Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Biểu tượng trong xứ tuyết Kawabata Yasunari

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.88 KB, 75 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA NGỮ VĂN
------------------------------------

HỌC PHẦN VĂN HỌC ẤN- NHẬT
TIỂU LUẬN

BỘ BA BIỂU TƯỢNG TUYẾT- GƯƠNG- KIMONO
TRONG TÁC PHẨM XỨ TUYẾT CỦA
KAWABATA YASUNARI
GVHD: TS. Nguyễn Thị Bích Thúy

TP.Hồ Chí Minh – 30/05/2017

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................................5
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.......................................................................................................................................5
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU..............................................................................................................................6
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU........................................................................6
0


3.1. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................................................................6
3.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................................................6
4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.............................................................................................................................................7
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................................................................................................................11
6. KẾT CẤU TIỂU LUẬN...................................................................................................................................11
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT..................................................................................................12
1. GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ BIỂU TƯỢNG.................................................................................................12
1.1. Biểu tượng và biểu tượng văn hóa........................................................................................................12
1.2. Từ biểu tượng văn hóa đến biểu tượng trong văn học..........................................................................14


1.3. Sử dụng phương thức biểu tượng trong sáng tác văn học Nhật Bản truyền thống..............................15
2. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA KAWABATA..........................................................................................19
2.1. Cuộc đời.................................................................................................................................................20
2.2.Sự nghiệp văn chương............................................................................................................................25
3. VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM XỨ TUYẾT.........................................................................................................28
3.1. Thời gian sáng tác..................................................................................................................................28
3.2. Kết cấu...................................................................................................................................................30
3.3. Chủ đề....................................................................................................................................................30
3.4. Cốt truyện..............................................................................................................................................31
3.5. Nghệ thuật..............................................................................................................................................32
3.6. Vị trí của Xứ tuyết trong sự nghiệp sáng tác của Kawabata và trong văn học Nhật Bản hiện đại.....34
CHƯƠNG II: BIỂU TƯỢNG TUYẾT, GƯƠNG, KIMONO TRONG TÁC PHẨM XỨ TUYẾT..................36
1. TUYẾT – YUKI...............................................................................................................................................36
1.1. Thế giới tinh khiết của tuyết..................................................................................................................36
1.2. Những con người thuần khiết của tuyết................................................................................................42
2. GƯƠNG – KAGAMI.......................................................................................................................................47
2.1. Gương – sự hòa quyện tuyệt diệu.........................................................................................................48
2.2. Gương - ảo ảnh và hiện thực.................................................................................................................50
2.3. Gương – con người................................................................................................................................52

1


3. KIMONO..........................................................................................................................................................53
3.1. Kimono và thiếu nữ...............................................................................................................................55
3.2. Kimono và nghề thủ công tao nhã của Nhật Bản.................................................................................60
CHƯƠNG III: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG TRONG XỨ TUYẾT.......................................64
1. TẠO Ý NGHĨA BIỂU TƯỢNG TRÊN CƠ SỞ TƯƠNG PHẢN ĐỐI LẬP..................................................64
2. SỬ DỤNG PHÉP LẶP MANG Ý NGHĨA CHO CHI TIẾT..........................................................................66
3. LỰA CHỌN TIÊU ĐỀ TÁC PHẨM LÀ MỘT BIỂU TƯỢNG.....................................................................69

KẾT LUẬN...........................................................................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................................................74

THÀNH VIÊN NHÓM VÀ PHÂN CÔNG
STT
1

Họ tên và MSSV
Nguyễn Minh Dương

Phần phụ trách
- Biểu tượng “Kimono”
2


41.01.601.019

- Tổng hợp; Kết luận; Dàn ý.

2

Vũ Thị Hạnh

- Biểu tượng “Tuyết” (yuki)

3

41.01.601.026
Vũ Thị Hòa


- Vài nét về tác phẩm Xứ tuyết

4

41.01.601.030
Nguyễn Thị Lan Hương

- Sử dụng phép lặp mang ý nghĩa cho chi tiết;

41.01.601.035

Lựa chọn tiêu đề tác phẩm là một biểu tượng.
- Chỉnh sửa; Chính tả

5

Trần Thị Ngọc Huyền

- Biểu tượng và biểu tượng văn hóa; Từ biểu

6

41.01.601. 039
Nguyễn Thị Lộc Ngân

tượng văn hóa đến biểu tượng trong văn học.
- Lịch sử vấn đề; Phương pháp nghiên cứu; Kết

7


41.01.601.066
Huỳnh Thị Yến Nhi

cấu tiểu luận.
- Tạo ý nghĩa biểu tượng trên cơ sở tương phản

41.01.601.077

đối lập.
- Chỉnh sửa.

8

Lâm Thị Huỳnh Như

- Biểu tượng “Gương” (kagami)

41.01.601.084

- Chỉnh sửa.

Đinh Thị Minh Phương

- Sử dụng phương thức biểu tượng trong sáng

41.01.601.091

tác văn học Nhật Bản truyền thống.

10


Nguyễn Thị Thanh Hiền

- Chỉnh sửa, Hình thức
- Cuộc đời và sự nghiệp của Kawabata.

11

41.01.601.027
Phan Nữ Xuân Quỳnh

- Lí do chọn đề tài; Mục đích nghiên cứu; Đối

41.01.601.097

tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát.

9

3


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Kawabata Yasunari là một tác giả lớn của văn học Nhật Bản trong thế kỷ
XX. Ông cũng là nhà văn đầu tiên của đất nước Nhật Bản nhận giải Nobel với bộ
ba tác phẩm Xứ Tuyết (Yukiguni), Ngàn cánh hạc (Sembazuru) và Cố đô (Kyoto)
vào năm 1968. Là hiện tượng kỳ diệu của nền văn học Nhật Bản. Kawabata được
xem là “nhà văn sinh ra bởi vẻ đẹp của Nhật Bản”, “là người cứu vớt cái đẹp.” Nhà
4



