Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

SKKN Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí giáo dục ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.45 KB, 45 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Chủ nghĩa Mác – Lê nin khẳng định: con người là nhân tố quyết định tạo ra
mọi sự phát triển trong xã hội loài người. Để xã hội phát triển trước tiên phải tạo
ra sự phát triển con người. Đó là tiền đề, là điều kiện để phát triển xã hội. Đồng
thời, con người muốn phát triển tốt thì phải được giáo dục tốt, giáo dục là điều
kiện tiên quyết để tạo sự phát triển con người. Trong hệ thống giáo dục quốc
dân, giáo dục tiểu học được xem là nền tảng. Giáo dục tiểu học là một bậc học
không thể thiếu được của ngành Giáo dục – Đào tạo và có vai trò rất quan trọng
trong việc tạo ra sự phát triển con người một cách toàn diện.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII và IX, Đảng ta đều xác định và nhấn
mạnh:“ Giáo dục là quốc sách hàng đầu là một trong những động lực quan
trọng tạo sự chuyển biến toàn diện trong phát triển giáo dục và đào tạo”.
Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo của Đảng về Giáo dục - Đào tạo, thực
hiện chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2010 - 2020, ngành giáo dục đang
tích cực từng bước đổi mới nội dung chương trình, đổi mới phương pháp dạy
học, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới công tác quản lý giáo dục. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ đó cần phải có những giải pháp thích hợp và hiệu quả trong
công tác quản lí giáo dục.
Quản lý nhà trường là quản lý giáo dục ở góc độ hẹp, đó là quá trình
người Hiệu trưởng dựa vào các quy luật khách quan vốn có của đơn vị để tác
động có tính hướng đích đến cán bộ, giáo viên, học sinh,…nhằm thực hiện mục
tiêu đề ra. Như vậy, hoạt động quản lý là sự phân công, hợp tác lao động; là sự
duy trì, giữ gìn và sắp xếp, đổi mới để đưa nhà trường phát triển.
Theo tinh thần Nghị quyết số 29- NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8 Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI; Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục tiêu của
đổi mới lần này là: Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả
giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển
toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân;


yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Đổi mới
giáo dục nhằm nâng cao dân trí bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài; chuyển từ
3


trang bị kiến thức sang năng lực thực hiện. Phát triển giáo dục đào tạo gắn với
phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc. Đổi mới giáo trình theo hướng mở linh
hoạt, chuẩn hóa hiện đại. Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường, dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và chủ động hội nhập
quốc tế.
Trong thời gian qua, với tinh thần đoàn kết, sáng tạo, phát huy dân chủ;
Chi bộ, Ban giám hiệu trường Tiểu học Tề Lỗ đã tập trung lãnh đạo thực hiện tốt
công tác giáo dục, đào tạo theo hướng đổi mới trong công tác quản lý. Toàn thể
cán bộ, giáo viên, nhân viên được học tập quán triệt nội dung nghị quyết để từ
đó xác định được mục tiêu, phương hướng, xây dựng kế hoạch hành động cụ
thể, thiết thực. 100% cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường xác định việc xây
dựng uy tín nhà trường thông qua chất lượng các hoạt động, bằng những thành
tích của tập thể và cá nhân đạt được. Nội dung của nghị quyết cũng chính là
phương châm hành động của cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường.
Là một trường tiểu học của xã Tề Lỗ thuộc huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc - cửa
ngõ Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội, thuộc vùng Châu thổ sông. Tuy trường chưa
đưa được xây dựng bề thế, đầy đủ cơ sở vật chất, thế nhưng trong nhiều năm
qua, tập thể cán bộ, giáo viên, học sinh nhà trường đã nỗ lực hết mình, cố gắng
vượt bậc, cùng tinh thần trách nhiệm cao, với mục tiêu hàng đầu: “Thầy dạy tốt
- trò học tốt” để luôn xứng đáng với niềm tin yêu của các bậc phụ huynh học
sinh và cấp uỷ, chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
nói chung và chất lượng văn hóa nói riêng đang là yêu cầu cấp thiết của ngành
giáo dục ở tất cả các cấp học trong tình hình hiện nay. Từ góc độ nhìn nhận đó
mới thấy hết được sự cố gắng vươn lên của thầy và trò trường Tiểu học Tề Lỗ.
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì giáo dục - đào tạo nước ta vẫn còn

nhiều yếu kém. Một trong những yếu kém đó là chất lượng giáo dục đại trà còn
thấp, thể hiện ở chỗ năng lực tư duy độc lập và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
học sinh, sinh viên vào đời sống sản xuất, vào thực tiễn còn kém, nội dung
chương trình giảng dạy còn mang nặng tính lý thuyết, thiếu gắn bó với đời sống
xã hội, thiếu các kiến thức ứng dụng và thiếu rèn luyện phương pháp tư duy.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo nên các yếu kém và chất lượng
thấp của giáo dục - đào tạo nước ta là phương pháp dạy học còn quá lạc hậu,
phần lớn lực lượng giáo viên vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp dạy học truyền
thống, lỗi thời: dạy học theo kiểu giáo nhồi nhét, thầy nói trò nghe đã tạo cho học
4


sinh thói quen thụ động, chỉ biết lắng nghe ghi chép bài giảng và học thuộc lòng,
ít có cơ hội động não, từ đó kìm hãm tính tự chủ sáng tạo của học sinh.
Với phương châm coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, Nghị
quyết TW2 khoá VIII đã nhấn mạnh “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh”.
Giáo dục ngày nay đang đứng trước một thách thức lớn: Đào tạo một thế
hệ năng động sáng tạo, trở thành nguồn lực nội sinh cho phát triển và cạnh tranh
trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hoá – hiện đại hóa. Người giáo viên ngày nay
phải tìm cách dạy học làm sao phát huy, khơi dậy tính tích cực, đánh thức được
hứng thú, tiềm năng của thế hệ trẻ đặc biệt là khơi nguồn sáng tạo cho các em
ngày từ bậc tiểu học.
Ngành giáo dục Việt Nam đứng trước thời kỳ đổi mới cũng đã có những
biến đổi sâu sắc, toàn diện. Đã có không ít công trình nghiên cứu và các cuộc hội
thảo khoa học bàn luận về đổi mới công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học. Nhiều nhà trường, các cấp quản lý giáo dục đào tạo, ngày càng quan

tâm hơn về việc đổi mới công tác quản lý và coi đó như là nội lực quan trọng của
ngành cần phải được triển khai mạnh mẽ để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục đào tạo.
Nhận thức được tình hình quản lý hoạt động dạy và học còn đang gặp nhiều
khó khăn cần có những giải pháp có hiệu quả, lựa chọn đề tài đi sâu vào việc
nghiên cứu.
2. Tên sáng kiến:
“Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí giáo dục ở trường tiểu
học”.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Bùi Thị Sâm
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Hiệu trưởng Trường Tiểu học Tề Lỗ - Yên Lạc
– Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0913 866 975
E-mail:

5


4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Bùi Thị Sâm
Trường Tiểu học Tề Lỗ - huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Các giải pháp cải tiến quản lý dạy và học của Ban giám hiệu nhằm năng
cao chất lượng giáo dục của trường Tiểu học Tề Lỗ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh
Phúc; trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích thực trạng, xây dựng các biện pháp
cải tiến quản lý của Ban giám hiệu, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của các
trường tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của trường trường Tiểu
học Tề Lỗ - huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc, đề xuất một số giải pháp về đổi mới
công tác quản lý của Ban giám hiệu trường tiểu học nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học.

