Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Những đặc trưng cơ bản của triết học ấn độ cổ trung đại và sự ảnh hưởng đến triết học phật giáo việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.67 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ấn Độ cổ trung đại là một trong những trung tâm tư tưởng và văn hóa
lớn của thế giới cổ trung đại. Vì vậy đi nghiên cứu triết học Ấn Độ cổ, trung
đại rất cần thiết để góp phần tìm hiểu lịch sử tư tưởng văn hóa Phương Đông
nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng, đặc biệt là trong lĩnh vực Phật giáo
Việt Nam.
Sự giao lưu của giữa các quốc gia trong một khu vực đã phá vỡ cái
riêng biệt của tâm lý, tư tưởng trong từng dân tộc làm cho tâm lý, tư tưởng đó
hòa vào cái chung của khu vực. Việt Nam cũng ở trong một quá trình như thế.
Theo chân các nhà buôn, nhà truyền giáo Ấn Độ, Phật giáo vào nước ta vào
khoảng thế kỷ thứ I và thứ II sau công nguyên. Sau đó nối gót người Ấn Độ
các nhà Phật giáo Bắc tông vào. Rồi những người tìm đường sang Trung
Quốc, Ấn Độ học Phật trở về cũng tiếp tục truyền bá Phật giáo. Bằng những
con đường khác nhau, Phật giáo, một tôn giáo chung của nhiều nước Nam Á
và Đông Nam Á lúc bấy giờ cũng tìm được chỗ đứng ở Việt Nam.
Để đi tìm hiểu sâu hơn về nền văn hóa Ấn Độ cổ và con đường du nhập
hóa Phật giáo vào văn hóa Việt Nam nên em đã chọn đề tài: “Những đặc
trưng cơ bản của Triết học Ấn Độ cổ - trung đại và sự ảnh hưởng đến
Triết học Phật giáo Việt Nam”

0


NỘI DUNG
Ở Ấn Độ tư tưởng triết học Ấn độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên
niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới quan
thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần mang tính
chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối cổ của nhân loại.
Triết học Ấn Độ cổ trung đại ra đời được ví như là cái nôi của triết học thế
giới. Triết học Ấn Độ cổ trung đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan
hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc


“thiên nhân hợp nhất”.
Ấn Độ cổ đại là một lục địa lớn ở phía Nam Châu Á, nằm trên Tiểu lục
địa Ấn Độ với hàng trăm vương quốc cổ đại..., có những yếu tố địa lý rất trái
ngược nhau: Bắc là dãy Hymalaya - sứ sở của tuyết
Cực Bắc là vùng Kasowmia với khí hậu ôn đới.
Nam là Ấn Độ dương. Với hai con sông lớn là sông Indu và sông Hằng
là nơi sinh ra nền văn minh Ấn Độ cổ đại từ rất sớm.
Với điều kiện tự nhiên rất đa dạng vừa có núi cao, lại vừa có biển
rộng; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía
Đông; vừa có đồng bằng phì nhiêu, lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá
lạnh, lại vừa có nắng cháy, nóng bức...
Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên, khí hậu đã ảnh
hưởng lớn đến đời sống vật chất, tinh thần của con người nơi đây, là những
thế lực thiên nhiên đè nặng lên tâm trí con người Ấn Độ cổ đại... tạo nên
những nét huyền bí. Họ coi con người là tiểu vũ trụ trong hệ thống lớn... trời
đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là một. Như vậy con người cũng chứa
đựng tất cả những tính chất, những điều huyền bí của vũ trụ bao la.
Về điều kiện kinh tế xã hội: Xã hội Ấn Độ cổ đại ra đời sớm, theo tài
liệu khảo cổ học vào khoảng thế kỷ XXV trước Công nguyên (Tr.CN) đã xuất
1


hiện nền văn minh Sông Ấn (Văn minh Harappa), sau đó cuối TNK-II thì suy
vong, nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Từ thế kỷ XV trước công nguyên các bộ
lạc du mục Arya từ Trung Á xâm nhập vào Ấn Độ. Họ định cư rồi đồng hóa
với bản địa Dravida, chuyển từ du mục sang nông nghiệp định cư và phát
triển nền văn minh trên lưu vực sông Hằng và cao nguyên Dekakan, hình
thành nên các tiểu vương quốc (rajan) ở Ấn Độ, tạo cơ sở cho sự xuất hiện
quốc gia, nhà nước lần thứ hai trên Ấn Độ. Từ thế kỷ thứ VII trước công
nguyên đến thế kỷ XVI sau công nguyên, đất nước Ấn Độ phải trải qua hàng

loạt biến cố lớn, đó là những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các
vương triều trong nước và sự xâm lăng của các quốc gia bên ngoài.
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội của Ấn Độ cổ, trung đại
là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài, kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình
“Công xã nông thôn” tức là ruộng đất thuộc về sở hữu nhà nước ( vua là
người đứng đầu), tồn tại chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền. Kinh tế thời
kỳ này là kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp. Với mô hình xã hội như vậy đã
kìm hãm sự phát triển kinh tế, với một nền kinh tế khép kín, mà theo Mác:
Chế độ quốc hữu về ruộng đất là cơ sở quan trọng nhất để tìm hiểu toàn bộ
lịch sử Ấn Độ cổ đại.
* Trên cơ sở đó đã phân hóa và tồn tại bốn đẳng cấp lớn trong xã hội:
Cao nhất là đẳng cấp Tăng lữ, lễ sư Bàlamon ( sinh ra từ miệng của vị
thần tối cao của người Ấn Độ là Brahman...): đây là những người giảng dạy
giáo lý tôn giáo, là những người có quyền nhất.
Đẳng cấp thứ hai là đẳng cấp quý tộc (Kshatriya) bao gồm các vương
công, vua chúa, tướng lĩnh, võ sĩ (sinh ra từ cánh tay của thần...).
Đẳng cấp thứ ba là tầng lớp bình dân (Vaishya): bao gồm thương nhân,
điền chủ, thường dân Arya, buôn bán, tự do, nông dân (sinh ra từ đùi của
thần)
Đẳng cấp thứ tư là tiện dân và nô lệ (Ksudra - sinh ra từ bàn chân của
thần...): tầng lớp này bao gồm những người không có quyền công dân, sinh ra
2