văn đại tài Yasuari là người đã góp phần lớn trong việc tìm kiếm, khám phá, thể
hiện vẻ đẹp truyền thống của đất nước hoa anh đào. Suốt mấy chục năm qua hiện
tượng kỳ diệu này chưa bao giờ hết là con số bí ẩn trong lòng các nhà nghiên cứu
và những người say mê văn chương đặc biệt là văn chương của đất nước mặt trời
mọc.
Khi nhắc đến nhà văn Kawabata Yasunari nhiều người chắc chắn sẽ nhớ đến
tác phẩm Xứ Tuyết. Đây không chỉ là tác phẩm đã góp phần đưa tên tuổi của
Kawabata đến với giải thưởng văn học cao quý mà còn được nhớ đến vì mang đậm
những nét đẹp của đất nước Nhật Bản. Đã từng có nhận định về tác phẩm Xứ
Tuyết như sau “Một văn phẩm đẹp và huyền bí, một trong những tiểu thuyết tinh tế
và gợi cảm nhất từng xuất hiện trên xứ sở Phù Tang ”. Đã bảy mươi năm kể từ
ngày tác phẩm này hoàn tất nhưng nó vẫn giữ riêng cho mình những giá trị vẹn
nguyên cùng năm tháng, mỗi khi đọc lại chính đọc giả lại có cho mình những cảm
nhận rất riêng.
Một trong những thành công của tác phẩm Xứ Tuyết là hệ thống những biểu
tượng trong tiểu thuyết này. Thông qua biểu tượng tác giả đã góp phần thể hiện
được những đặc trưng tinh thần, tính cách và nét đẹp trong văn hóa, con người của
đất nước Nhật Bản. Việc hiểu rõ về biểu tượng và ý nghĩa của các biểu tượng đó sẽ
góp phần giúp hiểu rõ hơn giá trị của tác phẩm. Và việc tìm hiểu văn hóa của một
đất nước xinh đẹp như Nhật Bản thông qua một tác phẩm đạt giải thưởng Nobel
văn học cũng là việc làm cần thiết của những người học văn. Chính những lí do
trên đã thôi thúc nhóm chúng tôi thực hiện đề tài này.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài này được đưa ra nghiên cứu để tìm hiểu, khám phá những biểu tượng
trong tác phẩm Xứ Tuyết của nhà văn Kawabata Yasunari- một thành công lớn của
tác phẩm.

5



Qua các biểu tượng hiểu rõ hơn về văn hóa và con người Nhật Bản. Thấy
được giá trị của những vẻ đẹp trong tác phẩm từ góc nhìn văn hóa, thấy được
những đóng góp của tác phẩm cho nền văn học.
Để thấy được phương thức xây dựng các biểu tượng là yếu tố quan trọng
trong tác phẩm. Lí giải được nguyên nhân vì sao các biểu tượng đã góp phần tạo
nên sự thành công của tác phẩm và tên tuổi của Kawabata Yasunari.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Biểu tượng trong tác phẩm Xứ Tuyết của
Kawabata Yasunari
3.2.

Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay tác phẩm của nhà văn Kawabata được dịch ra tiếng Việt chưa

nhiều. Chúng tôi sử dụng tác phẩm Xứ Tuyết in trong Yasunari Kawabata tuyển tập tác phẩm, Trung tâm văn hóa Đông Tây, NXB Lao động, Hà Nội.
(2005)
Trong quá trình nghiên cứu, để cho cở sở lập luận của mình thêm thuyết
phục, chúng tôi sử dụng thêm những tài liệu trên báo chí, sách và internet về lịch
sử, văn hoá, văn học nghệ thuật…có liên quan.
4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
4.1. Kawabata mang tầm vóc bậc thầy thế giới với tài năng văn chương và
phong cách nghệ thuật độc đáo. Năm 1968 ông nhận được giải Nobel Văn học.
Là một trong những nhà văn xuất sắc nhất thế kỷ XX, Kawabata được tuyển dịch
tác phẩm và giới thiệu rộng rãi trên thế giới.
Bách khoa toàn thư Nhật Bản (Encyclopedia of Japan) đã đánh giá cao
các tác phẩm của Kawabata. Mục Kawabata Yasunari đã khẳng định thái độ coi


6


trọng giá trị truyền thống, “cũng có nghĩa ông coi cái chết, sự suy tàn bằng cách
thương xót hơn là chấp nhận”.
Năm 1971, nhà xuất bản Matxcơva của Nga đã cho xuất bản Kawabata với
nhan đề Kawabata – sinh ra bởi vẻ đẹp nước Nhật. Nhà xuất bản này lại một lần
nữa cho in cuốn Y.Kawabata – sự tồn tại và khám phá cái đẹp, từng có cả
tình yêu và lòng căm thù.
Cũng là đề cao nghệ thuật của Kawabata. Trong hướng dẫn người đọc
đến với văn học Nhật Bản, J.Thomas Rimer cũng đã viết: “Mặc dù có những
gợi ý về một triết lí thẩm mỹ phức tạp phía sau văn bản, tiểu thuyết vẫn có một
sự lôi cuốn tức thời, cả trong màu sắc hình ảnh, lẫn trong sự nhạy bén tâm lí thể
hiện những đoạn đối thoại khác nhau tạo nên nhịp điệu cho câu chuyện. Ngôn
ngữ của Kawabata kiệm lời nhưng rất gợi cảm….”Kawabata được đánh giá cao
về nghệ thuật viết truyện, nhất là khả năng gợi cảm của ngôn từ “có thể làm lu
mờ khả năng của bất kì camera nào”.
Một công trình khá nổi bật nghiên cứu về Kawabata được đánh giá cao về
Kawabata nhưng lại chủ yếu lí giải phương pháp sáng tác của nhà văn, đó là:
Kawabata Ysunari: Sự giao hòa giữa bài ca cổ điển phương Đông với những
kĩ thuật tiên tiến. Tác giả là Setsuko Tsutsumi đã tập trung lí giải, tìm hiểu tác
phẩm tác giả ở phương pháp sáng tác dựa trên sự kết hợp của văn hóa, mỹ học,
triết học… Nhật Bản. Là một luận án Tiến sĩ của người Nhật vầ văn học Phù
Tang tại trường Đại học Washington, nên cách tiếp cận và thể hiện cội nguồn dân
tộc lẫn văn hóa truyền thống Phù Tang của người viết rất tường tận, tỉ mỉ rất đáng
quan tâm.
Tác phẩm của Kawabata Yasunari đến Việt Nam lần đầu tiên vào năm
1969 với bản dịch Xứ tuyết của Chu Việt và Tạp chí Văn (Sài Gòn) đã cho ra số
đặc biệt về Kawabata. Trong đó, có đăng hàng loạt truyện ngắn cùng nhiều bài

giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Nhưng đến năm 1989, bạn đọc được
7


biết đến tiểu thuyết thứ hai của Kawabata Ysunari thông qua bản dịch Tiếng rền
của núi của Ngô Quý Giang. Năm 1990, tác phẩm Ngàn cánh hạc của Giang Hà
Vị dịch, Người đẹp say ngủ của dịch giả Vũ Đình Phong. Năm 1997, Tuyển tập
truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel của Nhà xuất bản Văn học có đăng ba
truyện ngắn của ông. Đến năm 2001, Nhà xuất bản Hội nhà văn cho ra đời Tuyển
tập Kawabata gổm 4 tiểu thuyết: Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi,
Người đẹp say ngủ. Năm 2005, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông – Tây đã
xuất bản Tuyển tập tác phẩm Kawabata Ysunari gồm khá đầy đủ các sáng tác của
ông trên cả ba thể loại: 6 truyện ngắn, 46 truyện trong lòng bàn tay và 6 tiểu
thuyết cùng một số bài nghiên cứu nổi bật vầ con người – sự nghiệp Kawabata
Ysunari trong nước và trên thế giới.
4.2. Trên thế giới có nhiều nhà nghiên cứu rất quan tâm đến Kawabata
Ysunari.

