và nâng cao chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã; tiêu chí đánh giá chất
lượng và nâng cao chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện Di Linh, tỉnh
Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng số lượng và chất lượng cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng từ năm 2010 cho đến nay, tìm
hiểu nguyên nhân và những kinh nghiệm thực tiễn;
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn
hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã ở huyện Di
Linh, tỉnh Lâm Đồng, với đối tượng cụ thể là: Chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân
cấp xã gồm các chức danh: Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND cấp xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân
cấp xã ở huyện Di Linh từ năm 2010 đến nay;
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Di Linh;
- Phạm vi nghiên cứu: 19 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Di Linh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận
Nội dung nghiên cứu của đề tài được xem xét luận giải dựa trên cơ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng và lịch sử của Chủ nghĩa Mac Lê Nin; tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về công tác cán bộ
và nâng cao chất lượng cán bộ ở cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Đề tài sử dụng và kế thừa kết quả nghiên cứu các công trình khoa học đi
trước, kết hợp chặt chẽ với thực tiễn địa phương;
- Đề tài sử dụng đúng đắn, phù hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp,

6


lô gích và lịch sử, điều tra xã hội học, phân tích tài liệu thứ cấp, phương pháp
nghiên cứu chuyên gia và tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
6.1. Ý nghĩa lý luận
Ở mức độ nhất định những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về quản lý, phát triển
cán bộ, công chức, hay các nội dung về nguồn nhân lực, công tác cán bộ…
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, nhất là chính quyền cấp xã trong tổ chức chỉ đạo thực hiện
công tác quản lý và nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt ở cơ sở trong giai đoạn
hiện nay.
7. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Đề tài góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng và nâng
cao chất lượng cán bộ cấp xã. Đặc biệt làm rõ đặc điểm của cán bộ Ủy ban nhân dân
cấp xã ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng;
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng về chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp
xã ở huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, đề tài đề xuất các phương hướng, giải pháp
nâng cao chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã, đáp ứng nhiệm vụ cách mạng
hiện nay;
- Đề tài có thể làm tư liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khoá

luận có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã.
Chương 2: Thực trạng chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã huyện Di
Linh, tỉnh Lâm Đồng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã ở
huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
CÁN BỘ ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. Cán bộ và cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
1.1.1. Cán bộ
Theo từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1993, từ “Cán bộ” có 2 nghĩa; nghĩa
thứ nhất là người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước,
Đảng, Đoàn thể; nghĩa thứ hai là người làm việc có chức vụ trong một cơ quan, một
tổ chức để phân biệt với người lao động thông thường, người làm việc không có
chức vụ.
Song, về cơ bản có thể hiểu “Cán bộ” là khái niệm dùng để chỉ những người
có chức vụ, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự
phát triển của tổ chức đó.
Theo khoản 1, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức (năm 2008) quy định cán bộ
là “ Công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh
theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước”.
Theo quy định này, thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê

chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đảm bảo theo
tiêu chí chung của cán bộ mà được bố trí làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ.
Những người là cán bộ trong cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội sẽ
được các cơ quan có thẩm quyền của Đảng, của tổ chức chính trị - xã hội quy định
cụ thể. Còn những người là cơ quan Nhà nước sẽ được xác định theo quy định của
Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân,
Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban

8


nhân dân, Luật Kiểm toán nhà nước và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
1.1.2. Cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
Luật Cán bộ, công chức (2008) theo Điều 3, Điều 4: Cán bộ xã, phường, thị
trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ
theo nhiệm kỳ.
Đội ngũ cán bộ cấp xã gồm: Bí thư, Phó Bí thư Đảng; Chủ tịch, Phó Chủ tịch
Hội đồng nhân dân; Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Bí
thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Nông dân. Trong đó cán
bộ Ủy ban nhân dân cấp xã gồm Chủ tịch, phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và ủy viên
ủy ban.
1.1.3. Đặc điểm của cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
Cấp xã là cấp chính quyền cơ sở, là cấp trực tiếp đưa vào hoạt động chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn cuộc sống. Phạm
vi công tác quản lý rộng, bao quát nhiều lĩnh vực về kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở. năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của chính quyền cấp xã tác động trực tiếp đến việc phát huy quyền làm chủ

của nhân dân, góp phần bảo đảm sự ổn định và phát triển đất nước. Việc xác định
đặc điểm cán bộ cấp xã không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng, hoàn
thiện thể chế quản lý cán bộ cấp xã mà còn là cơ sở để tìm ra giải pháp nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã. Song, để nhận dạng đặc điểm cán bộ cấp xã
không đơn giản mà phải có phương pháp tiếp cận khoa học, về cơ bản là xuất phát
từ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và hoạt động của chính
quyền cấp xã.
- Về vị trí: Đây là cấp cơ sở trong hệ thống hành chính Nhà nước;
- Về chức năng, nhiệm vụ: Chủ yếu là quản lý hành chính nhà nước; đồng
thời giải quyết các công việc có tính tự quản ở cơ sở;
- Về tổ chức, quyền hạn: Cấp xã có bộ máy đơn giản nhưng được uỷ quyền,
phân cấp, đảm nhiệm những chức năng có tính tổng hợp, trong đó đội ngũ theo chế

9


độ bầu cử;
Về hoạt động: Là cấp cơ sở gắn liền với sản xuất, đời sống trong cộng đồng
dân cư.
Từ những dấu hiệu này đã xác định được đặc điểm của cán bộ cấp xã khác
với cán bộ các cấp ở những điểm sau:
- Một là, Cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã là lực lượng gần dân, sát dân, biết
dân, trực tiếp tiếp xúc với dân, làm cầu nối giữa dân với Đảng và Nhà nước, trực
tiếp triển khai đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, gắn bó với
dân. Làm việc chịu sự giám sát trực tiếp của nhân dân đồng thời có mối quan hệ mật
thiết với gia tộc, làng xóm. Đặc điểm này làm cho họ thông thạo với phong tục, tập
quán địa phương, hiểu, biết được những nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng, thái độ của
người dân nên đề làm cho dân tin, dân mến. Do đó, cần có những cán bộ đủ năng
lực, nếu không đảm bảo, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thực tiễn mà họ đảm
trách thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả công việc và đời sống của nhân dân ở

địa phương đó. Họ có điều kiện thuận lợi cho việc thuyết phục vận động nhân dân
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.Việc
hạn chế ở đây là dễ dẫn đến tình trạng giải quyết công việc nặng nề về tình cảm mà
coi nhẹ kỷ cương, pháp luật, “ Nhất thân, nhì quen” còn tồn tại khá phổ biến;
- Hai là, Cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ
quản lý, còn vừa là người trực tiếp sản xuất kinh doanh, khác với cán bộ nhà nước ở
cấp trên. Cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã là những người được nhân dân ở địa
phương hoặc thành viên trong tổ chức trực tiếp bầu ra thông qua cuộc bầu cử tại địa
phương hoặc có thể do cấp trên chỉ định. Ngoài ra cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
làm việc theo nhiệm kỳ (5 năm) được quy định theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Điều lệ tổ chức chính trị xã hội. Nó khác với cán bộ cấp trên vì cán bộ
cấp xã là một bộ phận của nhân dân địa phương, trực tiếp sinh hoạt, lao động cùng
với nhân dân địa phương. Kiếm sống trên mảnh đất, thửa ruộng của mình chứ chưa
thoát ly hẳn sản xuất, kinh doanh. Nguồn thu nhập chính của cán bộ cấp xã không