để phục vụ 3 đẳng cấp ở trên.
Các đẳng cấp ngày càng được củng cố, rất nghiệt ngã, và còn ảnh
hưởng nặng nề cho tới tận ngày nay. Ngoài ra còn có sự phân biệt chủng tộc,
dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo.
Tóm lại: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ, ngoài đặc trưng chủ
yếu là chế độ đẳng cấp nghiệt ngã và sự tồn tại dai dẳng của những công xã

nông thôn, thì chế độ nô lệ kiểu gia trưởng và Nhà nước quân chủ chuyên chế
Trung ương tập quyền, trong đó các đế vương nắm quyền lực vô hạn về sở
hữu ruộng đất và thần dân, cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ. Với tính chất khắc
nghiệt của tự nhiên và chế độ đẳng cấp, thể chế xã hội càng đè nặng lên đời
sống của người dân Ấn Độ, làm cho cuộc sống của họ càng thêm khổ cực...
Chính vì phản ánh nhu cầu muốn thoát khỏi cuộc sống khổ đau... đó của
người dân Ấn Độ, mà các trường phái triết học Ấn Độ đều tập trung vào việc
lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm cách giúp con người thoát khỏi những nỗi
khổ não, lo âu trong đời sống ngàn năm của họ...
Điều kiện văn hóa-khoa học: Văn hóa Ấn Độ được hình thành và phát
triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người Ấn Độ cổ đại đã
tích lũy được nhiều kiến thức về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích
được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực... ở đây, toán học xuất hiện sớm: phát
minh ra số thập phân, tính được số pi, biết được về đại số, lượng giác, phép
khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học (bách khoa toàn thư): đã xuất
hiện nhiều danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, bằng thuốc thảo
mộc. Đã có các tri thức ban đầu về cơ học, vật lý, hóa học, sinh học...
Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ trung đại là mang đậm dấu ấn về
tín ngưỡng, tôn giáo. Văn hóa Ấn Độ cổ trung đại được chia làm ba giai
đoạn:
- Khoảng từ thế kỷ XXV - XV trước công nguyên gọi là nền văn minh
sông Ấn: Đây là nền văn minh cổ xưa rất phát triển, kinh tế khá phát triển,
đường phố có nhiều thành tựu như đã xây được nhà 2 tầng, có lát gạch, có chợ
3


ở trung tâm, có chữ viết.
- Từ thế kỷ XV – VII trước công nguyên gọi là nền văn minh Veeda:
Được coi là linh thiêng và cội nguồn của nền văn hóa Ấn Độ. Đây là giai
đoạn xuất hiện những mầm mống tư tưởng triết học Ấn Độ thông qua các bộ

Thánh kinh Vedha, kinh Upannisahd, sử thi Ramayana, sử thi Mahabarata...
- Từ thế kỷ VI - I trước công nguyên: hình thành các trường phái triết
học tôn giáo Ấn Độ cổ đại (hay giai đoạn Phật giáo, Balamon giáo): tất cả các
trường phái triết học ra đời ở thời kỳ này bởi vì thời kỳ này là thời kỳ hưng
thịnh, phồn vinh, cổ điển của nền văn hóa cổ điển Ấn Độ.
Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại đều phát triển cao trên tất cả 6 lĩnh vực nghệ
thuật cổ điển là: kiến trúc, điêu khắc, hội họa, múa, âm nhạc, thơ ca (Ramayana,
Mahabharata,...)
Tất cả đều mang đạm bản sắc văn hóa tâm linh và triết học của Ấn Độ
cổ đại...
1 - Đặc điểm chung của triết học Ấn Độ cổ trung đại:
- Trước hết, triết học Ấn Độ cổ đại hòa lẫn tôn giáo Ấn Độ cổ đại: do
đó khi nghiên cứu triết học ta phải nghiên cứu tôn giáo.
Triết học Ấn Độ là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư
tưởng tôn giáo. Giữa triết học và tôn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học
ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua bộ kinh Veeda,
Upannisad. Tuy nhiên, tôn giáo của Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội”
chứ không phải “hướng ngoại” như tôn giáo Phương Tây. Vì vậy, xu hướng
trội của các hệ thống triết học - tôn giáo Ấn Độ đều tập trung lý giải và thực
hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới
sự “giải thoát” tức là đạt tới sự đồng nhất tinh thần cá nhân với tinh thần vũ
trụ (Atman và Brahman).
- Thứ hai, các nhà triết học thường nặng tính kế thừa, bảo kê, ủng hộ hệ
thống triết học có trước mà ít phê phán, phủ định, gạt bỏ hệ thống triết học có
trước. Và thường không có sự xuất hiện các trường phái triết học mới.
4


- Thứ ba, khi bàn đến vấn đề bản thể luận, một số học phái xoay quanh
vấn đề “tính không”, đem đối lập “không” và “có ”, quy cái “có” về cái

“không” thể hiện một trình độ tư duy trừu tượng cao.
+ Triết học Ấn Độ cổ đại đề cập rất nhiều vấn đề: nhận thức luận, đạo
đức nhân sinh, bản thể luận, lôgíc học, con người...: có yếu tố giống với Triết
học Hy Lạp cổ đại, tuy nhiên không được sâu sắc như Châu Âu.
+ Triết học nhân sinh( triết học bàn về con người, về số phận con
người) mà cốt lõi là tư tưởng “giải thoát” (giải phóng khỏi sự tha hóa).
Sự đối lập giữa tư tưởng duy vật và duy tâm thường diễn ra trong nội
bộ các trường phái hơn là giữa các trường phái. Mặc dù cuộc đấu tranh duy
vật - duy tâm vẫn diễn ra trên tất cả các bình diện và mọi hình thức, nhiều khi
rất gay gắt và phức tạp..., nhưng không trực tiếp và gay gắt như trong triết học
phương Tây, nên đây cũng là một nguyên nhân là do triết học phương Đông
phát triển không phát triển mạnh mẽ bằng triết học phương Tây.
2 - Nhận định về triết học Ấn Độ cổ, trung đại:
Triết học Ấn Độ cổ trung đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều vấn
đề của triết học. Trong khi giải quyết những vấn đề của bản thể luận, nhận
thức luận và nhân sinh quan, triết học Ấn Độ đã thể hiện tính biện chứng và
tầm khái quát khá sâu sắc; đã đưa lại nhiều đóng góp quý báu vào kho tàng di
sản triết học của nhân loại.
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học Ấn Độ cổ trung đại là quan
tâm giải quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo với xu hướng
“hướng nội” đi tìm các Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân.
Có thể nói: Sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học
thuyết Ấn Độ cổ, trung đại (trừ trường phái Lokayata), và hầu hết các học
thuyết triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít
nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên. Phải chăng, điều đó phản ánh
trạng thái trì trệ của “Phương thức sản xuất Châu Á ” ở Ấn Độ vào tư duy
triết học; đến lượt mình, triết học lại trở thành một trong những nguyên nhân
5



của trạng thái trì trệ đó.
* So sánh đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ trung đại với triết học
Phương Tây ( Hy Lạp - La mã cổ đại):
- Triết học Phương Tây cổ đại là triết học đề cao cái tự nhiên - mặt sinh
vật trong con người, ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, chú ý giải
phóng con người về mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế xã
hội, cái gốc để giải phóng con người.
- Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm diễn ra trực
tiếp và rất gay gắt: Sự phân chia các trường phái rõ nét và đấu tranh quyết liệt
với nhau, các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ
đến duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
- Luôn xuất hiện các trường phái triết học mới trên cơ sở phủ định và
kế thừa các trường phái trước đó: Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các
trường phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại
như thời cổ đại bên cạnh trường phái Talet, Heerraclit... đến Đêmôcrit rồi thời
đại khai sáng Pháp, chủ nghĩa duy vật ở Anh, Hà Lan, triết học cổ điển Đức...
Cho nên triết học Phương Tây dù ra đời sau nhưng đã phát triển đầy đủ
và điển hình hơn, nên cũng phát triển nhanh hơn so với triết học Phương
Đông. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho xã hội Phương
Tây “Đi sau nhưng về trước” so với Phương Đông.
2.1 - Các trường phái chủ yếu của Triết học Ấn Độ cổ, trung đại:
Các trường phái chủ yếu của triết học Ấn Độ cổ đại được hình thành
trong thời kỳ cổ điển (hay thời kỳ Phật giáo – Bà la môn giáo): Từ thế kỷ VI
đến thế kỷ I, với 9 trường phái chủ yếu và được phân biệt thành 2 loại:
- Trường phái chính thống: Astika(tin vào thế giới bên kia), và thừa
nhận uy thế tuyệt đối của Thánh Kinh Vedha, bao gồm 6 trường phái:
Samkhya, Mimansa, Veedanta, Yoga (trường phái rèn luyện thể lực), Nyanya
(trường phái nghiên cứu nhận thức luận), Vaisesika (trường phái đi vào
nguyên tử).
6