Như nhà Đông phương học người Nga – N.T.Phedorenko trong bài

viết Kawabata – con mắt nhìn thấu cái đẹp. Qua cuộc gặp gỡ đặc biệt với
Kawabata, bằng sự am hiểu sâu sắc bản sắc văn hóa Nhật Bản từ vườn đá tảng
đến mỹ học Thiền, tác giả đã nhìn nhận Kawabata trong mối quan hệ với nguồn
cội xứ sở và từ đó thấy được “Tư tưởng về cái đẹp bên trong, giá trị vĩnh hằng
của nó trong đời sống con người nghệ thuật luôn luôn quyến rủ nhà văn, ám ảnh
đầu óc ông, ăn sâu vào tiềm thức ông trong suốt con đường sáng tạo”. Cái đẹp là
một trong những ý nghĩa biểu tượng quan trong nhất với sáng tác của Kawabta
nói chung và tiểu thuyết của ông nói riêng.
Nhà nghiên cứu Donald Keene khi viết về Xứ tuyết đã chỉ ra rằng: “Người
ta cần phải đọc Kawabata một cách cẩn thận, không chỉ riêng Xứ tuyết mà còn

với tất cả các tác phẩm quan trọng khác của ông, vì văn phong của ông có thể
khó nắm bắt, lại dựa vào những khả năng độc đáo để tạo sự mơ hồ, cho dù lối
truyền đạt biểu cảm được cung cấp đầy đủ bởi chính ngôn ngữ Nhật Bản.” Sự
khó nắm bắt hay mơ hồ trong tác phẩm của Kawabata phần nhiều là do việc sử
dụng phương thức biểu tượng trong biểu đạt nội dung, tư tưởng.
8


Trong cuốn Các nhà văn học Nhật hiện đại của nhà văn vô sản Anônô
Xuêtuti đã rất chú ý đến chức năng “thanh lọc” tâm hồn con người trong tác
phẩm Kwabata: “Mỗi lần đọc tác phẩm của Kawabata, tôi lại cảm thấy các âm
thanh cung quanh tựa hồ như lắng đi, không khí bỗng trở nên trong trẻo, còn tôi
thì hòa tan vào trong đó. Tôi không biết tác phẩm nào khác có sức tác động
mạnh mẽ đến như thế không? Và sở dĩ có hiện tượng như vậy có lẽ bởi vì trong
các sáng tác của Kawabata không có gì cần gì vẩn đục hay dung tục.”
Oe Kenzabuuro ông viết: “Một mặt, Kawabata khẳng định mình đi theo
truyền thống và cách thức cảm thụ cái đẹp xuyên suốt nến văn học cổ điển
phương Đông, vậy nhưng mặt khác, ông đã vượt khỏi bản thân mình để phân
biệt cái trống rỗng là đặc trưng cho những tác phẩm của mình và chủ nghĩa
Phương Tây”. Đây là một sự hé lộ về đặc trưng của thế giới biểu tượng trong tác
phẩm Kawabata.
Trong bài viết Thi pháp tiểu thuyết Yasunar Kawabata, nhà văn lớn của
Nhật Bản trên tạp chí Văn học Phó giáo sư Lưu Đức Trung khẳng định, thi pháp
tiểu thuyết Kawabata là thi pháp chân không, vốn là đặc trưng của thơ haiku.
Hầu hết các bài nghiên cứu của Phó giáo sư đã thâu tóm được đặc trưng nghệ
thuật của Kawabata, gần với thế giới biểu tượng trong sáng tác của Kawabata
hơn cả.
Nhà văn hóa Hữu Ngọ, trong Dạo chơi vườn văn Nhật Bản có bài viết: Du
khách u buồn Kawabata và Xứ tuyết, tác giả đã đưa ra nhận định mang ý nghĩa
quan trọng cho chúng ta khi đi tìm biểu tượng đặc sắc trong tiểu thuyết Xứ tuyết

của Kawabata: “Sáng tạo của Kawabta thấm nhuần ý thức tha hóa và mất
mát, sự tìm kím một cái đẹp thuần túy, siêu nhiên thường gặp ở một người
phụ nữ hay một người tế nhị nữ tính”.
Trong tác phẩm Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata của Đào Thị
Thu Hằng nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện trong sáng tác của Kawabata đi vào
9


không gian trong những tấm gương. Từ đó, “thủ pháp tấm gương” được tiến sĩ đầ
cập tới như thể là “một công cụ đắc lực trong việc khai thác thế giới nội tâm con
người. Tấm gương của Kawabata được khoác một tấm áo rất hiện đại, mới mẻ
với những quan niệm, triết lí về tình yêu, cuộc sống.” Đáng chú ý là việc chỉ ra
hai kiểu nhân vật tiêu biểu mà theo chúng tôi trở thành cặp biểu tượng độc đáo
trong tác phẩm Kawabata là “lữ khách đi tìm cái đẹp” và “người phụ nữ trong
trắng”.
Biểu tượng là một nhân tố quan trọng góp phần làm nên thành công cho
tác phẩm Kawabata. Tuy nhiên các nghiên cứu về vấn đề này còn đơn lẻ, tản
mạn, chưa đi sâu vào khám phá phá biểu tượng trong sáng tác của Kawavbata.
Như vậy, việc nghiên cứu thế giới biểu tượng trong sáng tạo nghệ thuật của
Kawabata nói chung và Xứ tuyết nói riêng cần được tiếp tục triển khai trên một
cái nhìn tổng thể và sâu sắc hơn.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa: Tìm hiểu, nghiên
cứu văn hóa Nhật Bản qua các chặng đường phát triển.
- Phương pháp liệt kê: những biểu tượng trong tác phẩm Xứ tuyết để làm sáng
rõ nghệ thuật xây dựng biểu tượng trên con đường nghệ thuật của tác giả và
thấy được giá trị của tiểu thuyết Xứ tuyết.
- Phương pháp loại hình
- Phân tích- tổng hợp: Dựa vào một số nhận xét, đánh giá của một số nhà
nghiên cứu, phê bình và dựa vào sự phân tích văn bản tác phẩm để người viết

đưa ra nhận xét, đánh giá của mình để bài viết mang tính chất khoa học và
thuyết phục hơn.
6. KẾT CẤU TIỂU LUẬN
Gồm 3 phần:
- Phần 1: Mở đầu
- Phần 2: Nội dung
10


Chương

1:

Những

vấn

đề

khái

quát

Chương 2: Biểu tượng tuyết - gương - kimono trong tác phẩm Xứ tuyết
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong Xứ tuyết
- Phần 3: Kết luận