6. Ngày sáng kiến được áp dụng:
Sáng kiến được nghiên cứu trong các hoạt động quản lí giáo dục nhà
trường hàng tuần của năm học (từ tháng 9 năm 2015 đến hết tháng 5 năm 2016)Trường Tiểu học Tề Lỗ - Yên Lạc – Vĩnh Phúc.
7. . Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Về nội dung của sáng kiến:
7.1.1. Khái niệm về quản lí:
Quản lý là một hoạt động xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người. Từ lúc có
sự phân công lao động, sự xuất hiện của các tổ chức đã hình thành nên hoạt động
quản lý và hoạt động này phát triển không ngừng theo sự phát triển của xã hội.
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm quản lý:
Quản lý là tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức.
Theo Harold Koontz: “Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường mà
trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các
nhiệm vụ và các mục tiêu đã định”.
Theo F.W Taylor: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt
nhất”.
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản
lý lên khách thể quản lý về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế ... bằng một
6


hệ thống các luật lệ, các chính sách nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ
thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng.
Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật. Chính vì vậy trong quá
trình hoạt động, người cán bộ quản lý phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo
để chỉ đạo hoạt động của tổ chức đi tới đích đã đề ra.
Tổng quát có thể hiểu quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của

chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung.
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người quản
lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung. Trong các cơ sở giáo dục đào
tạo, đó là tác động của nhà quản lý giáo dục đến tập thể giáo viên, học sinh và
các lực lượng giáo dục khác trong xã hội nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu
quản lý giáo dục.
Quản lý là hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân
nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm
hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích
của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất.
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ
thể quản lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý
nhằm thực hiện mục tiêu chung của quản lý.
Về mặt khoa học, chức năng quản lý là bộ khung để tổ chức hệ thống kiến
thức quản lý. Về mặt thực hành, chức năng quản lý là cơ sở để xác định những
nhiệm vụ quản lý, xây dựng bộ máy quản lý, phân công phân nhiệm; là căn cứ để
xác định chức năng cơ quan và chức năng cán bộ. Toàn bộ hoạt động quản lý đều
được thực hiện thông qua các chức năng quản lý.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản là: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
Các chức năng trên có mối quan hệ qua lại khăng khít với nhau, tạo thành một
quá trình quản lý khép kín.
+ Lập kế hoạch là một chức năng của quản lý và thường là khởi điểm của
quản lý nếu xét trong một chu trình quản lý nhất định, là quá trình xác định ra các
mục tiêu và quyết định phương thức đạt các mục tiêu đó.
Lập kế hoạch là ra quyết định, bao gồm việc lựa chọn một đường lối hành
động cho tổ chức qua các việc xác định mục tiêu, chương trình hành động, các
bước đi, điều kiện, phương tiện trong một thời gian nhất định. Đó là xác định
trước xem phải làm cái gì, làm thế nào, khi nào làm, ai sẽ làm, điều kiện đảm
bảo là gì. Việc lập kế hoạch bắt một nhịp cầu từ trạng thái hiện tại đến trạng thái
dự định tương lai của tồ chức; giúp chủ động thực hiện công việc, hạn chế thấp

7


nhất việc phó thác cho may rủi, tạo khả năng cho một thành viên của tổ chức biết
được mục đích, mục tiêu của họ, biết rõ nhiệm vụ để thực hiện và những đường
lối chỉ dẫn đi tới mục tiêu.
Khả năng thực hiện chức năng lập kế hoạch dựa trên các kỹ năng nhận thức
và ra quyết định của chủ thể quản lý. Sản phẩm của lập kế hoạch là các bản kế
hoạch.
+ Tổ chức: là một quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các
thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức, đồng thời phân công điều phối
các nhiệm vụ và nguồn lực để đạt được các mục tiêu đề ra. Thành tựu của một tổ
chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và phong cách của chủ thể quản lý vào
việc huy động và sử dụng các nguồn lực, cũng như tạo động lực cho tổ chức hoạt
động đồng bộ.
Chức năng tổ chức có thể xem gồm các nội dung chính sau đây:
- Thứ nhất là hình thành và không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý.
Trong đó, các bộ phận được phân chia hợp lý; mỗi bộ phận, cá nhân ứng với
từng cấp quản lý và thừa hành các mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ rành mạch, có
quyền hạn tương xứng đảm bảo cho các công việc được tiến hành, phối hợp một
cách đồng bộ, nhịp nhàng; hệ thống các mối quan hệ phối hợp, quan hệ phụ thuộc
trên dưới được xác lập với mức rõ ràng cao nhất.
- Thứ hai là quá trình hình thành và không ngừng nâng cao chất lượng của
cơ cấu nhân lực. Cơ cấu nhân lực phản ánh số lượng và tỉ lệ của từng loại cán bộ,
công nhân viên và phải phù hợp với cơ cấu tổ chức quản lý. Đó là việc xác lập
tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá, tuyển dụng, sắp xếp, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển cán bộ công nhân viên ...
- Thứ ba là quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch, các hoạt động chung.
Thực chất ở đây là cho vận hành kế hoạch, thực hiện các hoạt động. Cần chú ý
xác định cụ thể tiêu chuẩn cho từng công việc, phân công rành mạch cho từng bộ

phận, cá nhân, đảm bảo các điều kiện, phương tiện, quy định tiến độ thực hiện
công việc theo thời gian.
+ Chỉ đạo: là quá trình truyền đạt, thuyết phục, tác động và thúc đẩy các
thành viên trong tổ chức thực hiện công việc hướng đến các mục tiêu cần đạt
được.
Lãnh đạo là một chức năng cơ bản của quản lý, nhưng quản lý bao gồm
nhiều việc hơn lãnh đạo. Lãnh đạo là động viên và chỉ dẫn. Lãnh đạo tốt là điều
kiện cần để quản lý giỏi. Chức năng lãnh đạo trong quản lý được xác định như là
một quá trình tác động đến con người làm cho họ thực sự sẵn sàng và nhiệt tình
8


phấn đấu để hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Để lãnh đạo tốt phải chú ý đến khía
cạnh con người trong quản lý, đặc biệt là việc phát hiện các nhu cầu và hình
thành các động cơ thúc đẩy cho các thành viên của tổ chức. Vấn đề then chốt của
lãnh đạo là làm hài hoà các mục tiêu cá nhân, làm cho các nhu cầu cá nhân phù
hợp cao nhất với các yêu cầu của tổ chức; là kích thích nhằm khơi dậy các tiềm
năng, huy động tối đa những nỗ lực của mọi người.
Chức năng lãnh đạo còn đòi hỏi nhà quản lý phải quan tâm theo dõi để kịp
thời giúp đỡ việc khắc phục những trở ngại trong khi thi hành nhiệm vụ và chỉ
dẫn thực hiện công việc cho cấp dưới.
+ Kiểm tra: là quá trình thiết lập và thực hiện các cơ chế thích hợp, theo
dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành những hoạt động điều chỉnh
uốn nắn khi cần thiết để đảm bảo đạt được mục tiêu của tổ chức.
Kiểm tra là đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm đảm bảo rằng, các
mục tiêu và các kế hoạch vạch ra để đạt tới các mục tiêu này đã và đang được
hoàn thành. Quá trình kiểm tra gồm 3 bước: xây dựng các tiêu chuẩn, đo lường
việc thực hiện nhiệm vụ theo tiêu chuẩn, điều chỉnh sự khác biệt giữa các tiêu
chuẩn và kế hoạch.
Việc kiểm tra có thể thực hiện theo ba kiểu sau:

- Kiểm tra trước công việc tập trung vào việc phòng ngừa những sai lệch ở
đầu vào, đòi hỏi các tiêu chuẩn về chất lượng và số lượng của đầu vào, thí dụ về
nhân lực, vật tư, tài chính ...
- Kiểm tra trong công việc tập trung theo dõi các hoạt động đang tiến hành
để đảm bảo rằng mọi cái đều hướng đến mục tiêu. Những tiêu chuẩn chỉ đạo hoạt
động đang diễn ra được rút ra từ phần mô tả công việc và từ những chính sách
được hình thành từ chức năng lập kế hoạch.
- Kiểm tra sau công việc tập trung vào các kết quả cuối cùng để rút kinh
nghiệm chấn chỉnh, cải thiện đầu vào và các hoạt động tương lai, nó đòi hỏi phải
có những tiêu chuẩn rõ ràng về số lượng và chất lượng sản phẩm.
Thực hiện luân phiên các chức năng trên tạo nên một chu trình quản lý mở
đầu là lập kế hoạch, rồi tổ chức và kết thúc là kiểm tra. Sau đó một chu trình quản
lý mới lại kế tục. Thực tế các chức năng quản lý cơ bản trên không có sự tách
bạch, thứ tự rạch ròi và nói chung, chúng gối đầu lên nhau; có những chức năng
được thực hiện trong khi chức năng khác đang diễn ra.
Ngay từ thời tiền sử đã có hiện tượng giáo dục, đó là sự truyền thụ kinh
nghiệm xã hội của người này cho người khác, của thế hệ trước cho thế hệ sau.
Quản lý giáo dục cũng xuất hiện rất sớm, có thể nói là gắn liền với giáo dục. Lúc
9