- Trường phái không chính thống: Nastika (làm ô nhục Vedha), phủ
nhận uy thế tuyệt đối của Vedha, có kinh điển riêng, không phụ thuộc vào
Vedha, bao gồm 3 trường phái: Jaina giáo, Lokayata, Phật giáo. Tiêu biểu một
số trường phái sau:
2.1.1. Trường phái Samkhya:
(Samkhyu= “s”, “đếm” ): là trường phái cổ nhất và có ảnh hưởng rất
lớn đến tư tưởng của người Ấn Độ cổ trung đại.
- Thời sơ kỳ Samkhya có tinh thần Duy vật, phủ nhận Brahman và thần,
chỉ thừa nhận thế giới vật chất tồn tại và vận động theo quy luật nhân quả, kết
quả đã tồn tại NN trước khi nó xuất hiện.
- Cơ sở tạo nên vạn vật trong thế giới là những yếu tố “vật chất đầu
tiên” (Prakriti). Prakriti là thể thống nhất của 3 yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng, tươi
vui), Rajas (động, kích thích), Tamas (nặng, khó khăn). Khi 3 yếu tố này cân
bằng thì Prakriti ở trạng thái không thể cảm nhận trực tiếp bằng cảm giác. Khi
cân bằng này bị phá vỡ thì nó sẽ sinh ra các sự vật hiện tượng mà ta có thể có
thể quan sát được trong thế giới (=> sinh ra thế giới)
- Trong thời Hậu kỳ, Sàmkhya có khuynh hướng nhị nguyên, thừa nhận
song song tồn tại cả yếu tố vật chất đầu tiên (Prakriti) và yếu tố tinh thần
(purusa), trong đó purusa có tính chất phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó
truyền sinh khí và năng lực biến hóa vào prakriti…
2.1.2.. MIMANSA
(Mimànsà = thẩm vấn, khảo cứu): Được sáng lập bởi Jaimini, khoảng
thế kỷ thứ II. Mimànsà chủ yếu dựa và Kinh Vedha và Upanishad, về sau tạo
ra kinh điển riêng, như Mimànsà – sutra. Mục đích chủ yếu của M. là chủ giải
và diễn tả các phương pháp cúng bái, lễ nghi, tế lễ và thực hiện các quy tắc
XH theo bổn phận mỗi người một cách chặt chẽ
Về bản thể luận, M. thừa nhận cả những bản nguyên tinh thần và vật
chất, trong đó “tư tưởng thế giới vô ngã” là thực tại có trước nhất, sáng tạo và

chi phối tất cả mọi tồn tại trong thế giới. Linh hồn chỉ là sự hiện thân của TT
7


vũ trụ vĩnh cửu và bất diệt trong mỗi con người, và luôn bị ràng buộc bởi thể
xác, nhục dục và thế giới vật chất trần tục. M. cho rằng không thể giải thoát
hoàn toàn linh hồn… bằng lý trí, mà chỉ có thể… bằng cách giữ và thực hiện
cho đúng mọi nghi thức của Vedha.
M. còn thừa nhận sự tồn tại vĩnh viễn của thế giới vật chất, do các
nguyên tử cấu thành và những nguyên tử này lại bị luật Karma điều khiển.
Chính ở điểm này M. biểu hiện rõ tính chất nhị nguyên…
2.1.3. YOGA
(Sự liên kết, hay hợp nhất tâm thể về một khối).
- Yoga là một hệ thống lý luận về phương pháp tu luyện mà người tu
hành chấp nhận, nhằm giải thoát linh hồn khỏi sự ảnh hưởng của các giác
quan và sự ràng buộc của thể xác, với thế giới vật chất, là nguồn gốc của vô
minh và đau khổ, gột hết các tội lỗi của linh hồn trong các kiếp…, để hóa ra
trong sạch, đạt được một sự hiểu biết và một năng lực siêu phàm, đạt tới sự
đại giác tối cao, đạt tới hạnh phúc vĩnh hằng.
- Kinh điển chủ yếu của Yoga là bộ Yoga-sutra, bao gồm cả những bài
tập luyện yoga, do đạo sĩ Patanjala hệ thống hóa vào khoảng 150 năm TCN.
- Về mặt nhận thức luận và bản thể luận, Yoga rất gần gũi với tư tưởng
của Samkhia, nói về một thực thể TT tồn tại độc lập và sáng tạo ra thế giới.
Nhưng trong Yoga, Thượng đế Purusa chỉ được hiểu là “Linh hồn đặc biệt”, là
đối tượng để linh hồn suy tư mà đạt tới trạng thái giác ngộ, đạt tới đại giác,
đến với Brahman…
- Để đạt tới đại giác và sự giải thoát hoàn toàn, dẫn tới trạng thái nhập
thần thần bí đó, người ta phải kiên trì, tự chủ, kiên nhẫn tu luyện lâu dài, dần
dần từng bước theo từng giai đoạn, gọi là “Bát bảo tu pháp”. Khi linh hồn giải
thoát khỏi thân xác và thế giới vật chất giam hãm nó, thì sẽ đạt tới đại giác,

vượt qua sự ràng buộc của thế giới vật chất, hữu hình, hữu hạn, thường biến
như ảo ảnh, thì nó chính là Brahman, có sức mạnh của Brahman. Vì Brahman
chính là cơ sở TT ẩn tàng, là cái linh hồn vô ngã, vô chất, còn lại sau khi mất
8