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1. GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ BIỂU TƯỢNG

1.1. Biểu tượng và biểu tượng văn hóa
Trong bài mở đầu cuốn “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới”, tác giả viết
rằng: “Thời đại không có biểu tượng là thời đại chết, xã hội thiếu biểu tượng là
xã hội chết. Một nền văn minh không còn có biểu tượng thì sẽ chết, nó chỉ còn
thuộc về lịch sử”. Có thể nói, trong cuộc sống hàng ngày – bất luận là chúng ta
có nhận ra hay không, song trong khi nghĩ suy, nói năng hay trò chuyện với
người khác và thậm chí là cả trong các giấc mơ, mỗi người đều sử dụng các biểu
11


tượng. Biểu tượng, trước hết, là những hình ảnh của thế giới khách quan, ở bên
ngoài con người. Một màu cờ đỏ búa liềm, một bông hoa hé nở hay một cánh
chim bay… tất cả đều là biểu tượng hay ngay cả các từ chỉ bộ phận trên cơ thể
con người nhiều khi cũng được dùng làm biểu tượng. Khi chúng ta nói: “Lực
lượng cảnh sát là tai, là mắt của nhân dân”, “đó là cái bắt tay của tình hữu nghị”
hay “chặn đường tiếp tế tức là đã đánh vào cái dạ dày của kẻ địch” thì đấy đã là
sự vận dụng hình tượng một cách rất phổ biến trong đời sống hàng ngày của
nhiều nhóm xã hội khác nhau.
Biểu tượng trong tiếng Việt có xuất xứ từ tên gọi “Représentation” hoặc
“Symbole” trong tiếng Pháp. Chúng ta có thể thấy trong từ điển tu từ - phong
cách- thi pháp học của Nguyễn Thái Hòa cho rằng: “ Trong tiếng Việt, những thuật
ngữ biểu tượng, biểu trưng, biểu hiện, tượng trưng là những từ gần nghĩa để dịch
Symbole , có ý nghĩa cơ bản là: một dấu hiệu( tín hiệu, kí hiệu) mang tính quy ước
hàm chỉ một đặc trưng, một phẩm chất, một sáng tạo hay hẹp hơn là có khả năng
gợi ra một đối tượng khác, ngoài sự vật khác ngoài sự thể hiện cụ thể của dấu
hiệu đó và được cộng đồng chấp nhận” . Quan niệm cho chúng ta thấy mối quan
hệ giữa biểu tượng và cộng đồng, biểu tượng là những hình ảnh, kí hiệu ngắn gọn
nhằm truyền đi một thông điệp nào đó và được đông đảo cộng đồng hiểu rõ và
chấp nhận nó.
Triết học và tâm lí Maxit cho rằng: “Biểu tượng là khái niệm chỉ một giai

đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật
còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm
dứt”. Biểu tượng ở đây được xem là một giai đoạn của quá trình nhận thức mà kết
quả là một ấn tượng còn đọng lại. Biểu tượng, khi đó gạn lọc tính cụ thể và trực
tiếp của tác động sự vật để ngưng tụ kết tinh tính cốt lõi và khái quát hóa cảm giác
thành ấn tượng trừu tượng hơn.

12


Xét đến bản chất của biểu tượng, biểu tượng tồn tại giữa những cặp có phạm
trù đối lập nhưng lại có quan hệ biện chứng với nhau giữa cái cụ thể và cái trừu
tượng, cái trực cảm và cái logic, tính cá nhân và tính cộng đồng, tính ổn định và
tính gợi mở, tính độc lập và tính tương tác. Biểu tượng không chỉ nằm trong khuôn
khổ của dấu hiệu và vượt ra khỏi khuôn khổ của sự biểu đạt để liên kết nhiều tầng
ý nghĩa.
Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, chúng tôi xét đến biểu tượng trong
văn hóa. Theo từ điển tu từ- phong cách-thi pháp học “biểu tượng văn hóa là
những biểu tượng thuộc lễ nghi, phong tục, tập quán, nếp sống, nếp suy nghĩ của
một cộng đồng dân tộc”. Như vậy ta có thể thấy rằng, biểu tượng trong văn hóa
trước hết là một sản phẩm mang tính dân tộc, nằm trong phạm vi của một dân tộc
nhưng cũng có những biểu tượng vượt lên trên phạm vi ấy mà vươn tầm trở thành
biểu tượng thế giới.
1.2.

Từ biểu tượng văn hóa đến biểu tượng trong văn học

Từ biểu tượng văn hóa đến biểu tượng trong văn học là sự phát triển từ cấp
độ hình ảnh lên hình tượng nghệ thuật.
Theo “ Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán-Trần Đình Sử-Nguyễn

Khắc Phi, quan niệm biểu tượng đi vào văn học còn gọi là tượng trưng được định
nghĩa như sau : “ Theo nghĩa rộng, tượng trưng là hình tượng được biểu hiện ở
bình diện kí hiệu, là kí hiệu chứa tính đa nghĩa của hình tượng. Mọi tượng trưng
đều là hình tượng nhưng phạm trù tượng trưng chỉ là phần mà hình tượng vượt
khỏi chính nó, chỉ sự hiện diện của một nghĩa nào đó vừa hòa hợp với hình tượng,
vừa không đồng nhất với hình tượng”.
Biểu tượng trở thành một đặc trưng cốt lõi của phương thức phản ánh trong
nghệ thuật. chính biểu tượng đã tạo nên sự đa nghĩa cho hình tượng văn học, mở ra
kết cấu cho văn bản văn học và cũng chính văn bản văn học làm giàu có thêm cho
thế giới biểu tượng “Sự trừu tượng hóa khoét rỗng biểu tượng và đẻ ra kí hiệu,
13


nghệ thuật, ngược lại, chạy trốn kí hiệu và nuôi dưỡng biểu tượng” nhưng bên
cạnh đó chúng ta không thể nói mọi hình tượng trong văn học đều có thể trở thành
biểu tượng bởi lẽ để trở thành biểu tượng, các hình tượng phải nằm trong ý nghĩa,
mục đích của nhà văn muốn hướng người đọc vào tâm tư, tình cảm mà nhà văn
muốn giải bày, hình tượng để trở thành biểu tượng phải mang một ý nghĩa cụ thể,
xác định đánh động vào linh cảm của người đọc, và người đọc giữ vai trò là một
chủ thể tiếp nhận tích cực, năng động tham gia vào quá trình “đồng sáng tạo” cùng
nhà văn.
Biểu tượng văn học bắt nguồn từ biểu tượng văn hóa, vì thế chúng cũng
mang ý nghĩa lịch sử, chịu sự chi phối của thời đại, chịu ảnh hưởng bởi ý thức
chung của xã hội, cộng đồng bên cạnh đó biểu tượng chịu sự chi phối của nhà văn
– là người có quan niệm nghệ thuật, cảm quan nghệ sĩ, phong cách cầm bút, cá
tính sáng tạo riêng biệt của mỗi người mà biểu tượng hiện lên trong văn bản văn
học sẽ khác nhau như thế nào. Cho nên việc khám phá chiều sâu ý nghĩa của biểu
tượng là phải đặt trong quan niệm nghệ thuật của nhà văn để tìm thấy nét độc đáo
và nội dung tiềm ẩn bên trong và nhờ giá trị tự thân và nội tại nằm trong biểu
tượng văn học khiến ý nghĩa biểu tượng văn học mở rộng trên nhiều bình diện, cấp