ban sơ, quản lý giáo dục xuất hiện như một phần việc “kiêm nhiệm” của người
dạy. Sự phát triển giáo dục làm cho quản lý giáo dục được chuyên môn hoá dần
và trở thành một nghề trong xã hội.
Đến nay khái niệm quản lý giáo dục được quan niệm theo nhiều cách khác
nhau, chẳng hạn:
Thuyết quản lý khoa học của F.W.Taylor (1856-1915) - người Mỹ.
Một trong những lý thuyết quản lý tiêu biểu phải kể đến đầu tiên là
Thuyết quản lý khoa học của F.W.Taylor. Taylor đã đề xuất ra những nguyên tắc
cơ bản để quản lý một cách khoa học, cải tiến quy trình tuyển dụng, huấn luyện

nhân viên và tìm kiếm một phương pháp hữu hiệu nhất để hoàn thành công việc.
Tuy nhiên, trường phái quản lý khoa học trong khi đề cao vai trò trung tâm của
công nghệ đã ít quan tâm đến khía cạnh con người trong sản xuất. Họ cho rằng,
nhân công là một yếu tố của hao phí sản xuất và cũng là một yếu tố bất định.
Theo Konđakôp, đó là: “Tập hợp những biện pháp tổ chức, phương pháp
giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu... nhằm đảm bảo sự vận hành bình
thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp túc phát triển
và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng”.
Theo M.Weber, để quản lý tốt một tổ chức cần xác định rõ những vấn đề
quy luật, chuẩn mực của tổ chức, phân định rạch ròi quyền hạn của mỗi cấp
quản lý, có những cam kết ràng buộc mỗi thành viên với tổ chức và ngược lại.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối của nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
được tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu chuẩn hội tụ là
quá trình dạy học – giáo dục thể hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến
lên trạng thái mới về chất.
Theo Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục thực chất là những tác động của chủ
thể quản lý vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học
sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường”. Định
nghĩa của Trần Kiểm đã phản ánh rõ thực tế quản lý giáo dục ở một nhà trường.
Các định nghĩa trên xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau, giúp ta
nhận thức đầy đủ hơn về những khía cạnh biện pháp trong quản lý giáo dục.
Konđakôp đã nhấn mạnh đến khía cạnh biện pháp trong quản lý giáo dục,
Nguyễn Ngọc Quang lưu ý nhiều đến tính cụ thể của các mục tiêu quản lý giáo
dục, Trần Kiểm quan tâm hơn về đối tượng và khách thể của quản lý giáo dục.
10



Tóm lại, qua phân tích, ta càng thấy rõ quản lý là một khoa học nhưng đồng
thời cũng là một nghệ thuật, người quản lý phải biết vận dụng một cách linh hoạt
và sáng tạo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
7.1.2. Quản lý giáo dục trong nhà trường tiểu học
Nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên biệt thực hiện chức năng giáo dục
của Nhà nước, của cộng đồng và của xã hội. Nhà trường có nhiệm vụ đào tạo thế
hệ trẻ trở thành những con người phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần,
những người có ích cho xã hội. Toàn bộ hoạt động của nhà trường đều hướng đến
thực hiện mục tiêu đào tạo.
Trường tiểu học là tổ chức giáo dục cơ sở có chức năng giáo dục, đào tạo
học sinh, chủ yếu thuộc địa bàn phụ trách, đạt được những phẩm chất nhân cách
theo mục tiêu mà xã hội, nhà nước yêu cầu. Quản lý nhà trường đó là một thiết
chế xã hội đặc biệt, nơi tập hợp những nhà giáo thành một tập thể sư phạm để
thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu chung. Chủ thể quản lý nhà trường là Hiệu
trưởng và các Phó hiệu trưởng; tập thể giáo viên và học sinh không chỉ là đối
tượng quản lý mà còn là những chủ thể trong quá trình dạy học – giáo dục, trong
đó vai trò chủ thể của quá trình tự đào tạo, tự giáo dục cần được phát huy đến
mức tối đa.
Về quản lý nhà trường, Phạm Minh Hạc đã đưa ra quan niệm khái quát, dễ
hiểu là:
+ Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm
vi trách nhiệm mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo, đối với ngành giáo dục, với thế hệ
trẻ và với từng học sinh.
+ Việc quản lý nhà trường phổ thông (có thể mở rộng ra là việc quản lý giáo
dục nói chung) là quản lý dạy – học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái
này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục.
Bản thân tôi quan niệm quản lý nhà trường là:
+ Thực hiện hệ thống tác động có tính nghệ thuật, hợp quy luật, hợp pháp
thông qua các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra đến tập giáo

viên – công nhân viên, học sinh, phụ huynh học sinh và các lực lượng xã hội liên
quan.
+ Khai thác tối đa và sử dụng tối ưu các nguồn lực từ nhà nước, từ xã hội
hoá; phối hợp các hoạt động giáo dục, mà trung tâm là dạy – học nhằm đạt được
các mục tiêu giáo dục đào tạo nhân cách học sinh và phát triển nhà trường với chi
phí ít nhất và đạt sự đồng thuận cao nhất.
11


Quan niệm trên không chỉ đòi hỏi quản lý nhà trường có chất lượng mà cả
về hiệu quả, và lưu ý đến tính nghệ thuật trong tác động quản lý, rất cần thiết với
đặc tính sư phạm của nhà trường.
Tiêu điểm của giáo dục trong phạm vi nhà trường là hoạt động dạy học và
giáo dục bao gồm:
Quản lý chương trình dạy học và giáo dục của nhà trường
Quản lý giáo viên và phát triển nghề nghiệp của người dạy
Quản lý học sinh và các hoạt động của người học
Quản lý thiết bị, cơ sở vật chất và những điều kiện khác đảm bảo cho hoạt
động của nhà trường đạt được mục tiêu đã đặt ra.
Quản lý quá trình dạy học là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) nhằm làm cho quá trình
dạy học vận hành theo đường lối của Nhà nước, thực hiện được những yêu cầu
của nền giáo dục XHCN trong việc đào tạo con người mới.
Hoạt động trung tâm của nhà trường là hoạt động dạy và giáo dục của thầy
và hoạt động học tập của trò. Những hoạt động này đồng thời diễn ra trong quá
trình dạy học. Dạy học bao hàm trong nó là sự dạy và sự học gắn bó với nhau,
trong đó sự dạy về thực chất là sự tổ chức, chỉ đạo và điều khiển sự học của trò.
Do vậy, quản lý quá trình dạy học là một trong những nội dung quản lý cơ bản
của quản lý nhà trường. Đây là một công việc rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự
quản lý của người Hiệu trưởng phải vừa khoa học, vừa mang tính nghệ thuật,

phải am hiểu nghề quản lý, nắm vững đặc điểm tình hình nhà trường, từ đó mới
có thể đưa ra những hướng đi phù hợp, giúp đội ngũ giáo viên và học sinh thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình, đi đến mục tiêu chung.
Quản lý không chỉ là quá trình dạy học mà còn là quản lý quá trình chấp
hành những quy định, quy chế chuyên môn của giáo viên và hoạt động học tập
rèn luyện của học sinh. Quản lý tốt nội dung này sẽ giúp cho hoạt động của thầy
và trò được thực hiện một cách nghiêm túc và do đó đạt được hiệu quả, chất
lượng.
Để xây dựng công tác quản lý quá trình dạy học đối với nhà trường, cần
nắm rõ các vấn đề: đối tượng quản lý, yêu cầu và mục tiêu quản lý, nội dung
quản lý.
+ Đối tượng quản lý quá trình dạy học:
Đó là hoạt động của giáo viên, học sinh và các tổ chức sư phạm của nhà
trường trong việc thực hiện các kế hoạch và chương trình dạy học nhằm đạt mục
tiêu với chất lượng cao.
12


+ Mục tiêu quản lý quá trình dạy học:
Đó là trạng thái được xác định trong tương lai của đối tượng quản lý hay
một số yếu tố cấu thành nó. Nói cách khác, mục tiêu của quản lý quá trình dạy
học đó là những kết quả mà chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) dự kiến sẽ đạt do quá
trình vận động đối tượng quản lý dưới sự điều khiển của chủ thể quản lý, làm thế
nào để đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ các kế hoạch giáo dục - đào tạo và các
nội dung chương trình giảng dạy đúng tiến độ quy định với chất lượng cao.
+ Nội dung quản lý quá trình dạy học:
Quản lý việc thực hiện, kế hoạch và chương trình giảng dạy: là quản lý quá
trình dạy, giáo dục của giáo viên sao cho kế hoạch và chương trình giảng dạy
thực hiện đúng về nội dung, thời gian và quán triệt được các yêu cầu của mục
tiêu đào tạo.