hết mọi liên hệ với các giác quan.
2.1.4. NYÀYA-VAI’SÊSIKA:
- NYÀYA-VAI’SÊSIKA là hai hệ thống triết học khác nhau, nhưng về
sau lại gắn liền với nhau. Kinh điển của hai trường phái này là: Nyaya-sutra
và Vaisesika-sutra, TK II => III TCN
- Bản thể luận của hai trường phái này được thể hiện tập trung trong
“Thuyết nguyên tử”. Cả hai trường phaí này đều thừa nhận sự tồn tại của thế
giới vật chất. Nhưng họ lại quy tất cả sự phong phú, đa dạng của thế giới vào
bốn yếu tố vật chất đầu tiên là: đất, nước, lửa, không khí. Những yếu tố này
lại được quy và một bản nguyên duy nhất, trước nhất là những hạt vật chất
không đồng nhất, bất biến, tồn tại vĩnh viễn, phân biệt với nhau bởi chất
lượng, khối lượng và hình dạng, tồn tại trong môi trường đặc biệt (ête), không
gian và thời gian, được gọi là nguyên tử (Anu)
- Tồn tại bên cạnh những thực thể vật chất, trong vũ trụ còn có vô số
những linh hồn, có thể tồn tại ở trạng thái tự do, cũng như có thể gắn liền với
những nguyên tử gọi là Ya. Ý thức chính là thuộc tính của Ya, với những đức
tính riêng biệt như: mong muốn, yêu gét, vui buồn, đau khổ, ý chí và biểu
tượng, v.v…
- Sự kết hợp giữa các nguyên tử với nhau và giữa các nguyên tử với
linh hồn, tạo nên vạn vật phong phú, đa dạng trong thế giới được điều khiển
bởi một lực lượng siêu nhiên đó là thần Isvara. Càng về sau quan niệm của cả
hai phái về thần Isvara càng gần với quan niệm về Brahman, tức được quan
niệm như một bản nguyên tinh thần tối cao, sáng tạo và điều khiển thế giới,
trong kinh Upanishad, nên nó được xếp vào các trường phái chính thống của

Ấn Độ cổ đại.
- Về nhận thức luận và Logic học, lúc đầu, hai trường phái này đều thừa
nhận sự tồn tại của đối tượng nhận thức là thế giới… Họ đã phân chia các
dạng nhận thức khác nhau, trong đó có có loại nhận thức thật, có loại nhận
thức giả, và đều đề cao nhận thức kinh nghiệm. Chẳng hạn Phái Nyaya thì cho
9


rằng: cảm giác, kết luận, loại tỷ, bằng chứng của những người khác và những
cuốn sách khác có thể đem lại cho ta nhận thức đúng. Còn phái V. thì cho
rằng: tri giác, kết luận, ký ức và trực giác đem lại cho ta chân lý.
- Phái Nyaya còn đưa ra “Ngũ đoạn luận” rất nổi tiếng, gồm: 1, Tiền đề
(Luận đề): Trên đồi có lửa cháy; 2, Nguyên nhân (lý do): vì trên đồi có khói
bốc lên. 3, Minh họa: tất cả cái gì bốc khói đều có lửa cháy. 4, Suy đoán (áp
dụng cách chứng minh): trên đồi có khói thì không thể không có lửa cháy. 5,
kết luận: do đó trên đồi có lửa cháy.
2.1.5. VÊDANTA (Kết thúc, hoàn thiện của Vedha):
- Vedanta (Còn có nghĩa khác nữa là “Những điểm chủ yếu của kinh
Vedha”), là trường phái triết học chính thống, chuyên khảo sát, biện luận, giải
thích về nguyên lý hình thành vũ trụ và vạn vật dựa trên Vedha và Upanishad.
Người sáng lập là Badarayana, người kế tục XS là Sankara.
- Về bản thể luận: Vedanta chủ yếu dựa trên tư tưởng của Kinh
Upanishad, mà nội dung cơ bản nhất là vấn đề: Trả lời cho câu hỏi: Cái gì là
thực tại cao nhất, là căn nguyên của tất cả, là cái mà khi nhận thức được nó thì
người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại. Vêdanta cho rằng cái là bản chất
sâu xa của mọi cái tồn tại, cái mà từ đó nảy sinh ra tất cả, và tất cả mọi cái khi
chết đi sẽ nhập về với nó, tức cái là bản nguyên của thế giới, đó là “Tinh thần
vũ trụ tối cao” - Brahman. Brahman là thực thể tuyệt đối, bất diệt, là linh hồn,
là nguồn sống của vũ trụ…
Theo Vedānta, Brahman là sự thật duy nhất, và thế giới này, (như là

đang thấy), chỉ là ảo ảnh. Vì Brahman là sự thật duy nhất, nó không được nói
là mang một thuộc tính nào. Một quyền năng ảo của Brahman gọi là Māyā đã
làm cho thế giới được tạo ra. Sự thiếu hiểu biết về sự thật này chính là nguyên
nhân của tất cả các khổ đau trong thế giới và đời sống con người. Chỉ có dựa
trên kiến thức thật sự của Brahman, sự giải thoát mới có thể đạt được. Khi
một người cố gắng biết đến Brahman thông qua đầu óc của anh ta, do ảnh
hưởng của Māyā, Brahman xuất hiện như là thực thể tối cao, tách ra khỏi thế
10


giới và khỏi từng cá nhân. Trong thực tế, không có sự khác nhau giữa linh hồn
cá nhân jīvātman (Atman) và Brahman. Giải thoát nằm ở trong sự hiểu biết về
sự không khác biệt này. Do đó, con đường dẫn tới sự giải thoát cuối cùng chỉ
là thông qua kiến thức (jñāna).
Về nhận thức luận: Vêdanta thừa nhận Vedha là chân lý tuyệt đối. Việc
học tập và nắm vững Kinh Vedha là điều kiện tiên quyết để linh hồn được
“giải thoát” và trở về đồng nhất với Brahman…
* Tư tưởng triết học trong các trường phái “tà giáo” của Ấn Độ cổ
đại:
2.1.6. Lokayata (hay charvaka – 4 yếu tố):
Ra đời trong phong trào đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, phản
đối sự khắc nghiệt của đạo Bà la môn, ở Đông Ấn, cùng với Jaina giáo, Phật
giáo…, trên cơ sở nổi lên của tầng lớp điền chủ, đại công thương…, chủ nhân
của sự phát triển kinh tế thời này… Lokayata là trường phái triệt để nhất về tư
tưởng duy vật, vô thần, hoài nghi tôn giáo…
- Ông tổ của L. được cho là nhà hiền triết Brihaspati. tư tưởng của L.
được kế tục và phát triển qua nhiều thời kỳ… Kinh điển của Lokayata. đã bị
đốt hết, nhưng tư tưởng của nó còn được ghi lại trong chính các bộ phận
muộn của Kinh Vedha (khi phê phán, đấu tranh chống lại các quan điểm duy
vật…)