10


phải từ lương, phụ cấp do ngân sách nhà nước chi trả mà là kết quả sản xuất, kinh
doanh của cá nhân. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động của cán
bộ Ủy ban nhân dân cấp xã;
- Ba là, Cán bộ Ủy ban nhân cấp xã có trình độ và năng lực nhìn chung rất
thấp trong đội ngũ cán bộ nói chung. Tiêu chuẩn bố trí cán bộ cấp xã cũng thấp hơn
các cấp khác ví dụ như tiêu chuẩn bố trí Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hay
Chủ tịch Hội Phụ nữ, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…. Điều đó
chứng minh rằng tư duy nhìn nhận về cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã là cấp thấp
nhất trong hệ thống chính quyền nhà nước do đó ảnh hưởng đến việc đòi hỏi cao về
trình độ đào tạo. Họ là người trực tiếp làm việc, gần dân, tiếp xúc với nhân dân với
Đảng và Nhà nước; trực tiếp tổ chức, triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối

của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Chịu sự giám sát
trực tiếp của nhân dân nhưng lại có mối quan hệ gần gũi, thân quen với nhân dân.
Họ là người rất hiểu về các phong tục tập quán nhân dân địa phương, hiểu được tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương, những lợi ích chính đáng của nhân
dân; cán bộ có đầy đủ phẩm chất, đạo đức, năng lực công tác thì họ sẽ được nhân
dân tin yêu, mến phục. Họ là người có điều kiện thuận lợi trong việc tuyên truyền,
vận động nhân dân nghe, tin và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước. Song họ có hạn chế, khó khăn từ thực tiễn tác
động giải quyết trong công việc dể đan xen với tình cảm, đặc biệt với văn hoá Việt
Nam “ Nhất thân nhì quen”, “ Phép vua thua lệ làng” còn tồn tại nên giải quyết công
việc có thể dễ đan xen tình cảm với kỷ cương, kỷ luật, xem thường kỷ cương, kỷ
luật, pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, cán bộ Ủy ban nhân cấp xã thường bị xáo
trộn do nhu cầu của công tác tổ chức cán bộ.
- Bốn là, Cán bộ Ủy nhân dân cấp xã là người được nhân dân địa phương
hoặc thành viên trong tổ chức trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra thông qua các cuộc bầu
cử tại địa phương hoặc có thể do cấp trên chỉ định. Họ làm việc theo nhiệm kỳ
được quy định trong điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Luật Tổ chức Chính quyền
địa phương năm 2015, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Điều lệ các tổ chức

11


Chính trị - xã hội; Nhiệm kỳ của cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã là 05 năm. Do làm
việc theo nhiệm kỳ nên cán bộ cấp xã thường không ổn định, dể thay đổi và được
bầu lại khi hết nhiệm kỳ điều này ảnh hưởng đến việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
để nâng cao chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã. Bên cạnh đó, họ là người
dân trực tiếp chăn nuôi, sản xuất tại địa phương với người dân nên ngoài lương thì
thu nhập chính của họ là từ những mảnh đất, thửa ruộng, đàn gia súc, gia cầm của
họ làm nên do đó ảnh hưởng rất lớn đến công việc chuyên môn, đến năng lực cán
bộ cấp xã.