Quản lý hoạt động của giáo viên, học sinh: là quản lý việc thực hiện các
nhiệm vụ giảng dạy giáo dục của giáo viên, các nhiệm vụ học tập rèn luyện của
học sinh.
7.1.3. Những đặc điểm của trường tiểu học
Để các tác động quản lý hợp quy luật và có tính nghệ thuật cao nhất, cần
phải xem xét kỹ một số đặc điểm dưới đây trong quá trình quản lý một trường
tiểu học:
+ Trường tiểu học là một tổ chức giáo dục cơ sở thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân, có tư cách pháp nhân, là nơi tiếp nhận 100% trẻ 5 tuổi đã qua mẫu giáo
hoặc chưa qua mẫu giáo và tiếp tục giáo dục - đào tạo các em qua các lớp 1, 2, 3,
4 và 5 để từng bước hoàn thành nhiệm vụ của giáo dục phổ thông. Mục tiêu tổng
quát của nhà trường là: “Giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát
triển, tiếp tục học trung học cơ sở.
+ Cấp tiểu học được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp một đến lớp năm.
Tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi; là cấp đầu tiên của giáo dục phổ
thông, là bước đầu hình thành và phát triển, góp phần tạo nên sự chỉnh thể của
chương trình giáo dục phổ thông và sự liên thông với trung học cơ sở. Cấp tiểu
học có nhiệm vụ trực tiếp tạo nguồn cho bậc trung học cơ sở; Giáo dục tiểu học
nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học
sinh tiếp tục học trung học cơ sở; vừa góp phần quan trọng vào việc đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung. Nói
13


cụ thể hơn, giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh có hiểu biết đơn giản,
cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc,
viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban

đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật.
+ Do mỗi học sinh có đặc điểm riêng về tâm sinh lý, sức khỏe, hoàn cảnh,
nguyện vọng ... cho nên giáo dục, dạy học ở trường tiểu học phải chú ý tới sự
phân hoá ở mức độ thích hợp trên cơ sở đảm bảo tính phổ thông với nội dung học
vấn nền tảng, làm cơ sở cho sự phát triển hài hoà và toàn diện nhân cách học
sinh.
+ Để Việt Nam có thể hội nhập được với thế giới, giáo dục đào tạo ở trường
tiểu học cần phải coi trọng việc hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng
và phương pháp sau: Hành động có hiệu quả, sáng tạo, phối hợp hoạt động và tự
khẳng định mình. Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
+ Giáo viên tiểu học là những đối tượng quản lý có trình độ chuẩn, lòng tự
trọng cao. Sự đồng thuận của tập thể giáo viên đối với lãnh đạo nhà trường ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả công việc. Thế nên, phong cách quản lý
quyền hành, áp đặt là không phù hợp; quản lý bằng phương pháp tâm lý – xã hội,
động viên – kích thích cần được quan tâm.
7.1.4. Mục tiêu quản lý trường tiểu học.
Mục tiêu quản lý nhà trường có bao hàm trong đó mục tiêu giáo dục nhân
cách và là một hệ thống đa cấp. Mục tiêu quản lý nhà trường có thể là cho một
thời gian dài hay ngắn, ví dụ như mục tiêu năm năm, mục tiêu một năm ... Mục
tiêu quản lý một năm được thể hiện trong bản kế hoạch năm học của nhà trường,
đó là kết quả mong muốn, là dự kiến trạng thái sẽ đạt tới của hệ thống nhà trường
vào cuối năm học khi kế hoạch được hoàn thành.
Khi nói tới mục tiêu quản lý là nói tới mong muốn, dự kiến, đó cũng là
nhiệm vụ – chức năng, cái phải thực hiện trong khi triển khai hoạt động và đồng
thời cũng chính là kết quả đạt được khi kết thúc hoạt động.
* Hệ thống mục tiêu quản lý trường tiểu học

Trong giai đoạn hiện nay cần tập trung vào các mục tiêu cơ bản sau đây:
+ Đảm bảo quy mô nhà trường góp phần đáp ứng có hiệu quả nhu cầu học
tập của học sinh.
14


+ Nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy học – giáo dục thông
qua ba loại hoạt động cơ bản là dạy học, hoạt động xã hội và giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh.
+ Xây dựng các đoàn thể, tổ chức, đặc biệt là tập thể sư phạm, tập thể lớp tự
quản với yêu cầu mạnh về tính tổ chức, đội ngũ giáo viên ngày càng vững về
chuyên môn, có không khí chan hoà - hợp tác – học hỏi – hỗ trợ lẫn nhau.
+ Quản lý tốt việc thu chi tài chính; phát triển, sử dụng hiệu quả và bảo
quản cơ sở vật chất – thiết bị dạy học của nhà trường; chăm lo hoàn thiện điều
kiện làm việc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của giáo viên, công nhân
viên.
+ Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục.
+ Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra nội bộ trên cơ sở cải
tiến công tác kế hoạch, cụ thể hoá hệ thống tiêu chuẩn công việc, phối hợp các
chủ thể kiểm tra và kết hợp với thanh tra từ bên ngoài nhằm tăng cường mối liên
hệ quản lí và giáo viên, nhân viên thường xuyên, bền vững.
+ Thường xuyên đổi mới quản lý, trong đó chú ý tăng cường dân chủ hoá
và tự quản nhà trường, củng cố khối đoàn kết hướng về mục tiêu chung và nâng
cao văn hoá quản lý.
7.1.5. Nội dung quản lý trường tiểu học
Công việc quản lý ở trường tiểu học rất phức tạp và đa dạng. Tuy nhiên, có
thể chia thành những nội dung chủ yếu dưới đây:
+ Quản lý các hoạt động dạy học – giáo dục, chằng hạn như dạy và học,
giáo dục lao động – giáo dục kĩ năng sống, hoạt động chính trị – xã hội, hoạt
động giáo dục thể chất, thẩm mỹ ...

+ Quản lý nhân sự: cán bộ, giáo viên, công nhân viên.
+ Quản lý hoạt động phục vụ như công tác tài chính, hành chính, thư viện ...
+ Quản lý cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
Các nội dung trên có quan hệ tác động, ảnh hưởng lẫn nhau phục vụ cho nội
dung quản lý hoạt động dạy và giáo dục.
7.1.6. Quản lý dạy học ở trường tiểu học
*/ Dạy học và quản lý dạy học.
+ Dạy học là hoạt động phối hợp, thống nhất giữa giáo viên và học sinh
nhằm giúp học sinh lĩnh vực và hình thành hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; các
giá trị xã hội nhằm phát triển những tiềm năng trí tuệ, những phẩm chất tốt đẹp
của nhân cách. Trong đó, giáo viên có vai trò chủ đạo thể hiện qua việc kích

15


thích, hướng dẫn, tổ chức, điều khiển; học sinh là chủ thể của việc học với vai trò
chủ động, tích cực, sáng tạo.
Dạy học là một hệ thống gồm các thành tố: mục đích, nội dung, thầy với
hoạt động dạy, trò với hoạt động học, phương pháp, phương tiện và kết quả. Các
yếu tố này có mối liên hệ hữu cơ, chặt chẽ. Toàn bộ hệ thống được nằm trong môi
trường kinh tế, chính trị – xã hội và chịu sự tác động qua lại với môi trường.
Sự vận động và phát triển của quá trình dạy học là kết quả của quá trình tác
động biện chứng giữa các nhân tố trên. Kết quả dạy học là kết quả phát triển tổng
hợp của toàn hệ thống.
Về mặt thực hành, có thể mô tả dạy học bằng sơ đồ sau:
ĐẦU VÀO
N DUNG, CHƯƠNG TRÌNH
D HỌC; HS - GV- CBNV;
CSVC-PT-KT


TIẾN TRÌNH THỰC HÀNH
HĐ DẠY

P. PHÁP

HĐ HỌC

ĐẦU RA – M TIÊU
HS với cấu trúc trình độ mới:
- Tri thức, kỹ năng,..
- Thái độ, niềm tin, giá trị

Muốn nâng cao chất lượng đầu ra của quá trình dạy học, cần phải nâng cao
chất lượng của từng thành tố đầu vào, của tiến trình thực hiện, chất lượng tổng
hợp của hệ thống và của môi trường.
Dạy học là một chỉnh thể bao gồm hai mặt là dạy và học. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, dạy học được hiểu là quá trình thực hiện hoạt động dạy học
của giáo viên.
Theo nhận xét của một số nhà giáo dục, dạy là hoạt động của giáo viên tổ
chức, hướng dẫn và điều khiển tối ưu hoạt động của học sinh mà kết quả là học
sinh lĩnh hội nội dung giáo dưỡng và giáo dục một cách tích cực, tự lực, tự giác
và hứng thú.
+ Quản lý dạy học là nội dung cốt lõi của quản lý nhà trường. Đó là quá
trình Ban giám hiệu, thông qua các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, lãnh đạo và
kiểm tra mà tác động đến giáo viên, học sinh, nhân viên nhà trường, phụ huynh
học sinh và những lực lượng xã hội liên quan để cho nhiệm vụ dạy và học được
diễn ra trong môi trường với điều kiện tốt nhất, đúng với nguyên lý giáo dục và
các nguyên tắc dạy học nhằm đạt đến mục tiêu dạy học của trường tiểu học. Quản
lý dạy học của Ban giám hiệu chủ yếu và trực tiếp là quản lý công việc chuyên
môn của giáo viên.