- Về bản thể luận: Lokayata cho rằng mọi sự vật trong Vũ trụ, kể cả con
người và ý thức của nó, đều do bốn nguyên tố đất, nước, lửa, không khí tạo
thành (Trong 1 số văn bản có thêm nguyên tố ête, hoặc có thêm quan niệm về
nguyên tử). Bốn nguyên tố đầu tiên này có khả năng tự tồn tại, tự vận động
trong không gian để tạo thành vạn vật… Mọi đặc tính khác nhau của các vật
thể là do số lượng và tỷ lệ kết hợp của bốn nguyên tố này mà ra…
Linh hồn là thuộc tính cuả thể xác, phụ thuộc và thể xác. Linh hồn hay
ý thức do vật chất sinh ra, như gạo nấu thành rượu, nhưng rượu lại có tính
chất mà gạo không có, là làm cho người ta say. Không có linh hồn bất tử, tồn
11


tại bên ngoài thể xác. Khi con người chết đi, thể xác tan ra, thì linh hồn cũng
tan theo. L. còn phủ nhận và phỉ báng thuyết “luân hồi”, “nghiệp báo”, và
“Giải thoát”… của các tôn giáo…
Về lý luận nhận thức, Lokayata mang lập trường kinh nghiệm luận. Họ
khẳng định cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận thức đúng đắn. Họ phủ
nhận tính xác thực của tri thức gián tiếp, đặc biệt là phủ nhận và chế giễu tính
xác thực của Vedha… Theo họ chỉ có cái gì cảm giác biết được thì mới tồn
tại, và vì vậy mà họ phủ nhận sự tồn tại của thượng đế và linh hồn bất tử…
Về Logic học, Lokayata không phủ nhận hoàn toàn giá trị của biện luận,
chứng minh và kết luận của Vedha, mà chỉ phủ nhận phương thức suy luận,
chứng minh và rút ra kết luận của V., là phương thức sai lầm…
Về đạo đức học, Lokayata phê phán quan điểm kiềm chế nhục dục và
hy vọng về sự giải thoát. Theo Lokayata thì chẳng có cái gọi là thiên đường
hay địa ngục, mà đó chỉ là sự bịa đặt… Do đó Lokayata đòi cho con người
được sống và hưởng lạc mọi cái mà họ mong muốn… Vì vậy Lokayata
thường bị phê phán là “chủ nghĩa khoái lạc”
2.1.7. Triết học của Jaina giáo (Kỳ Na giáo)
- Được xác lập cùng thời với Phật giáo, bởi nhà hiền triết Mahavira

(Hiệu là Jaina, tức chiến thắng, hay người anh hùng vĩ đại)
- Về bản thể luận: Jaina một mặt thừa nhận quan điểm của Upanishad
về thực thể đầu tiên và bất biến, mặt khác tiếp nhận quan điểm của Phật giáo
về “Vô thường”, cho nên tồn tại, theo họ vừa bất biến vừa chuyển biến không
ngừng, giống như đất sét (cái bản thể), và các vật làm ra từ đất sét.
Theo Jaina thực thể đầu tiên tạo nên thế giới là Giva và Atgiva. Vật chất là
một biến thể của Atgiva, có những đặc tính như sờ mó được, có màu sắc, âm
thanh, mùi vị… Những vật thể cảm giác được này cấu tạo từ các nguyên tử,
cực kỳ nhỏ bé, không thể phân chia, tồn tại vĩnh viễn, không do ai sáng tạo ra
và cũng không ai có thể hủy diệt được…, kể cả Thượng đế Brahman. Chính vì
điểm này mà Jaina giáo bị xếp vào tà giáo.
12


- Jaina còn phân chia các thực thể thành hai dạng sống và không sống.
Thực thể sống thì có lý trí, có linh hồn. Thực thể không sống thì không có linh
hồn. Linh hồn không phải do Brahman sinh ra mà nó tồn tại ngay từ đầu với
số lượng rất lớn và cố định. Linh hồn là một thực thể toàn năng, nhưng nó bị
hạn chế bởi thể xác mà nó đang sống trong đó. Tức là, Jaina cũng tin vào
việc: linh hồn do sự hạn chế của nhục dục mà bị vướng vào vòng luân hồi,
nghiệp báo.
- Nhiệm vụ chính mà Jaina đề ra cho mình là tìm ra con đường và
phương tiện để giải thoát linh hồn toàn năng khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo.
Muốn vậy, thì con người cần phải tu luyện đạo đức theo luật “Ahimsa” của
Jaina giáo, đó là: bất sát, bất bạo lực, không mưu hại sinh linh, phải sống khổ
hạnh, không có của riêng, ăn chay và không có mảnh vải che thân. Đó cũng
chính là ý nghĩa nhân sinh quan của triết học Jaina giáo, và do đó Jaina cũng
có rất nhiều tín đồ và còn tồn tại cho đến ngày nay.
- Về sau, khoảng năm +79, Jaina chia thành 2 phái: Phái “Lõa thể” để
hòa vào tự nhiên và Phái “Bạch y” để biểu thị sự trong sạch

2.1.8. Triết học Phật giáo:
A - Sự ra đời và phát triển:
Ra đời trong làn sóng chống đối sự ngự trị của đạo Balamon, chống lại
sự kỳ thị đẳng cấp, đòi tự do, bình đằng, ở TK –VI, người sáng lập là Thích ca
Mâu ni (Buddha), (tên thật: Siddhartha Gautama), sinh 8-4-563 trước công
nguyên (có TL: 624 TCN), là thái tử, con vua Tịnh Phạn, có kinh thành nổi
tiếng Kapilavatthu, thuộc Nepan ngày nay. Năm 29 tuổi ngài xuất gia để tìm
con đường giải thoát cho mọi chúng sinh giúp đời thoát khổ. Sau 6 năm tu
luyện theo nhiều trường phái khác nhau, năm 35 tuổi, sau 49 ngày thiền định
dưới gốc cây B. ngài đã “Ngộ đạo”, trở thành Phật Thích ca Mâu ni, rồi
truyền đạo của Ngài ra khắp Ấn Độ. Ngài “nhập diệt” năm 483 TCN.
- Ngay sau khi “Ngộ đạo”, thì Thích Ca đã quyết định thuyết giảng lại
hiểu biết của mình. 60 đệ tử đầu tiên là những người có quan hệ gần với Thích
13


Ca hình thành tăng đoàn (hay giáo hội) đầu tiên. Sau đó, những người này
chia nhau đi khắp nơi và mang về thêm ngày càng nhiều người muốn theo tu
học. Để làm việc được với một lượng người theo tu học ngày càng đông, Phật
đã đưa ra một chuẩn mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm
người. Các chuẩn mực này phần chính là việc “quy y tam bảo” (Phật, pháp,
tăng), tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính đức Phật, những lời chỉ dạy
của Phật (Pháp), và cộng đồng Tăng đoàn. Đây là tổ chức thống nhất, bình
đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt gíới tính, tuổi tác, điạ vị xã hội và
có mục tiêu tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên.
- Ngoài những người xuất gia, Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia (hay
cư sĩ). Giới cư sĩ cũng được Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ
tăng đoàn về nhiều mặt…
- Khi Phật còn tại thế thì các giảng thuyết đều chỉ truyền miệng. Tuỳ
theo trình độ hiểu biết và khả năng tiếp thu, tùy theo hoàn cảnh và phương

tiện, để có lời giảng và phương pháp thích hợp..., do đó, sự dị biệt khó tránh
khỏi trong các lời giảng.
- Ngay sau khi Phật nhập diệt đã có các đệ tử không chịu ràng buộc tâm
ý... Để tránh sự sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp và luật lệ cho được toàn
vẹn, Ma Ha Ca Diếp (Maha Kassapa) đã đề nghị kết tập và phân loại toàn bộ
lời dạy của Phật lại thành kinh điển để tránh chia rẽ, sai lầm về giáo pháp.
Qua nhiều lần “Kết tập”, các học trò của Phật đã tập hợp được một Bộ kinh
rất lớn, để truyền lại cho chúng sinh, với ba bộ phận gọi là “Tam tạng kinh” 3 pho sách:
1. Tạng kinh: ghi lại những lời Phật dạy- bản nguyên gốc;
2. Tạng Luật: gồm các giới luật của đạo Phật - sách ghi giới điều, quy
chế, nội dung (lời răn) mà các môn đệ không được vi phạm: sát sinh, nói dối,
tà dâm, uống rượu;
3. Tạng luận: gồm các bài kinh, các luận giải, bình chú về giáo pháp
của các cao tăng, học giả về các nội dung của Đạo phật sau này.
14