1.1.4. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ của cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
Tiêu chuẩn cán bộ là một hệ thống các yêu cầu về phẩm chất, năng lực, trình
độ cần phải có để đảm đương và hoàn thành tốt nhiệm vụ do cương vị công tác đòi
hỏi. Xác định được tiêu chuẩn là rất cần thiết và quan trọng trong việc bảo đảm chất
lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong hoạt động thực tiễn, các cơ quan quản
lý đều căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ để thực hiện việc bổ nhiệm, đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và quản lý cán bộ. ở một mức độ nhất định có thể coi tiêu
chuẩn cán bộ Ủy ban nhân dân là nền móng để tạo nên và nâng cao chất lượng cán
bộ Ủy ban nhân dân.
Về tiêu chuẩn cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã hiện nay đang thực hiện theo
Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12 /2011 của Chính phủ; Thông tư số
06/2012/TT- BNV ngày 30/10/2012 của Bộ Nội vụ; Luật Tổ chức Chính quyền địa
phương và Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ
Nội vụ quy đinh tiêu chuẩn cụ thể đối với công chức cấp xã, phường, thị trấn; đồng
thời theo tiêu chuẩn chung của hệ thống cán bộ được quy định trong Luật Cán bộ,
công chức năm 2010. Tiêu chuẩn chung là điều kiện cần mang tính chất cứng mà
bất cứ công dân nào muốn tham gia công vụ đều phải hội đủ. Tiêu chuẩn cụ thể là
điều kiện đủ, gắn với từng vị trí lãnh đạo cụ thể, nó thể hiện tính chất, đặc điểm
riêng của từng vị trí cụ thể.
Hệ thống tiêu chuẩn của cán bộ, công chức cấp xã được quy định tại Điều 3,
Điều 4, Nghị định 112/2011/NĐ- CP ngày 05 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ về

12


cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và quy định tại Điều 3 đến Điều 8, Quyết
định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ bao gồm:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ở địa phương;

- Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, công tâm thạo việc, tận tuỵ với dân.
Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức kỷ luật
trong công tác, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân
dân tín nhiệm;
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có trình độ học vấn, chuyên môn,
đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao;
Tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ cấp xã, phường, thị trấn theo Điều 5, 6, 7, 8 của
Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ quy định về tiêu
chuẩn cụ thể đối với cán bộ xã, phường, thị trấn được quy định cụ thể như sau:
- Tiêu chuẩn đối với Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân:
+ Tuổi đời: Tuổi đời của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cho phù hợp với
tình hình đặc điểm của địa phương nhưng tuổi tham gia lần đầu phải đảm bảo ít nhất
hai nhiệm kỳ;
+ Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông;
+ Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên đối với khu
vực đồng bằng; khu vực miền núi phải được bồi dưỡng lý luận chính trị tương
đương trình độ sơ cấp trở lên;
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng, có trình độ trung cấp
chuyên môn trở lên. Với miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn
tương đương trình độ sơ cấp trở lên, nếu giữ chức vụ lần đầu phải có trình độ trung
cấp chuyên môn trở lên. Ngành chuyên môn phải phù hợp với đặc điểm kinh tế xã

13


hội của từng loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn đã được bồi dưỡng nghiệp
vụ quản lý hành chính Nhà nước, quản lý kinh tế;

Tại Điều 5, 6, 7, 8 của Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004
của Bộ Nội vụ là tiêu chuẩn để căn cứ các địa phương cho các địa phương thực hiện
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá đối với cán bộ Ủy ban nhân dân
cấp xã.
Luật Cán bộ, công chức và Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ
về việc ban hành quy định tiêu chuẩn củ thể đối với cán bộ, công chức, xã, phường,
thị trấn có thể khái quát nhiệm vụ của cán bộ Uỷ ban nhân cấp xã cụ thể như sau:
(1) Nhiệm vụ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân:
Lãnh đạo các mặt của Ủy ban nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân cấp
xã, gồm:
- Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp
xã, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền Ủy ban nhân dân;
- Đôn đốc, kiểm tra công tác các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân trong việc thực hiện Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp
trên, Nghị quyết, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
- Trực tiếp quản lý chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ theo quyết định của
pháp luật;
- Tổ chức quản lý điều hành của Trưởng, Phó thôn, buôn, tổ dân phố theo
quy định của pháp luật;
- Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Ủy ban nhân cấp
trên;
- Triệu tập và chủ tọa phiên họp của Ủy ban nhân dân xã, phường;
- Áp dụng các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, quản lý và điều hành bộ máy
hành chính nhà nước ở xã, phường, thị trấn hoạt động có hiệu quả;
- Ngăn ngừa, đấu tranh chống biểu hiện tiêu cực trong cán bộ, công chức
Nhà nước và trong bộ máy chính quyền địa phương cấp xã; tiếp dân, xét và giải
quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật; giải