*/ Mục tiêu quản lý dạy học ở trường tiểu học
16


Mục tiêu quản lý dạy học là trạng thái mong muốn của hệ thống dạy học
sau một khoảng thời gian xác định mà quá trình dạy và học được thực hiện.
Khoảng thời gian đó có thể là một học kỳ, một năm học hay một cấp học ...
Quản lý dạy học ở trường tiểu học trong giai đoạn hiện nay cần đạt các mục
tiêu chủ yếu sau đây:
+ Đảm bảo và nâng cao chất lượng theo mục tiêu dạy học thông qua hình
thức dạy học chính khoá và ngoại khoá.
+ Học sinh học tập chuyên cần, nền nếp, chủ động, tích cực; có phương
pháp tích cực, thích hợp và tăng cường tự học.
+ Đảm bảo quy chế chuyên môn; làm giảm dần những yếu tố thụ động, phát
huy những yếu tố tích cực của phương pháp dạy truyền thống; tăng cường vận
dụng, phát triển các phương pháp dạy học tích cực – “lấy học sinh làm trung
tâm” vào thực tế dạy học.
+ Tích cực và sử dụng hiệu quả đồ dùng học tập, các phòng chức năng, đặc
biệt là áp dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
+ Đẩy mạnh hoạt động bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nhất là tự bồi
dưỡng; chủ động hỗ trợ, giúp nhau tiến bộ về chuyên môn.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến (phát huy khả năng sáng tạo
trong công tác thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí giáo dục ở
trường tiểu học).
7.2.1. Một số nội dung quản lý giáo dục cụ thể ở trường tiểu học
* Nội dung khái quát
Dựa vào tính chất và mức độ đáp ứng yêu cầu của mục tiêu dạy học, quản
lý dạy học gồm hai mặt chủ yếu là:
Thứ nhất, quản lý việc thực hiện quy chế chuyên môn.
Thứ hai, quản lý việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học với các nội

dung cơ bản:
+ Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn;
+ Quản lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên;
+ Quản lý sinh hoạt tổ chuyên môn;
+ Quản lý hoạt động học tập của học sinh;
+ Quản lý công tác phục vụ dạy học.
*/ Quản lý việc thực hiện quy chế chuyên môn
Quy chế là điều định ra để mọi người cùng theo mà làm. Chuyên môn là tri
thức sâu rộng về lĩnh vực khoa học. Ở đây quy chế chuyên môn được quan niệm
17


là hệ thống những tiêu chí, quy định về quá trình dạy học mà mọi giáo viên trong
nhà trường có thể và có trách nhiệm tuân thủ để quá trình dạy học và những việc
liên quan trực tiếp đến dạy học được tiến hành một cách suôn sẻ, trật tự, ổn định,
chuẩn mực; phù hợp với các quy luật và nguyên tắc dạy học cơ bản.
Thực tế, quy chế chuyên môn gồm những quy định do Bộ và Sở GD - ĐT
ban hành cùng với những quy định, yêu cầu nội bộ do Hiệu trưởng đưa ra trên cơ
sở cụ thể hoá một số nội dung từ Luật giáo dục, Điều lệ trường tiểu học, các quy
chế liên quan đến dạy học của ngành GD - ĐT.
Đảm bảo quy chế chuyên môn có nghĩa là tất cả những quy định phải được
thực hiện đúng và thành hệ thống những thói quen tự nhiên hàng ngày trong mọi
khâu của quá trình dạy học. Nói cách khác, đảm bảo quy chế chuyên môn tức là
hình thành và duy trì được nền nếp thực hiện quy chế chuyên môn.
Tác dụng và ý nghĩa của nề nếp chuyên môn:
- Giúp cho các hoạt động, công việc dạy của nhà trường được tiến hành
theo trật tự, ổn định, đảm bảo các yêu cầu cơ bản và đúng tiến độ thời gian.
- Đảm bảo được chất lượng ban đầu, chất lượng nền của quá trình dạy học.
- Tạo nền tảng và môi trường thuận lợi cho việc duy trì và nâng cao chất
lượng dạy học. Nền nếp chuyên môn không chỉ là một mục tiêu của quản lý dạy

học mà còn là một yếu tố của văn hoá dạy học, một phương tiện để giữ vững và
nâng cao chất lượng – hiệu quả dạy học.
Nhận thức được tầm quan trọng của quản lý việc thực hiện quy chế chuyên
môn, Ban giám hiệu trường Tiểu học Tề Lỗ đã tiến hành những biện pháp như
sau:
*1 - Thứ nhất là xây dựng và quán triệt quy chế chuyên môn trong Hội đồng
giáo viên:
+ Xây dựng các nguyên tắc xây dựng quy chế nội bộ:
- Nội dung của quy chế nội bộ là sự cụ thể hoá và bổ sung những quy định
cần thiết nhưng không được mâu thuẫn với các văn bản của cấp trên.
- Nội dung quy định cần cụ thể, rành mạch, cô đọng, rõ nghĩa và dễ nhớ. Số
lượng các quy định vừa phải, thể hiện tính trọng tâm, không tràn lan.
- Vừa sức, khả thi, mọi giáo viên đều có thể thực hiện được.
- Đảm bảo tính dân chủ và tập trung. Cần tạo điều kiện cho tất cả giáo viên
tham gia thảo luận, góp ý bản quy chế dự thảo và hạn chế thấp nhất sự áp đặt.
- Nội dung các quy định bao gồm những yêu cầu về chất lượng và cả số
lượng, chú ý tính lượng hoá để thuận lợi cho việc thực hiện và kiểm tra đánh giá.

18


- Không làm ảnh hưởng đến sự sáng tạo, chủ động của giáo viên trong quá
trình dạy học.
+ Quy chế chuyên môn gồm những khâu chủ yếu sau:
- Chuẩn bị dạy học: Làm kế hoạch dạy học năm, soạn giáo án, phương tiện
dạy học.
- Việc dạy trên lớp và hướng dẫn học tập ở nhà
- Kiểm tra – thi cử - đánh giá học sinh
- Tự bồi dưỡng chuyên môn và sinh hoạt chuyên môn
- Hồ sơ chuyên môn