Quan điểm của Phật giáo: dùng đạo đức nhân sinh của con người để
tu luyện, rèn luyện bản thân. Con người là chủ có quyền quyết định tất cả.
Phật giáo là khái niệm của tôn giáo, người sáng tạo đầu tiên là Phật
(con người), người thứ hai là Long Thọ bồ tát (Bản thể luận): Tồn tại - hư vô;
người thứ ba sáng lập là Thế thân bồ tát (nhận thức luận). Kế thừa tư tưởng
của 3 vị bồ tát trên đã làm nên tổng thể Phật giáo ngày nay.
- Phật giáo phát triển mạnh mẽ nhất vào thời Vua Asoka (A dục)…
- Từ TK VIII – XIII, sự tàn phá của Đạo Hồi, nhất là sau khi đại học
Nalanda bị phá hủy, đã chấm dứt toàn bộ một thời đại lịch sử của Phật giáo tại
Ấn Độ. Tuy nhiên Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển ra nhiều nước trên thế giới,
trong đó có Việt Nam.
Đặc điểm của Phật giáo: Là một hệ thống triết lý vừa mang tính triết
học vừa mang màu sắc tôn giáo. Phật giáo đề cập đến vấn đề bản thể

luận: Không chú trọng tri thức mà chủ yếu củng cố niềm tin.
- Triết học Phật giáo không bàn đến vấn đề cơ bản của triết học giữa tồn tại
và tư duy mà chủ yếu xây dựng đối tượng nghiên cứu của mối quan hệ giữa
tồn tại và không tồn tại ( hư vô, hư không).
- Triết lý triết học Phật giáo hạ thấp vai trò trí tuệ nhận thức, đề cao tự giác
tâm linh. Cho nên giáo lý nhà Phật được trình bày ngụ ngôn, ẩn dụ.
+ Phật là tên theo âm Hán - Việt của Buddha, có nghĩa là giác ngộ. Phật
giáo là hình thức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức Phật, tức
từ biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddharta. Kinh điển của Phật giáo gồm Kinh
tạng, Luật tạng và Luận tạng.
Phật giáo cũng luận về thuyết luân hồi và nghiệp báo, cũng tìm con
đường “giải thoát” ra khỏi vòng luân hồi. Trạng thái chấm dứt luân hồi và
nghiệp được gọi là “Niết bàn”. Nhưng Phật giáo khác các tôn giáo khác ở chỗ
chúng sinh thuộc bất kỳ đẳng cấp nào cũng được “giải thoát”.
B - Nghiên cứu Phật giáo cổ đại thông qua 2 phương diện: Phương
diện thế giới quan (bản thể luận) và phương diện nhân sinh quan (triết lý
15


nhân sinh): nói về thân phận và số phận của con người.
1- Nghiên cứu Phật giáo cổ đại trên phương diện Thế giới quan, với
các yếu tố bao gồm: Duy vật, duy tâm, biện chứng, vô thần, thần bí.
+ Phương diện thế giới quan đưa ra khái niệm về Phật giáo bao gồm:
Vô ngã (không có cái tôi con người)
Vô thường (suy nghĩ bình thường)
Nhân duyên (nhân nào quả đấy)
Đây là ba bản thể quan trọng nhất của Bản thể luận Phật giáo.
- Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự
phân tích nhân – quả. Theo Phật giáo, nhân - quả là một chuỗi liên tục không
gián đoạn và không hỗn loạn, có nghĩa là nhân nào qủa đấy. Mối quan hệ

nhân quả này Phật giáo thường gọi là nhân duyên với ý nghĩa là một kết quả
của nguyên nhân nào đó sẽ là nguyên nhân của một kết quả khác.
- Trong quan niệm về tự nhiên, về vạn vật đặc biệt về cấu tạo của con
người, triết học Phật giáo đưa ra 2 học thuyết đó là:
Học thuyết Ngũ uẩn: bao gồm có 5 yếu tố (1 yếu tố vật chất và 4 yếu
tố tinh thần)
Học thuyết Lục đại: bao gồm 6 yếu tố (5 yếu tố vật chất và 1 yếu tố
tinh thần)
+ Về thế giới tự nhiên, bằng sự phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng
không thể tìm ra một nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là không có
một đấng Tối cao (Brahman) nào sáng tạo ra vũ trụ. Cùng với sự phủ định
Brahman, Phật giáo cũng phủ định phạm trù (Anatman - nghĩa là không có
tôi) và quan điểm “vô thường”.
Quan điểm “vô ngã” - tức là không có cái tôi, giữa sắc và danh, giữa
vật chất và ý thức với các yếu tố vô thần và duy vật. Cho rằng vạn vật trong
vũ trụ chỉ là sự “giả hợp” do hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại).
Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua là do “ngũ uẩn”(5
yếu tố) hội tụ lại là: sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành
16


(suy lý) và thức (ý thức). Như vậy là không có cái gọi là “tôi” (vô ngã)
Quan điểm “vô thường” cho rằng vạn vật biến đổi vô cùng theo chu
trình bất tận: sinh- trụ-dị – diệt. Vậy thì “có - có” - “không – không” luân hồi
bất tận “thoáng có ”, “thoáng không ”, cái còn thì chẳng còn, cái mất thì
chẳng mất. Với các yếu tố biện chứng và vô thần.
Quan điểm về “nhân duyên”: Theo Phật giáo nguyên nhân và nhân
quả đi đôi với nhau. Nhân là đầu mối sinh Qủa. Duyên là điều kiện là chất
xúc tác giúp Nhân. Với yếu tố biện chứng, quy luật.
Quan điểm về “Duy tâm, thần bí”: Phật giáo cho rằng thế giới, con

người không tồn tại thực mà chỉ là ảo ảnh, vì thế giới này vừa có vừa không.
Do nhận thức sai lầm của con người, không hiểu biết (vô minh), do đó mà có
tính chất duy tâm và thần bí, ngoài ra còn mang tính chất không triệt để, mâu
thuẫn.
2 - Về nhân sinh quan ( triết lý nhân sinh), Phật giáo đặt vấn đề tìm
kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moksa) khỏi vòng luân hồi,
“nghiệp báo” để đạt tới trạng thái tồn tại “Niết bàn” (Nirvana).
Phật giáo đưa ra tư tưởng Giải thoát cho rằng cuộc đời con người là bể
khổ, tìm ra nguyên nhân của nỗi khổ đó là do con người ham:
Tham - tham lam,
Sân- nóng dữ, bạo lực,
Si - ngu si, mê muội,
và Dục vọng.
Phật giáo cũng dùng đức tính của con người để cứu con người: những
đức tính ấy đó là những phẩm chất từ bi bác ái của con người.
Nội dung triết học Nhân sinh tập trung trong thuyết “Tứ diệu đế” - có
nghĩa là bốn chân lý tuyệt diệu, cũng có thể gọi là “tứ đế”.
* Chân lý thứ nhất: “Khổ đế” - Bát khổ (Duhkha-satya)
Phật giáo cho rằng cuộc sống là khổ, ít nhất có 8 cái khổ (bát khổ):
- Sinh, lão (già), bệnh (ốm đau), tử (chết): đây là 4 nỗi khổ hiển nhiên
17