độ, từ đó tạo cho vă học một vẻ đẹp vô tận và song hành với thời gian.
Như vậy, có thể thấy rằng biểu tượng từ văn hóa đến với văn học là cả một
quá trình thanh lọc, chưng cất, bồi đắp thêm mang những nét riêng biệt của từng
nhà và cả ý nghĩa cộng đồng, xã hội , diễn tả được những nét nghĩa trọn vẹn của
hình ảnh đó.
1.3.

Sử dụng phương thức biểu tượng trong sáng tác văn học Nhật Bản
truyền thống
Có thể nói, biểu tượng trong văn học không còn là một khái niệm quá khó

hiểu hay mới lạ đối với mỗi chúng ta. Và phương thức sử dụng biểu tượng là một
phương thức vừa xưa cũ vừa hiện đại trong sáng tác văn học. Ngay từ khi xuất
14


hiện thể loại văn học đầu tiên là thần thoại thì xây dựng các biểu tượng chính là
cách tốt nhất để con người biểu đạt khát vọng của mình là tri giác và mô tả thế
giới. Hình dung dễ nhất có thể kể đến thần thoại Hi Lạp về các vị thần, thần Zeus
với biểu tượng là sấm sét, quyền trượng ông cai quản toàn bộ bầu trời: hay cây
đinh ba là biểu tượng của vị thần biển cả Neptune, ông cai quản mọi sinh vật dưới
biển và có quyền lực mạnh nhất dưới đó,…Đến thế kỉ XIX, phương Tây xuất hiện
chủ nghĩa tượng trưng thì biểu tượng càng có vai trò cực kì quan trọng trong việc
xây dựng một thế giới siêu nghiệm mà con người chỉ có thể cảm nhận được khi
nằm trong mối tương quan giữa các giác quan và buộc vượt qua khỏi các cảm tính
thông thường. Thế kỉ XX là lúc xuất hiện và phát triển mạnh dòng văn học phi lí,
giá trị biểu tượng khi ấy đã đạt được những “nấc thang” mới trong việc chuyển tải
ý nghĩa ẩn trong tác phẩm và là “sợi dây” vô hình gắn kết tư duy người đọc và văn
bản. Càng gần xã hội đương đại thì giá trị biểu tượng càng được phát triển mạnh
mẽ hơn nhưng không ồn ào mà lắng sâu và trầm tĩnh hơn. Nói điều này để chứng

tỏ rằng, việc sử dụng biểu tượng trong sáng tác không phải là một hình thức “cá
biệt” gì đối với bất kỳ nền văn học dân tộc nào. Tất nhiên với mỗi một nền văn
dân tộc khác nhau, sẽ đưa ra sự đa dạng về giá trị biểu tượng mang những đặc tính
riêng biệt trên một cái cốt lõi chung.
Văn học Nhật Bản từ giai đoạn khởi thủy đến năm 1866 được chia làm 4
giai đoạn chính: Thời Nara (thể kỉ VIII), Thời Heian( thế kỉ IX- XII), Thời trung
đại- Kamakura và Muromachi (thế kỉ XIII- XV) và Thời Edo ( thế kỉ XVII- 1868).
Mỗi thời đều xuất hiện những nhà thơ, nhà văn lớn với các tác phẩm xuất sắc đánh
dấu tên tuổi. Và một trong những đặc điểm chung xuyên suốt mọi tác phẩm ấy
chính là việc sử dụng tài tinh tế, đặc sắc phương thức biểu tượng để làm nổi bật
lên những cảm quan về con người, về cuộc sống.
Ngay từ thời Nara thì biểu tượng đã được xuất hiện trong tác phẩm
Manyoshu (Vạn diệp tập), nó là kiệt tác của giai đoạn này và là ngọn hải đăng của
thơ ca Nhật Bản. Ở tiêu đề bài thơ, Osawa đã có nhận xét rằng: “hay đến độ người
15


ta so sánh với lá. Một câu thơ hay cũng như một chiếc lá: thơ tự nhiên tuôn ra
dưới ngòi bút thi nhân một cách dễ dàng, cũng như lá tự nhiên đâm ra trên cành
không chút nào gò bó”, chiếc lá đã trở thành một biểu tượng thiên nhiên để ứng
chiếu cho câu thơ hay. Cũng trong tác phẩm này, một biểu tượng truyền thống của
Nhật Bản cũng được đề cập tới, đó chính là hoa anh đào với các chi tiết như:
“Ta còn vượt núi Tatsuya
anh đào xin hãy đợi ta đừng tàn”
Hay:
“Anh đào gợi nhớ tên ai
năm năm hoa nở lại xui nhớ người”
Hoa anh đào với thời kì khai hoa rất ngắn và lập tức tàn phai nên đã tượng
trưng cho vẻ đẹp ngắn ngủi phù du, gắn với các cuộc chia tay đầy luyến tiếc, được
xem như là trung tâm của mỹ học Nhật Bản.

Thời Heian được mệnh danh là thời của cái đẹp. Đúng như vậy, trong các
sáng tác giai đoạn này đều có thể tìm thấy được các biểu tượng độc đáo, đầy ý nhị
về cái đẹp. Tiểu thư ánh trăng- “thủy tổ của vật ngữ”, ánh trăng ở đây là ánh trăng
mới mọc nhưng ánh sáng của nó lại mang một sự khác thường. Theo lời ngợi ca
của Murasuki- tác giả truyện Genji là một biểu tượng tuyệt diệu về cái đẹp. Nhờ
vào biểu tượng ánh trăng đã giúp thể hiện sâu sắc nội dung của tác phẩm “là cái
đẹp, là cái lí tưởng không với tới được vì luôn tồn tại một khoảng cách giữa nàng
và thực tại cuộc sống.” Sinh thời, nhà văn hào Kawabata đã say mê cuốn truyện
này từ nhỏ và xem nó như “một sự tôn thờ sự trinh bạch của người phụ nữ và lời
ngợi ca nữ tính vĩnh cửu”.