+ Cần có giai đoạn áp dụng tạm thời. Dù trong giai đoạn áp dụng tạm thời
hay chính thức, quy chế nội bộ cần thể hiện thành văn bản hành chính và gửi đến
từng giáo viên của trường để giúp giáo viên nắm đầy đủ, chính xác và nâng cao ý
thức chấp hành. Sau một thời gian áp dụng, thường là vài năm, nếu thấy không
còn phù hợp cần kịp thời điều chỉnh.
*2 - Thứ hai là tổ chức theo dõi, kiểm tra, điều chỉnh.
Khâu quan trọng và thường xuyên nhất để đảm bảo quy chế chuyên môn là
tổ chức theo dõi, giám sát, kiểm tra phát hiện kịp thời và điều chỉnh những sai
lệnh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ dạy học của giáo viên. Việc điều chỉnh
cần trên cơ sở phối hợp các phương pháp quản lý hành chính, tâm lý xã hội và
động viên – kích thích. Đầu mỗi năm học cần triển khai lại trong hội đồng giáo
viên để công khai lại quy chế, nâng cao ý thức trách nhiệm và tâm thế tuân thủ
quy chế.
7.2.2. Quản lý việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học
Chất lượng là cái làm nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật.
Cũng có quan niệm cho rằng, chất lượng là mức độ tốt hoặc giá trị; sự xuất
sắc; nét đặc thù để phân biệt với sự vật khác...
Khi quá trình dạy học tuân thủ theo các quy định chuyên môn thì bản thân
nó đã đạt được chất lượng ban đầu; tuy nhiên, vẫn còn một khoảng cách, một sự
chênh lệch, cần phải thu hẹp, so với mục tiêu chung mà xã hội đã gián tiếp đặt ra.
Chỉ dừng lại ở việc đảm bảo nền nếp chuyên môn thì không thể có chất lượng
dạy học cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội; cần quản lý, chỉ đạo tốt
những hoạt động đặc thù phục vụ cho yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả.
*1- Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn
+ Tính tất yếu của việc bồi dưỡng chuyên môn.
Chất lượng đội ngũ giáo viên quyết định trực tiếp chất lượng học tập của
học sinh. Nhìn chung, chất lượng đội ngũ giáo viên của chúng ta hiện nay còn
19



thấp, chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Trước những yêu cầu mới của sự phát triển
giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục còn có những hạn chế, bất cập. Vì thế, BDCM cho giáo viên, mà
cốt lõi là tự bồi dưỡng, hay còn gọi là tự học tự rèn là nhiệm vụ thường xuyên, tất
yếu để đảm bảo công cuộc đổi mới giáo dục phục vụ đắc lực cho sự phát triển
kinh tế, xã hội một cách bền vững.
+ Hoạt động BDCM thông thường được tổ chức ở cấp Sở ,cấp huyện và
cấp trường, trong đó có hoạt động tự bồi dưỡng của giáo viên. Nhà trường đã xác
định phải có vị trí chủ lực trong việc BDCM cho giáo viên, và tự bồi dưỡng có ý
nghĩa quyết định nhất. Vì, suy cho cùng, BDCM ở cấp nào, dưới bất kỳ hình thức
nào cũng đều thông qua con đường tự bồi dưỡng của GV, và việc BDCM chỉ thực
sự có chất lượng, hiệu quả khi bản thân giáo viên chủ động, tích cực tự học, tự
rèn để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
+ Quản lý việc BDCM ở trường Tiểu học Tề Lỗ:
Ta thấy việc BDCM tại trường mới là quan trọng nhất, hiệu quả nhất; Hiệu
trưởng là người có trách nhiệm chính trong việc BDCM cho giáo viên. Việc bồi
dưỡng giáo viên phải được tổ chức ngay tại trường mà họ công tác. Muốn vậy,
việc kiện toàn các tổ chức chuyên môn cả về cơ cấu chất lượng đội ngũ, cả về nề
nếp, nội dung sinh hoạt chuyên môn có ý nghĩa quan trọng. Trong tập thể giáo
viên cần có những giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng có trình độ cao để họ làm
nòng cốt (còn gọi là giáo viên àng lưới của trường). Việc hình thành đội ngũ giáo
viên cốt cán các trường phổ thông ở tất cả các môn học phải trở thành giải pháp
có tính chiến lược của ngành giáo dục. Do vậy, Ban giám hiệu nhà trường đã thực
hiện tốt những việc sau:
- Khảo sát, thu thập thông tin bằng nhiều cách để đánh giá chính xác chất
lượng – trình độ thực tế của đội ngũ và quy hoạch về chất lượng – trình độ đội
ngũ GV cho từng giai đoạn 3 năm hoặc 5 năm.
- Tổ chức ban tư vấn chuyên môn giúp các giáo viên, nhất là giáo viên trẻ
xây dựng và thực hiện kế hoạch tự BDCM, BDTX. Trong kế hoạch 3 năm hoặc 5
năm, cần dự kiến mức trình độ chuyên môn cần đạt đến của từng năm, nêu khái

quát những nội dung cần tự bồi dưỡng theo năm, có xác định ưu tiên và không
thể thiếu việc nâng cao chuyên môn về công nghệ thông tin, về phấn đấu học một
ngoại ngữ. Trong kế hoạch từng năm, xác định cụ thể mục tiêu cần đạt, những nội
dung cần học tập theo trình tự ưu tiên, tài liệu chính và nguồn tư liệu tham khảo,
người hỗ trợ, phương thức tự bồi dưỡng. Đối với giáo viên trẻ, hiểu chính xác,
đầy đủ kiến thức lý thuyết của bộ môn dạy, tích luỹ vốn bài tập đủ loại, đủ nhiều
20


là ưu tiên số 1; cần học lại một số nội dung về triết học Mác – Lê nin, tâm lý giáo
dục học vì các nội dung này thường không được sinh viên học kỹ trước khi làm
nhà giáo.
- Chỉ đạo cụ thể hoạt động tổ chuyên môn để có tác dụng thúc đẩy, hỗ trợ
việc tự BDCM và BDTX của cán bộ, giáo viên. Việc này chỉ đạt được sự chủ
động và tính thiết thực cao trên cơ sở có một số kế hoạch cụ thể của tổ và gắn kết
với kế hoạch của mỗi cán bộ, giáo viên.
- Có thể nói điều khó nhất là kích thích cho được lòng quyết tâm, tính tích
cực tự bồi dưỡng của đội ngũ GV và đánh giá việc tự học tự rèn. Muốn đánh giá
được việc tự học tự rèn, trước hết phải có một kế hoạch và chuẩn BDCM cụ thể,
hợp lý.
- Ban giám hiệu và tổ trưởng CM thường xuyện kiểm tra công tác tự bồi
dưỡng và BDTX của giáo viên, có xếp loại, tư vấn kịp thời. Mỗi giáo viên ít nhất
có 3 loại sổ trong công tác bồi dưỡng:
1- Sổ bồi dưỡng kiến thức cho việc dạy các môn học trong chương trình:
Tiếng Việt, Toán, ....
2- Sổ bồi dưỡng tích lũy từ các kiến thức được tiếp cận hàng ngày nhằm
làm phong phú cho việc giảng dạy các nội dung học hoạt động ngoại khóa.
3- Sổ bồi dưỡng nâng cao trình độ sử dụng công nghệ thông tin, ngoại
ngữ...
*2- Quản lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học

+ Phương pháp dạy học
- Phương pháp dạy học được hiểu là tổ hợp các cách thức phối hợp hoạt
động chung của GV và học sinh nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo.
- Có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học. Theo tổng hợp
PPDH có nhiều dấu hiệu đặc trưng sau đây:
Nó phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức của học sinh nhằm đạt
mục đích đặt ra.
Phản ánh sự vận động của nội dung dạy học
Phản ánh cách thức trao đổi thông tin giữa thầy và trò
Phản ánh cách thức điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh.
- Đối với giáo dục nói chung và dạy học nói riêng, quan hệ giữa phương
pháp, nội dung và mục tiêu thường được mô tả theo sơ đồ:
Mục tiêu
Nội dung
Phương pháp

21


Theo đó, mục tiêu chi phối nội dung, còn nội dung thì quyết định phương
pháp. Thực tế hiện nay, người GV chọn phương pháp không chỉ căn cứ vào nội
dung mà còn trực tiếp từ mục tiêu. Ngay trong quá trình dạy học cụ thể, nhiều
trường hợp GV phải điều chỉnh lại nội dung như bổ sung, cập nhật tri thức, cấu
trúc lại bài học ... Sự điều chỉnh đó có cơ sở từ phương pháp. Do vậy hiện nay có
xu thế tiếp cận theo sơ đồ tam giác. Theo đó, mục tiêu trực tiếp chi phối phương
pháp, phương pháp trực tiếp đáp ứng yêu cầu của mục tiêu.
+ Hiện thực vẫn còn nhiều trường học, đặc biệt tiểu học vẫn dạy học theo
các phương pháp truyền thống, nặng về thuyết giảng một chiều, thầy đọc, trò
ghi; hoạt động của thầy chiếm vị trí độc tôn trong quá trình dạy học, còn học trò

thì thụ động tiếp thu những tri thức có sẵn. Hệ phương pháp truyền thống đó
được gọi là phương pháp dạy học thụ động, lấy người dạy làm trung tâm.
Thầy: chủ thể, trung tâm, đem kiến thức sẵn có truyền đạt, giảng giải cho
học sinh, người trao. Thầy có đặc quyền về tri thức, đánh giá.
Trò: thụ động tiếp thu những gì thầy truyền đạt: nghe, ghi, nhớ và làm lại, là
người nhận.
Thầy là
trung tâm