của con người.
- Thụ biệt ly (thương yêu nhau phải xa nhau)
- Oán tăng hội (Oán ghét nhau nhưng phải sống gần nhau)
-Sở cầu bất đắc (mong muốn nhưng không có được)
- Ngũ thụ uẩn (năm yếu tố uẩn tụ lại nung nấu làm khổ sở)
*Chân lý thứ hai: Tập đế hay nhân đế (Samudayya – satya): Phật giáo
cho rằng cuộc sống đau khổ là có nguyên nhân. Để cắt nghĩa nỗi khổ của

nhân loại, Phật giáo đưa ra Thuyết “Thập nhị nguyên” - nghĩa là 12 nguyên
nhân tạo ra 8 cái khổ và kết quả nối theo nhau, cuối cùng dẫn đến các khổ đau
của con người:
- Nguyên nhân quan trọng nhất đó là Vô minh - do con người không
nhận thức được, còn ngộ nhận nên vướng vào: Tham, sân, si nên phải chấp
nhận nghiệp chướng của mình gieo giắc (nghiệp báo).
- Nguyên nhân thứ hai là Hành.
- Nguyên nhân thứ ba là Thức
- Danh thức
- Lục nhập
- Xúc
- Thụ
- Ái
- Thủ
- Hữu
- Sinh
- Lão - Tử
* Chân lý thứ ba: Diệt đế (Nirodha – satya): Phật giáo cho rằng mọi nỗi
khổ có thể tiêu diệt để đạt tới trạng thái Niết bàn, khẳng định tiêu diệt được 8
nỗi khổ.
* Chân lý thứ tư là Đạo đế ( Marga – satya) - Bát chính đạo: 8 con
đường chính để tiêu diệt 8 cái khổ. Đạo để chỉ ra con đường tiêu diệt cái khổ,
18


đó là con đường “tu đạo”, hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát
chính đạo):
- Chính kiến (ý kiến đứng đắn)
- Chính tư duy (suy nghĩ đứng đắn)
- Chính ngữ (lời nói đứng đắn)

- Chính nghiệp (giữ nghiệp không tác động xấu):
Trong Nghiệp có + Chính nghiệp (khuyến khích con người đi theo con đường
này)
+ Tà nghiệp: bao gồm có Thành nghiệp, Khẩu nghiệp và Ý nghiệp
( nguy hiểm nhất), nói là nguy hiểm nhất bởi lẽ: nếu con người có tư duy mờ
ám, sẽ phát sinh ra ý nghĩ xấu, dẫn đến hành động xấu.
- Chính mệnh: gắn với chính nghiệp, giữ ngăn dục vọng.
- Chính tinh tiến: rèn luyện tu tập không mệt mỏi sống theo đạo pháp,
siêng năng làm việc thiện, diệt điều ác.
- Chính niệm: luôn luôn niệm Phật, có niềm tin bền vững vào giải thoát.
- Chính định: tĩnh lặng, tập trung tư tưởng cao độ tiền định để đạt đến
nội dung trong sáng.
Tám nguyên tắc trên có thể thâu tóm vào “Tam học”- quy về 3 điều
học: Tức là 3 điều cần học tập và rèn luyện là Giới - Định – Tuệ:
+ Giới là giữ cho thân, tâm thanh tịnh, trong sạch.
+ Định là thu tâm, nhiếp tâm để cho sức mạnh của tâm không bị ngoại
cảnh làm xáo động.
+ Tuệ là trí tuệ.
Phật coi trọng khai mở trí tuệ để thực hiện giải thoát bằng con đường tu
luyện, khai phong trí tuệ và tiền định. Con người sẽ được giải thoát được cái
khổ để đạt tới Niết bàn ( là trạng thái con người tĩnh lặng, thanh tịnh, không
còn đau khổ), đối lập với cõi Niết bàn đó là địa ngục ( súc sinh và quỷ).
Phật khuyên con người rằng cõi Niết bàn ở trong chính con người
chúng ta, con đường để đạt đến cõi Niết bàn không có con đường nào khác
19


mà là con đường tu luyện.
*** Những ưu điểm lớn của tư tưởng Triết học Phật giáo Ấn Độ cổ
trung đại là có tư tưởng vô thần, phủ định đấng sáng tạo, có tư tưởng biện

chứng, đồng thời Phật giáo là tôn giáo duy nhất chống lại sự bất công, sự
phân biệt đẳng cấp, đáp ứng nhu cầu phản kháng xã hội, phản ánh được nỗi
bất hạnh đau khổ thực tế của người dân Ấn Độ cổ đại. Công khai chống lại
kinh Veda, đạo Balamon, bác bỏ thần thánh, xây dựng niềm tin vào chính con
người.
*** Bên cạnh những ưu điểm nổi bật còn có những hạn chế sau:
Phật giáo Ấn Độ cổ trung đại có yếu tố duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện
tại là ảo và giả do cái tâm vô minh của con người tạo ra.
Con đường giải thoát của Phật giáo là hướng về tâm linh, đạo đức là
chủ yếu nhưng lại thoát ly khỏi hoạt động thực tiễn của con người.
Phật giáo chú trọng trực giác tâm linh của con người.
Phủ nhận nhu cầu chính đáng của con người (diệt dục)
Vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên Phật giáo phát triển thịnh vượng ở
Ấn Độ. Sau khi Phật tịnh các môn đệ nhớ lại lời thầy dạy biên soạn lại thành
kinh điển Phật giáo “Kết tập lần I”. 100 năm sau khi Phật mất thì xuất hiện
“Kết tập lần II”, từ đây Phật giáo chia thành 2 bộ phận: Thượng toạ và Đại
chúng.
+ Phái Thượng toạ bộ (Theravada ) chủ trương duy trì giáo lý cùng
cách hành đạo thời Đức Phật tại thế;
+ Phái Đại chúng bộ (Mahasamghika) với tư tưởng cải cách giáo lý và
hành đạo cho phù hợp với thực tế.
* Lúc này xuất hiện 2 mầm mống đó là Tiếu thừa (cỗ xe nhỏ) và Đại
thừa (cỗ xe to)
- Sự phân chia thành bộ phái rõ nét đã bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập
kinh điển lần thứ II (khoảng 100 năm sau khi Thích Ca Mâu Ni mất), tách biệt
tăng đoàn thành Đại Chúng bộ (Mahàsamghika) mà đa số là các tì kheo trẻ
20