14



quyết và trả lời các kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân xã, phường, thị trấn;
- Thực hiện, bố trí, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức theo sự
phân cấp quản lý;
- Đình chỉ hoặc bãi bỏ quy định trái pháp luật của trưởng thôn, buôn, tổ dân
phố;
- Ra quyết định, Chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình [1].
(2) Nhiệm vụ của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân:
Tổ chức, quản lý chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo khối công việc (Khối kinh
tế tài chính, khối văn hoá xã hội…) của Ủy ban nhân dân do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân phân công và những công việc do Chủ tịch Ủy ban nhân dân ủy nhiệm chi khi
Chủ tịch Ủy ban nhân dân đi vắng [1].
1.1.5. Vai trò của cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã trong quản lý hành
chính Nhà nước
Trong bộ máy hành chính Nhà nước ta hiện nay, vai trò của cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã rất quan trọng. Xuất phát từ vị trí quan trọng đó vai trò của cán bộ
Ủy ban nhân dân cấp xã càng được chú trọng hơn bao giờ hết. Bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, đảng ta luôn xác định con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội; trong đó “ Cán bộ Ủy ban
nhân dân là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng”.
Vai trò của cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã được thể hiện qua mối quan hệ
với đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; với bộ máy chính
quyền; với công việc và với quần chúng nhân dân, cụ thể ở các điểm sau: [17,tr.65].
- Đội ngũ cán bộ góp phần quyết định sự thành bại của việc thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; bởi vì Cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã là những người trực tiếp đem chính sách và pháp luật của Nhà
nước giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời nắm bắt tình hình triển


15


khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và
phù hợp với tình hình thực hiện. Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đạt chính sách cho đúng”. Vì vậy, cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã chính là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng nhân dân;
- Đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân cấp xã là lực lượng “nòng cốt” trong quản lý
và tổ chức công việc ở cấp xã. Mỗi cán bộ cấp xã được giao thực hiện một khối
lượng công việc nhiều, rộng và có tác động ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của nhân
dân địa phương. Trực tiếp lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Thông qua họ mà ý Đảng,
lòng dân được thống nhất sẽ tạo nên mối quan hệ máu thịt gắn bó giữa Đảng với
nhân dân; xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước;
- Họ là người trực tiếp tác động đến lợi ích của người dân, đồng thời là đại
diện hợp pháp cho lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân thừa nhận, tin
yêu và sẵn sàng bảo vệ;
- Là người trực tiếp thực thi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Trực tiếp lãnh đạo quản lý xã hội đến tận người dân, phát
huy quyền làm chủ nhân dân, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người dân; chăm lo
đời sống, vật chất tinh thần của người dân; giải quyết các xung đột, mâu thuẫn ở cơ
sở để tạo ra sự đồng thuận trong cộng đồng. Họ là người đóng vai trò tiên phong, đi
đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, chống các hiện tượng quan liêu, cửa
quyền và các tiêu cực khác, làm cho tổ chức Đảng, bộ máy chính quyền cấp xã
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Mọi chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở được thực

hiện đúng đắn hay không, có được thực hiện hóa hay không phụ thuộc rất nhiều vào
vai trò của đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã;
- Từ những vướng mắc trong thực tế triển khai công việc, họ cũng có khả