Trò thụ
động học

+ Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay,
con người Việt Nam cần có những phẩm chất trí tuệ nổi bật có tính bao trùm và
đặc trưng cho thời kỳ hội nhập, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; trong đó đặc biệt coi trọng năng lực tư duy sáng tạo,
phát hiện và giải quyết vấn đề, ham học và có khả năng tự học suốt đời, chủ động
trong công việc, thích ứng và nhạy bén trước sự tác động của môi trường.
Do đó, việc hình thành và phát triển thói quen, khả năng, phương pháp tự
học, tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự ứng dụng lại kiến thức và kỹ năng đã
tích luỹ được vào các tình huống ở mỗi cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thói quen, khả năng, phương pháp nói trên phải được hình thành và rèn luyện
ngay từ trên ghế nhà trường. Vì vậy, học sinh phải học tập một cách tích cực, độc
lập, sáng tạo.
Để tích cực hoá học sinh và quá trình học tập nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện trong bối cảnh hiện nay, một nhiệm vụ có tính sống còn là
phải đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng.
22



Từ những năm trước, Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả
các cấp học, bậc học. Kết hợp tốt với hành, học tập với lao động sản xuất, thực
nghiệm và nghiên cứu khoa học; gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những
phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng
tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.
Yêu cầu tích cực, hiện đại của PPGD trong nhà trường phổ thông đã được
cụ thể hoá trong Luật giáo dục 2005: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với lứa tuổi
của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
+ Quản lý việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học Tề Lỗ
- Dạy học theo lối truyền thống đã trở thành thói quen bao đời, một sức ì
thâm căn cố đế trong tâm lý và hoạt động ở cả người dạy lẫn người học. Người
dạy cảm thấy an toàn, không mất thời gian; người học cũng thấy nhẹ nhàng, ít vất
vả. Cộng thêm sự thiếu thốn về CSVC, thiết bị dạy học, nội dung chương trình
nặng nề, chỉ đạo chưa kiên quyết nên phần lớn giáo viên càng có cớ dựa dẫm
không quan tâm nghiên cứu, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. Vì vậy,
Ban giám hiệu nhà trường đã xác định đổi mới PPDH là quá trình lâu dài, thường
xuyên.
- Thực chất của đổi mới PPDH ở trường Tiểu học Tề Lỗ trong giai đoạn
hiện nay là làm thay đổi các phương pháp dạy học nhằm phục vụ tốt nhất mục
tiêu dạy học trong tình hình mới. Đó là quá trình làm hẹn chế dần các phương
pháp dạy học truyền thống thụ động, đồng thời tăng cường sử dụng những
phương pháp dạy học tích cực, hướng về học sinh, những biện pháp tích cực hoá
học sinh và quá trình học tập, như dạy học cá nhân hoá, dạy học phân hoá, dạy
học tích hợp ...
- Quản lý việc đổi mới PPDH hướng đến những mục tiêu sau:
Đội ngũ giáo viên của nhà trường nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng,
tính bức xúc và xu thế đổi mới PPDH; có lòng mong muốn và kiên trì đổi mới.

Thấy rõ được những đặc điểm, nhược điểm của các PPDH thụ động, lấy GV
làm trung tâm; có hiểu biết về bản chất, cấu trúc, đặc trưng, ưu điểm và hạn chế
của các PPDH tích cực, lấy học sinh làm trung tâm từ đó có biện pháp khắc phục,
bổ xung trong từng tiết dạy.
Thể hiện nhiệm vụ đổi mới PPDH liên tục, từ suy nghĩ đến hành động
xuyên suốt mọi khâu của quá trình dạy học, từ việc chuẩn bị cho tới việc kiểm tra
23


đánh giá học tập của học sinh, thông qua mọi chủ thể trong nhà trường như tổ
chuyên môn, tổ chủ nhiệm, từng GV và học sinh ...
Đó là mục tiêu chung, có tính lâu dài, định hướng cho sự chỉ đạo đổi mới
PPDH. Trên cơ sở đó, nhà trường cụ thể hoá thành mục tiêu cho từng giai đoạn
và năm học.
- Trong kế hoạch năm học của trường, về việc đổi mới PPDH, đã nêu cụ thể
mục tiêu, những hoạt động chung (hội thảo cấp trường, báo cáo chuyên đề ...),
định hướng hoạt động cho các tổ chuyên môn, tổ chủ nhiệm; những điều kiện
đảm bảo, trách nhiệm cá nhân, sự phối hợp thực hiện. Kế hoạch của các tổ
chuyên môn được lập thật cụ thể về yêu cầu, chương trình hoạt động cho tháng;
cùng với BDCM và BDTX, đổi mới PPDH là những trọng tâm hoạt động của tổ.
Đối với mỗi GV việc đổi mới PPDH được thể hiện thật cụ thể, có sự định lượng
trong kế hoạch dạy học bộ môn của năm học, kế hoạch tự BDCM, BDTX của
từng giáo viên.
- Về mặt tổ chức, làm rõ sự phân công trong Ban giám hiệu, các tổ trưởng
chuyên môn, GV đầu đàn và quan hệ phối hợp trong việc thực hiện kế hoạch đổi
mới PPDH. Mỗi thành viên của BGH đi sâu theo dõi, kiểm tra, chỉ đạo một hoặc
hai tổ CM, đi sâu vào từng môn. Phân công cho GV đầu đàn đi sâu nghiên cứu
viết đề cương, chuyên đề và trình bày lại trong GV theo sự ưu tiên, cái gì cần
trước thì làm trước. Tổ trưởng chuyên môn có trách nhiệm xây dựng, tổ chức
thực hiện, đánh giá, tổng kết về chương trình đổi mới PPDH từng môn, và mỗi

GV có trách nhiệm biên soạn một số giáo án và dạy một số tiết minh hoạ cho
chương trình trong mỗi năm học theo các chuyên đề đã xây dựng từ đầu năm học.
Ngoài chỉ đạo chung, Hiệu trưởng có trách nhiệm chính trong việc xây dựng hệ
thống chuẩn, các tiêu chí để thuận lợi cho việc định hướng và đánh giá kết quả; đi
đầu trong việc nghiên cứu và sưu tầm, cập nhật tài liệu phục vụ đổi mới PPDH.
- Xây dựng và tiếp tục hoàn thiện chuẩn đổi mới PPDH làm cơ sở cho việc
kiểm tra đánh giá, điều chỉnh. Hình thành sự phối hợp kiểm tra đánh giá giữa
BGH với các tổ trưởng chuyên môn. Thường xuyên kiểm tra đủ ba khâu là công
việc chuẩn bị – kế hoạch, thực hiện và kết quả.
- Tuy nhiên quá trình đổi mới PPDH ở trường tiểu học cần lưu ý những
điểm sau:
Đòi hỏi sự đầu tư đồng bộ CSVC, thiết bị dạy học trên mức tối thiểu, không
quá chênh lệch so với yêu cầu và ngày một hoàn thiện hơn.
Đổi mới không có nghĩa thay hết phương pháp truyền thống bằng phương
pháp tích cực. “Một điều cần lưu ý là, thuyết giảng vẫn là PPDH được sử dụng
24


trong những bài học của nhiều nội dung kiến thức, thông tin mới, cần giải thích
diễn giải. Điều khác biệt so với thuyết giảng truyền thống là việc thuyết giảng
không tràn lan, chiếm hết thời gian hoạt động của HS; qua việc nêu vấn đề, yêu
cầu HS liên hệ với kiến thức cũ, tư duy sáng tạo và có phê phán...”.
*3- Quản lí việc hướng dẫn học sinh cách học
+ Cách học không chỉ thuộc phạm trù phương pháp mà còn thuộc phạm trù
nội dung và cả mục tiêu dạy học. Ở đây, cách học không chỉ được hiểu là cách
học bộ môn mà còn là cách tổ chức việc học tập nói chung, nghĩa là hàm chứa
một phần nề nếp học tập. Cách học cũng là một loại tri thức, kỹ năng, thái độ mà
người GV có trách nhiệm giúp HS hình thành, phát triển. Nó không chỉ là một
phương tiện quan trọng để HS đạt tới mục tiêu học tập tốt nhất khi còn ngồi trên
ghế nhà trường mà còn là thứ hành trang quý giá giúp họ học suốt đời sau này.