16


Có thể nói thời Heian là thời của cái đẹp còn vì nó đã sản sinh ra cuốn tiểu
thuyết vĩ đại nhất của nền văn học Nhật Bản, một kiệt tác văn học của thế giới:
Genji Monogotari. Truyện Genji là một trong những tác phẩm cổ điển hiếm hoi,
được xem là cuốn tiểu thuyết tâm lí đầu tiên của nhân loại vì đã đi sâu vào thế giới
nội tâm của con người qua những cảm thức mơ hồ nhất: say mê, tuyệt vọng, mơ
mộng, u buồn,…Do sự chi phối của cảm thức aware (hay mono no aware) nên có
thể nói, Genji monogatari là thế giới của niềm bi cảm. Đó là niềm bi cảm về thời
gian, về đời sống, về con người, về tình yêu, sự sống và cái chết… Thế giới ấy
buồn nhưng đẹp, sầu nhưng không lụy. Nó vẫn đem đến cho người ta niềm ham
mê cuộc sống, tiến đến cuộc sống:
“Ta bắt được em rồi
phù du ơi phù du
nhưng em biến đi đâu
hay em chưa từng có
trong tay ta bao giờ”.
Chẳng hạn, với quan niệm cuộc đời là phù du, vô thường, gieo nhân nào gặt

quả nấy và ai cũng phải gánh lấy nghiệp của mình nên tác giả Murasaki đã cho
tám trong mười người đàn bà đi qua cuộc đời Genji cạo đầu đi tu trong khi hai
người kia thì bạc mệnh chết trẻ. Sự vô thường của cuộc sống vừa là nỗi buồn vừa
là vẻ đẹp. Genji monogotari là tiếng hát về niềm biểu đạt nghịch lí -vô thường là
đẹp.
Biểu tượng ăn sâu vào tiềm thức văn học của người Nhật đến mức nó là
cách trang trọng để gọi tên các tác gia kiệt xuất. Thời trung đại với Saigyo- “nhà
thơ của hoa anh đào”, Myoe với cái tên “nhà thơ của trăng” và thời Edo với tên
tuổi lừng danh cùa M.Basho gắn liền với thể thơ Haiku truyền thống. Mở đầu diễn
17


từ nhận giả Nobel, Y. Kawabata đã trân trọng dẫn thơ của Saigyo và thơ của Myoe
để giới thiệu về tinh thần thơ Nhật Bản. Và kết thúc diễn từ, ông trích dẫn lời của
thiền sư Saigyo: “Khi ta nói về hoa, thì ta đâu nghĩ đó là những bông hoa hiện
thực. Khi ta ngợi ca trăng, ta đâu nghĩ đó là mảnh trăng thường tình. Hãy hình
dung khi chúng ta có cảm hứng và những lời thơ tuôn ra. Cầu vồng rực rỡ đổ
xuống và hình như bầu trời trống rỗng bỗng đổi màu. Mặt trời rực rỡ chiếu sáng
và bầu trời trống rỗng được chiếu sáng. Nhưng bản thân bầu trời không tự
nhuộm màu và cũng không tự chiếu sáng”. Trong những lời nói này có thể cảm
nhận đậm nét màu sắc Thiền, tư tưởng phương Đông về “hư vô”, “không tồn”. Đó
chính là lí do làm nên vẻ đẹp riêng cho vẻ đẹp biểu tượng Nhật, và đó cũng là lí
giải cho việc sử dụng rộng rãi, quen thuộc biểu tượng trong các sáng tác của nhà
văn, nhà thơ xứ sở Hoa anh đào.
Văn học truyền thống Nhật Bản thường mô tả các cuộc hành trình về với
thiên nhiên như một biểu tượng của cuộc tìm kiếm ý nghĩa đích thực của cuộc đời.
Vào thời kì Edo, tiêu biểu là nhà thơ thiền Matsuo Basho (1644-1694) với kiệt tác
văn xuôi xen lẫn thơ haiku Oku no hosomichi ( Áo chí tế đạo) ( Cách dịch Con
đường sâu thẳm của Nhật Chiêu hay Con đường hẹp thiên lí của Hàn Thuỷ Giang
đều sát nghĩa nguyên tác). Con đường sâu thẳm chính là những trải nghiệm của

Basho về sự vô thường và vĩnh hằng của đời sống. Nhà thơ không chỉ trải nghiệm
được sự huyền diệu trong cuộc sống mà còn đầy tài năng khi truyền đạt được nó
qua những áng văn trong Oku no hosomichi. Chủ đề xuyên suốt của tác phẩm là
hành trình về với cái đẹp của thiên nhiên, tìm về một nền văn hoá còn giữ nguyên
vẹn sự thuần phác và dung dị nơi phương bắc xa xôi, để xa rời xã hội phồn hoa
kinh kỳ. Và chủ đề ấy đã được Kawabata tiếp nối và thể hiện thành công qua Xứ
tuyết. Rõ ràng, Kawabata đã tiếp tục con đường mà các bậc tiền nhân đã đi để viết
tiếp những trang văn giàu chất thơ, thấm đẫm triết lí nhân sinh về cuộc đời.

18


Tóm lại, có thể thấy biểu tượng sớm đã trở thành phương thức biểu đạt
truyền thống trong văn học Nhật Bản. Mọi tác phẩm xuất hiện trong nền văn học
Nhật Bản truyền thống đều có những biểu tượng riêng biệt mang đậm bản sắc dân
tộc và đạt đến nấc thang tuyệt vời nhất để liên tưởng cuộc sống, đề cao sức mạnh
tâm linh để thấu hiểu tâm lí của con người của các tác gia nổi tiếng. Để rồi tới nhà
văn Y.Kawabata, trong sự nghiệp văn học đồ sộ và giàu có của mình, ông đã giúp
các giá trị trong truyền thống ấy đạt đến vẻ đẹp rực rỡ, tuyệt mĩ nhất qua thế giới
biểu tượng đa dạng, phong phú, đặc biệt tiểu thuyết là một minh chứng tiêu biểu
cho điều đó.
2. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA KAWABATA
Kawabata Yasunari (1899-1972) – tác gia lớn nhất của văn học Nhật Bản thế
kỉ XX, nhà văn Nhật Bản đầu tiên nhận giải Nobel, với bộ ba tác phẩm Xứ Tuyết
(Yukiguni), Ngàn cánh hạc (Sembazuru), Cố đô (Kyoto).
Ông là người có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nền văn học nghệ
thuật nước nhà cũng như những giá trị truyền thống của dân tộc.
2.1.