16


năng đóng góp một khối lượng công việc lớn ý kiến, đề xuất với các cơ quan nhà
nước cấp trên để xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp hướng tới xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Suy cho
cùng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong quản
lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, quyết định sự phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân ở cấp cơ sở góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2. Chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
1.2.1. Khái niệm chất lượng
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học định nghĩa “Chất lượng làm
nên phẩm chất, giá trị của con người, một sự vật, sự việc”.
Chất lượng là một khái niệm khá phức tạp, tùy theo đối tượng sử dụng khái
niệm “chất lượng” có nội dung khác nhau. Khi xác định chất lượng của một loại
hàng hoá hay dịch vụ, chất lượng được đo bởi một sự thoả mãn nhu cầu. Các nhu
cầu này không chỉ từ phía khách hàng mà còn từ các bên có liên quan, ví dụ như các
yêu cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội. Vì vậy, khi đánh giá
chất lượng của một đối tượng, phải xét đến mọi đặc tính của đối tượng có liên quan
đến sự thoả mãn những nhu cầu cụ thể. Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới
dạng các quy định, tiêu chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ
rằng, người sử dụng chỉ có thể cảm nhận chúng, hoặc có khi chỉ phát hiện được
trong quá trình sử dụng.
Đây là cách đánh giá của một con người, một sự việc, một sự vật trong cái
đơn nhất, có tính độc lập của nó.

Theo từ điển Bách khoa Việt Nam thì định nghĩa “Chất lượng” là một phạm
trù triết học biểu thị những bản chất thuộc tính của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn
định tương đối của sự vật và phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là đặc tính
khách quan của sự vật, hiện tượng biểu thị trình độ phát triển của nó, chất lượng
càng cao thì mức độ phát triển của sự vật, hiện tượng càng lớn.
Ở góc độ kỹ thuật. TCVN 5814 - 1994 (ISO 8402) trên cơ sở ISO 9000 đã

17


đưa ra định nghĩa: “Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng)
tạo cho thực thể đó có khả năng thỏa mãn những yêu cầu đã nêu ra hoặc tiểm ẩn.
1.2.2. Chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
Khi nói đến chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã là nói đến yếu tố con
người, đến cá nhân, chất lượng được hiểu là tổng hợp những phẩm chất nhất định về
sức khoẻ, trí tuệ khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí,
niềm tin, năng lực, luôn gắn bó tập thể với cộng đồng.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, yêu cầu về
chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân ngày càng cao, đòi hỏi người cán bộ không
những có trình độ, phẩm chất theo yêu cầu mà còn phải gương mẫu, đi tiên phong
về lý luận và thực tiễn, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, giữ vững tư cách và tiêu chuẩn của ngưới cán
bộ.
Để xác định chất lượng của một cá nhân ngoài phẩm chất, giá trị của chính
bản thân con người đó là một yếu tố nữa đó là sự đánh giá của xã hội. Hay nói cách
khác, phẩm chất, giá trị đó có đáp ứng nhu cầu của xã hội hay không. Rõ rằng trong
từng giai đoạn phát triển của xã hội thì nhu cầu cũng có sự biến động khác nhau.
Vì thế, khi nói đến chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân là nói đến tổng thể
những phẩm chất và năng lực của người cán bộ, nó thể hiện khả năng và kết quả của
họ, cụ thể là thực hiện những nhiệm vụ được cấp trên giao phó và luật định. Khi

xem xét chất lượng cán bộ Ủy ban nhân dân có thể xem xét qua các đặc tính sau:
Thứ nhất, Khả năng hoạch định, định hướng, chỉ đạo, quản lý, điều hành hoạt
động của Ủy ban nhân dân. Ở khía cạnh này, đó là sự đánh giá của cơ quan quản lý
cấp trên và nhân dân địa phương nơi cán bộ công tác.
Thứ hai, Phẩm chất, giá trị về kiến thức, năng lực, các kỷ năng, phẩm chất
đạo đức, sức khoẻ. Đó là tổng hợp các yếu tố chuyên môn được đào tạo, kinh
nghiệm làm việc, năng khiếu cá nhân, yếu tố tiềm năng hoặc thiên bẩm sinh cao khả
năng làm việc.
Để đánh giá một cách toàn diện, khi nghiên cứu chất lượng cán bộ Ủy ban

18


×