Có thể nói, nếu ngay từ đầu học sinh đã được dạy bằng những phương pháp tích
cực thì các em sẽ có cách học tích cực, khoa học. Cho nên, dạy cách học cũng là
một nội dung của đổi mới PPDH trong giai đoạn hiện nay. Dạy cách học gồm
nhiều vấn đề không đơn giản. Ban giám hiệu trường Tiểu học Tề Lỗ đã quản lý
việc hướng dẫn cách học cho học sinh nhà trường như sau :
+ Học sinh là đối tượng quản lý gián tiếp của Hiệu trưởng nên quản lý việc
hướng dẫn cách học cho học sinh đã được thông qua tác động chủ yếu của tổ
chuyên môn, GVCN và gia đình học sinh.
- Trước hết, nhà trường đã xây dựng hệ thống tiêu chí cơ bản về nền nếp
học tập, cách học và trách nhiệm hướng dẫn cách học đối với GVCN, GV bộ
môn cùng những tư vấn cần thiết cho phụ huynh học sinh.
- Tiêu chí của cách học gồm các khâu: xây dựng thời gian biểu học tập và
sinh hoạt ở nhà; góc học tập; phương tiện, dụng cụ học tập; cách tìm hiểu trước
bài sẽ học hôm sau; cách học lại bài mới sau khi học trên lớp; cách ôn tập và tự
kiểm tra; cách tìm và sử dụng sách báo, thông tin; cách học từng bộ môn ... Cách
học bộ môn nằm ngay trong nội dung môn học và nói chung không phải dễ xác
định ngay đối với giáo viên. Do vậy, tiêu chí cách học bộ môn đã được bổ sung,
điều chỉnh hàng năm và có thời gian hoàn thiện.
- Tiêu chí hướng dẫn cách học được xác định theo nhiệm vụ của GV bộ
môn, GV chủ nhiệm và gia đình học sinh.
+ Hiệu tưởng, Phó hiệu trưởng, TTCM thường xuyên kiểm tra GV chủ
nhiệm, GV bộ môn trong việc hướng dẫn cách học để kịp thời chỉ đạo điều chỉnh.
Tổ trưởng đi sâu kiểm tra, chấn chỉnh việc hướng dẫn cách học của GV thuộc bộ
môn.
25


+ Hướng dẫn cách học cho học sinh là công việc rất khó, không thể làm vài
lần là xong được, cần kiên trì thực hiện lâu dài từ thấp đến cao.
Quản lý giáo dục nhằm nâng cao chất lượng dạy và học là nhiệm vụ trọng

tâm của Ban giám hiệu nhà trường và đổi mới quản lý giáo dục trong giai đoạn
hiện nay là khâu then chốt để tạo nên môi trường thuận lợi, tối ưu cho sự thành
công của đổi mới chương trình giáo dục tiểu học, nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mục tiêu cuối cùng của quản lý giáo dục là làm cho kết quả dạy học của
nhà trường tiếp cận cao nhất với mục tiêu cấp học tiểu học để học sinh sau khi
hoàn thành chương trình tiểu học thì trình độ học vấn được hoàn thiện và có điều
kiện phát huy năng lực cá nhân, có đủ khả năng tiếp tục học lên THCS.
Để đạt được mục tiêu trên, trước hết, phải quản lý tốt việc thực hiện quy
chế chuyên môn, đồng thời cần không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả quản
lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn mà trọng tâm là tự học tự rèn, đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá, cá nhân hoá người học và tăng
cường hướng dẫn cách học cho học sinh.
7.3. Một số biện pháp tăng cường quản lý giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học ở trường Tiểu học Tề Lỗ.
7.3.1. Biện pháp 1: Tổ chức năng cao nhận thức CBQL và giáo viên
- Thường xuyên tổ chức cho cán bộ giáo viên học tập nghị quyết của Đảng,
chủ trương đổi mới giáo dục trong tình hình hiện nay. Quan tâm việc cung cấp tài
liệu để cán bộ giáo viên nghiên cứu, tự bồi dưỡng nhận thức để theo kịp với thời
kỳ đổi mới như báo nhân dân, báo Vĩnh Phúc, tạp trí TTT, văn tuổi trẻ, báo giáo
dục, internet... Cụ thể tổ chức cho CBGV - CNV học tập Nghị quyết về giáo dục
của Quốc hội, Luật giáo dục.
- Tổ chức học tập quy định quy chế về chuyên môn, bồi dưỡng ý thức trách
nhiệm được giao trước đặc điểm tình hình khó khăn của giáo dục nói chung và
khó khăn của trường Tiểu học Tề Lỗ nói riêng. Động viên tinh thần cán bộ giáo
viên: “tất cả vì học sinh thân yêu” khắc phục mọi khó khăn để nâng cao chất
lượng dạy học.
- Tổ chức các hội nghị chuyên đề về tư tưởng chính trị , về chuyên môn, về
công tác hỗ trợ cho hoạt động dạy học để cán bộ giáo viên quán triệt một cách
sâu sắc.

7.3.2. Biện pháp 2: Quản lý bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ giảng dạy
của giáo viên.

26


Dựa trên văn bản hướng dẫn nhiệm vụ năm học của Bộ, của ngành GDĐT,
những yêu cầu thực hiện nội dung chương trình về phương pháp giảng dạy, về
việc sử dụng TBDH, ĐDDH ... từ đó Ban giám hiệu đã xây dựng kế hoạch năm
học của trường, xây dựng kế hoạch năm học của tổ, của cá nhân, xây dựng kế
hoạch bồi dưỡng chuyên môn của trường ,của tổ chuyên môn . Đặc điểm số giáo
viên trẻ dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ tới 70%, giáo viên mới ra trường cần sự quan
tâm bồi dưỡng tay nghề giảng dạy, giáo viên trẻ có ưu thế là tiếp thu phương
pháp dạy học mới một cách nhanh chóng. Vì vậy, Hiệu trưởng chỉ đạo tổ trưởng
chuyên môn lập kế hoạch thăm lớp dự giờ có báo trước hoặc đột xuất cho giáo
viên nói chung, trong đó quan tâm thăm lớp dự giờ nhiều hơn đối với giáo viên
mới ra trường để tìm cách tạo điều kiện cho giáo viên trẻ sớm trở thành giáo viên
khá giỏi. Trong quá trình quản lý giáo viên, Hiệu trưởng phân loại trình độ giáo
viên để xác định yêu cầu chăm lo bồi dưỡng cụ thể đối với từng đối tượng.
Hiệu trưởng chỉ đạo tổ trưởng chuyên môn lập kế hoạch tự bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ trong tổ bộ môn, “bồi dưỡng phương pháp học tập bộ
môn cho học sinh”, “giáo dục tinh thần chủ động tích cực học tập của học sinh”,
hội thảo về việc cải tiến phương pháp dạy học như thế nào có hiệu quả, ... từ đề
xuất nội dung thực hiện chuyên đề về chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên.
Tranh thủ thời gian hè, kế hoạch thực hiện trong tháng 7 và tháng 8 hàng năm và
tiếp tục lên kế hoạch dài hạn tối đa là hai hoặc ba năm học, tổ trưởng hoàn thành
kế hoạch thực hiện hội thảo các chuyên đề cần thiết và đầy đủ cho hoạt động dạy
học một cách tốt đẹp. Có như vậy giáo viên sớm được nâng cao về chuyên môn
nghiệp vụ, đặc biệt là giáo viên trẻ mới về trường. Tổ chuyên môn có tổ chức hội
thảo 5 đến 7 chuyên đề, giáo viên trong tổ có điều kiện trao đổi học tập kinh

nghiệm lẫn nhau. Đây là việc bối dưỡng nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn
mang tính chủ động tích cực nhằm khắc phục nhanh chất lượng học sinh yếu.
Nhà trường đã tiến hành các hình thức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
cho giáo viên:
+ Bồi dưỡng thông qua kế hoạch và nội dung hoạt động của tổ chuyên môn:
- Lịch hoạt động của tổ chuyên môn được quy định 2tuần/1lần.
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan tới nội dung chương trình, quy định,
quy chế chuyên môn.
- Sinh hoạt tổ nhóm, ngoài việc thông tin thông báo bình thường, Ban giám
hiệu trao đổi các nội dung thiết thực phục vụ cho việc nâng cao năng lực chuyên
môn cho các thành viên trong tổ, nhóm.
+ Bồi dưỡng thông qua tổ chức hội thảo chuyên đề trường, cụm, huyện:
27


×