Cuộc đời


Kawabata sinh ngày 11-6-1899, ở một làng quê gần thành phố Osaka, cha
ông là một y sĩ, rất yêu thích văn chương nghệ thuật. Cuộc đời của Kawabata là
một cuộc đời “Lớn lên trong bóng đen của số phận” - một cuộc phấn đấu không
ngừng nghỉ để vượt qua rất nhiều khó khăn, thăng trầm trong cuộc sống. Cũng có
thể coi đó là “Chiếc gương soi trên đỉnh cô đơn”.
 Chịu nhiều bất hạnh từ nhỏ.
Ngay từ khi còn là một đứa trẻ Kawabata đã phải chịu những bất hạnh, mất
mát không hề nhỏ. Năm ba tuổi Kawabata đã mồ côi cha, bốn tuổi mất mẹ, cậu bé
Kawabata trở về sống bên ông bà. Nhưng trớ trêu thay, bốn năm sau người bà và
người chị duy nhất cũng ra đi, cậu bé bắt đầu cuộc sống tự lập. Đến năm mười lăm
19


tuổi, cậu mất nốt đi người ông nội (bị mù) – người thân cuối cùng bên cạnh. Chính
lúc bên giường bệnh của ông, cậu bé viết “Nhật kí tuổi mười sáu”, thể hiện rõ một
Kawabata đầy tình cảm và do hoàn cảnh đã sớm trưởng thành, cũng báo hiệu được
một tài năng văn học trong tương lai.
Chính hoàn cảnh mồ côi tạo nên tâm trạng đặc biệt của Kawabata: Bất hạnh
và cô độc. Cảm thức cô đơn hiu quạnh cũng từ đó mà“hắt bóng lên các trang văn
u buồn của Kawabata”.
 Có khả năng hội họa và ước mơ trở thành họa sĩ nhưng lại trở thành một
nhà văn.
Phải sống tự lập ngay từ thời niên thiếu, nhưng là người có nhiều hoài bão
và ước mơ, ngay từ thời trung học, Kawabata đã có thiên hướng trong lĩnh vực
nghệ thuật. Cùng bạn bè, ông sáng lập ra những tuần san nho nhỏ, biên tập và viết
bài, nuôi ước vọng trở thành họa sĩ. Sau này, khi đã trở thành nhà văn, ông vẫn thể
hiện niềm yêu thích của mình qua những bức thư pháp mà bạn bè và người thân
được ông gửi tặng nhân ngày lễ tết hay để ghi dấu một kỉ niệm đáng nhớ.
Đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời, thay vì phấn đấu để trở thành một

danh họa, năm 1920, Kawabata đã thi vào trường Đại học Hoàng Gia Tokyo, khoa
Anh ngữ nhưng cuối cùng ra trường với đề tài tốt nghiệp về tiểu thuyết Nhật Bản.
Đó cũng là âm hưởng chung trong quá trình “trở về với với truyền thống” trong
văn nghiệp của ông.
Thời sinh viên cuộc sống của Kawabata sôi động. Cùng với một số bạn văn
trẻ tuổi sáng lập tạp chí Trào lưu mới (sintio). Truyện ngắn đầu tay Lễ chiêu hồn
(sokogai Ikai) của ông đăng trên tạp chí này. Kawabata, cùng với một số bạn thân
thiết như Yokomitsu Riichi, Yokio Mishima… là những người đồng sáng lập hay
cùng hoạt động trong một số tạp chí có tên tuổi đương thời như Văn nghệ xuân thu
(Bungei Shunzui), Văn nghệ thời đại (Buigei jidai)…
 Có trái tim yêu mãnh liệt và những tình cảm khá đặc biệt.
20


Ẩn sau vẻ ngoài tưởng như trầm tĩnh, nhút nhát của chàng thanh niên nhỏ bé
Kawabata cũng có một trái tim mãnh liệt. Ngay từ thời còn học phổ thông, ông đã
có một mối tình con trẻ ghi dấu trong đời tư và cả trong sự nghiệp sáng tác của
mình. Mối tình với cô bạn cùng lớp mà ba mươi năm sau khi hồi tưởng lại, chính
ông gọi đó là “cú sốc ngọt ngào”. Nhưng có một tình yêu cực kỳ sâu sắc và mãnh
liệt, có ảnh hưởng lớn tới cuộc đời và cũng như nghiệp văn của Kawabata, bản thân
nhà văn cũng phải thừa nhận sự ảnh hưởng ấy. Đó là mối tình lãng mạn của tuổi hai
mươi. Khi đang học năm thứ hai đại học, Kawabata đã gặp một cô gái khiến ông
say đắm, trở thành nguyên mẫu cho hầu hết những “người đẹp trong trắng”, tuổi
không quá đôi mươi trong tác phẩm sáng tác của ông sau này, đó là một thiếu nữ
mới… mười lăm tuổi. Khi đó chàng sinh viên Kawabata, với con tim yêu cháy
bỏng, đã quyết định cô gái vị thành niên ấy trong hoàn cảnh hoàn toàn “vô sản”.
Mặc dù là một sinh viên nghèo, nhưng với tài năng văn chương sớm hiển lộ.
Kawabata đã thu hút được nhiều sự chú ý của độc giả tên tuổi. Trong số đó có một
người hứa giúp đỡ Kawabata tài chính để sống cuộc sống sau hôn nhân. Thế là cả
một “dự án” hoàn hảo về “ hậu thiên đường” như nơi ở, tiền sinh hoạt phí đã được

lên kế hoạch. Nhưng đến phút cuối thì…“cô dâu chạy trốn”. Người thiếu nữ ấy đã
bất ngờ hủy hôn mà không giải thích lý do. Chỉ một lá thư nhỏ từ hôn ước nhưng đã
khiến chàng trai đầy mơ mộng Kawabata tại thời điểm đó hoàn toàn gục ngã. Sau
này, khi hồi tưởng lại mối tình nhiều sóng gió ấy là sự “phản bội” những cũng ngậm
ngùi thừa nhận kết cục buồn của tình yêu ấy là do “giao ước miệng”, có nghĩa là
những hứa hẹn của Kawabata có thể bị coi là ảo tưởng.
Cô dâu bé nhỏ ra đi nhưng để lại nhiều kỷ niệm và phiên bản đầu tiên về
nàng có lẽ là Vũ nữ Izu với nàng Kaoru xinh đẹp, trắng trong có sức hút mạnh mẽ
bởi sự hồn nhiên của một thiếu nữ tuổi mười ba. Hình ảnh nàng còn trở đi trở lại
trong các tiểu thuyết khác với nhiều dáng vẻ nhưng luôn có phẩm chất thủy chung
của sự trong trắng đến vô song.

21


Những kí ức đậm sâu về một tình yêu không thành luôn là người bạn đồng
hành trong sự nghiệp sau này của nhà văn. Chính vì thế chủ đề tình yêu bị từ chối
xuất hiện thường xuyên trong tác phẩm của Kawabata. Tuy chúng không có sức
đánh bại ông nhưng lại có sức ám ảnh vô cùng to lớn. Cảm giác mất mát, phai tàn
về những gì tốt đẹp đã qua luôn ngự trị trong tác phẩm. Mang đậm cảm thức đơn
côi, tác phẩm của ông là những câu chuyện không có hồi kết, những câu chuyện
không bao giờ đi đến tận cùng. Đó là đặc điểm chung trong một tác phẩm của một
tâm hồn chứa nhiều ẩn số.
Cuộc sống riêng tư sau này của ông ít được đề cập đến. Người ta chỉ biết rằng
ông có quan hệ với rất nhiều diễn viên, những cô đào đóng vai các người đẹp trong
một số tiểu thuyết của ông được chuyển thành phim. Và sau này ông có lấy một cô
trong số đó làm vợ (nhưng hôn nhân không đăng kí). Ông có một cô con gái nhưng
lại là con nuôi. Những điều này là sự thực bởi ta biết được quan niệm của ông về
gia đình trong truyện ngắn Về chim và thú – một quan niệm khá đặc biệt là ông sợ
di truyền lại “thiên hướng mồ côi” cho đời sau và làm cho người thân của mình

không được hạnh phúc.
Ông được Kikuchi Kan – nhà viết kịch nổi tiếng giới thiệu cho một số tạp chí
và các nhà văn tên tuổi khác. Và với sự đỡ đầu này có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Cũng từ đó ông có những tình bạn đẹp và cũng luôn rộng lòng làm việc này cho lớp
đàn em.
 Tính cách, quan điểm sống.
Kawabata là người hiền lành, ít nói, có ý chí vững vàng, tự tin, độ lượng,
nâng đỡ các cây bút trẻ, ông không thích nói về bản thân, khó nắm bắt nhất trong
các nhà văn. Ông bước vào nghề với nhiều thuận lợi bằng tài năng cũng như cách
sống ôn nhã của mình.
Trong truyện Đời tôi như một nhà văn (1934) , Kawabata bộc lộ phương
châm sống: “ Tình yêu đối với tôi là sợi dây độc nhất giữ đời tôi lại” và “ Mồ côi
22


tự thủa nhỏ, tôi sống nhờ sự cưu mang của người khác. Có lẽ vì thế mà cuối cùng
tôi mất hết khả năng ghét người, ngay cả việc giận họ”.
 Cái chết đặc biệt của Kawabata.
Là một người chịu nhiều đau thương mất mát tư nhỏ, luôn cần một mái ấm,
một tình cảm thân thiết. Kawabata cực phản đối việc tự sát, một việc không quá xa
lạ trong “văn hóa chết” người Nhật. Ông từng bày tỏ thái độ bất bình trước những
người tự sát, ngay cả khi đó là Akutagawa Ruynosake, người mà ông vô cùng kính
trọng rằng: “Cho dù một người có thể chán ghét thế giới này đến thế nào, thì tự sát
cũng không phải là một hình thức của khai sáng, cho dù có thể đáng khâm phục thì
người tự sát cũng còn lâu mới tới được cõi niết bàn” (con mắt mạt kì-1993). Ông
bất bình và đau đớn bởi cách chết bi thảm ấy đã lấy đi không ít bạn bè thân thiết
quanh mình: Những họa sĩ, nhà văn như Akutaganawa (tự sát năm 1927), Mishima
(tự sát năm 1970)…
Thế nhưng nước Nhật đã phải bàng hoàng khó hiểu, tại sao một người luôn
phản đối những cái chết theo kiểu tự sát, phi tự nhiên như Kawabata lại giam mình

trong phòng đầy khí ga bên bờ biển Kamakura (16 tháng 4 năm 1972) và không để
lại di chúc hay lời tuyệt mệnh nào. Nơi ông chọn để kết thúc cuộc đời thành công
nhưng mang nặng dấu ấn bất hạnh từ tuổi thơ. Câu nói của nhân vật trong tiểu
thuyết Tiếng rền của núi, được coi là lời trăng trối của Kawabata: “Tốt nhất là hãy
từ bỏ thế giới này khi mọi người còn yêu mến và kính trọng ta”
Có nhiều phỏng đoán cho cái chết của ông như sức khỏe của ông kém, tâm
trạng u buồn cô độc không người chia sẻ hay nhà văn đang đòi hỏi ở mình quá
cao…Nhưng có lẽ, “người lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp” ấy muốn có một
chuyến khởi hành đến những vùng đất ông chưa từng đến.
 Người chủ xướng trào lưu Tân cảm giác.

23


Cuộc đời và sự nghiệp của Kawabata gắn liền với quá trình tiếp nhận và đổi
mới về cả kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa Nhật Bản. Những năm cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX, tư tưởng duy tân của của Minh Trị Thiên Hoàng đã thổi một
luồng gió mới vào Nhật Bản- vốn được coi là “ốc đảo”.Tinh thần “học hỏi phương
Tây, đuổi kịp phương Tây, vượt lên phương Tây” đã đưa lịch sử Nhật Bản sang một
trang mới. Sự đổi mới kinh tế khiến cho cả thế giới phải kinh ngạc, đã tác động
mạnh mẽ đến văn học nghệ thuật Nhật Bản. Nếu trước đây văn học Nhật Bản chịu
sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học phương Đông, đặc biệt là Ấn Độ,Trung Quốc
thì nay chịu sự tác động, chi phối của những quan điểm tự do dân chủ của phương
Tây, nhiều trào lưu, trường phái ra đời làm nên một diện mạo mới cho văn học Nhật
Bản: trẻ trung, phong phú và táo bạo.
Đầu thế kỉ XX, các bản dịch văn học Châu Âu đã đưa đến cho văn học Nhật
Bản những kĩ thuật, phương pháp sáng tác vô cùng mới lạ và có sức hấp dẫn lớn đối
với các nhà văn tân tiến. Sức hút của nhu cầu tìm hiểu, khám phá và thử nhiệm thật
mãnh liệt. Kawabata đã từng khẳng định “tính chất mới” là tất cả, và bày tỏ sự khó
chịu trước những cách viết đã được công thức hóa: “Mắt chúng ta rực cháy, khao

khát được biết điều chưa biết. Những lời chào hỏi qua lại của chúng ta biểu hiện
niềm vui mừng ở chỗ hiện nay ta có thể tranh luận với nhau bất cứ điều gì là mới.
Nếu một người nói “Good morning!” và người kia cũng trả lời lại là “Good
morning!” thì thật nhàm chán. Chúng ta hoàn toàn trở nên chán ngấy văn chương vì
nó không thay đổi như mặt trời ngày hôm nay vẫn mọc hướng đông như ngày hôm
qua”.
Tân cảm giác (còn gọi là duy cảm) là: Đề cao vai trò của trực giác trong việc
cảm thụ cái đẹp, là sự cảm nhận trực tiếp không dùng lý trí để phân tích. Tìm kiếm
khám phá, thể hiện vẻ đẹp truyền thống bằng cảm giác mới, bằng những rung động
tế vi. Nhằm chống lại chủ nghĩa tự nhiên ở phương Tây, tràn vào và áp đảo văn
chương Nhật từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Và tác phẩm thể nghiệm đầu tiên,

24


×