muốn thay đổi. Số còn lại bảo thủ các giới luật nguyên thuỷ, hình thành

Thượng Tọa bộ (Theravada).
Các cuộc phân hoá sau này của Đại Chúng Bộ lại hình thành 9 bộ phái,
trong đó quan trọng về mặt lý luận bao gồm: Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ,
Thuyết xuất thế bộ, Kê dận bộ, Đa văn bộ, Thuyết giả bộ, Chế đa sơn bộ, Tây
sơn trụ bộ và Bắc sơn trụ bộ.
Sự thay đổi về điều kiện xã hội và điạ lý và sự phân hoá trong Đại
Chúng bộ có thể là nguyên nhân gây ra sự phân hóa của Thượng Tọa bộ thành
11 bộ phái. Các phái có sự chuyển hoá về lý luận bao gồm: Tuyết sơn bộ,
Thuyết nhất thiết hữu bộ, Độc tử bộ, Pháp thượng bộ, Hiền vị bộ, Chánh
lượng bộ, Mật lâm sơn bộ, Hóa địa bộ, Pháp tạng bộ, Ẩm quang bộ và Kinh
lượng bộ.
Năm 245 (thế kỷ 3 trước công nguyên) “Kết tập lần III”, từ đây xuất
hiện nhiều trường phái khác nhau. Về triết học có hai phái đáng chú ý là phái
Nhất thiết hữu bộ (Sarvaxtivadin) và phái Kinh lượng bộ (Sautrastika).
C - Phật giáo ngày nay
Theo số liệu thống kê của Adherents thì số người theo đạo Phật trên
toàn thế giới là 376 triệu (vào năm 2005), chiếm khoảng 6% dân số thế giới.
Cũng theo thống kê Adherents, 10 nước có người theo Phật giáo đông
nhất là:
1- Trung Quốc 102,000,000 người
2- Nhật Bản 89,650,000 người
3- Thái Lan 55,480,000 người
4- Việt Nam 49,690,000 người
5- Myanma 41,610,000 người
6- Sri Lanka 12,540,000 người
7- Hàn Quốc 10,920,000 người
8- Đài Loan 9,150,000 người
9- Campuchia 9,130,000 người
21



10- Ấn Độ 7,000,000 người
D - Sự ảnh hưởng của Triết học Phật giáo Ấn Độ cổ trung đại đến
triết học Phật giáo Việt Nam:
- Phật giáo Việt Nam là Phật giáo đã được bản địa hóa khi du nhập từ
Ấn Độ và Trung Quốc vào Việt Nam, là một trong ba thành phần của “Tam
giáo đồng nguyên”, Nho - Phật - Lão.
- Phật giáo được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu công nguyên theo
con đường Hồ Tiêu (đường thủy) và con đường Đồng Cỏ (đường bộ).
- Theo quan điểm khác: Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam vào
thời Hùng Vương gắn với câu chuyện Tiên Dung và Chử Đồng Tử tương
đương với TK 3 trước công nguyên của Ấn Độ cổ trung đại và phái đoàn
truyền giáo đầu tiên ở Đồ Sơn - Hải Phòng, có người cho là ở Nghệ An.
- Quan điểm 3: Vào TK 1 khi vào thời điểm cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng thất bại, một nữ tướng của Hai Bà Trưng đã xuất gia đi tu.
- Quan điểm 4 của nhiều học giả là vào TK 2 – 3 sau công nguyên với
trung tâm Phật giáo nổi tiếng là Ly Lâu, đây được cho là quan điểm đúng.
- Sự hình thành và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam trải qua các
thời kỳ gắn liền với các triều đại phong kiến. Thời kỳ du nhập và hình
thành (thế kỷ II – V), tiếp theo là thời kỳ phát triển (thế kỷ VI – IX)
+ Với những giá trị tốt đẹp của Phật giáo, nhân dân ta nhanh chóng tiếp
nhận và hình thành nên Phật giáo Việt Nam.
+ Từ khi du nhập vào thế kỷ thứ 6 sau công nguyên đây là giai đoạn
nguyên thủy của Phật giáo Việt Nam với trung tâm là Ly Lâu ở Thuận Thành Bắc Ninh.
+ Phật giáo nguyên thủy Việt Nam trực tiếp được truyền từ Ấn Độ bằng
đường biển mang màu sắc Ấn Độ (áo cà sa đỏ) theo khuynh hướng Đại thừa.
+ Từ 580 đến Thời Lý (1225) giai đoạn này xuất hiện nhiều phái ở
nước ta mang đậm màu sắc Ấn Độ và màu sắc Trung Hoa.
+ Phật giáo Thời Trần: đây là giai đoạn Phật giáo phát triển đến đỉnh
22



cao với trường phái Trúc Lâm Yên Tử mang đậm màu sắc Việt Nam
+ Phật giáo giai đoạn thời Lê Nguyễn: Thời kỳ này Phật giáo nhường
chỗ cho Nho giáo.
+ Phật giáo hiện nay: Đã phát triển mạnh về tín đồ, phật tử, chùa chiền,
cũng như nghiên cứu giảng dạy.
Phật giáo Việt Nam hiện nay đang trên đà phát triển mạnh mẽ trong sự
phát triển đi lên của cả dân tộc. Với phương châm “đậm nét tính dân tộc” Cụ
thể:
Hiện nay phần lớn các nhà sư, các chủ trì điều có học thức cao từ trình
độ đại học đến bậc tiến sĩ … Các vị sư này không những thấu hiểu Phật giáo
Việt Nam mà còn được du học nền văn hóa Phật giáo ở các nước lân cận.
Được sự quan tâm của Đảng và sự hỗ trợ tích cực từ phía nhân dân về
cơ sở vật chất và kinh phí đầu tư, hiện nay nước ta đã có rất nhiều cơ sở Phật
giáo ngày càng to lớn và còn có cả các trường Đại học cho các bậc tu sĩ…
Việt Nam ngày nay bên cạnh những thành tựu kinh tế không thể phủ
nhận nhưng cũng có những báo động về nguy cơ văn hóa như tính nhân văn
của con người với con người, tình yêu thương đồng chí, đồng bào với nhau
đang ngày một hao mòn đi xuống. Do đó Phật giáo đã giúp cho con người
hướng thiện từ bỏ cái ác, cái xấu và đề cao tính nhân văn của con người.
Từ đó cho thấy Phật giáo Việt Nam đang thực sự lớn mạnh về mọi mặt
và trở mình “đổi mới” để xứng đáng với lòng tin của Đảng và nhân dân.

23


KẾT LUẬN
- Về đặc điểm: Triết học Ấn Độ cổ đại hòa lẫn tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
Các nhà triết học thường nặng tính kế thừa, bảo kê, ủng hộ hệ thống

triết học có trước mà ít phê phán, phủ định, gạt bỏ hệ thống triết học có trước.
Và thường không có sự xuất hiện các trường phái triết học mới.
Khi bàn đến vấn đề bản thể luận, một số học phái xoay quanh vấn đề
“tính không”, đem đối lập “không” và “có ”, quy cái “có” về cái “không” thể
hiện một trình độ tư duy trừu tượng cao.
- Về thành tựu, vai trò sự phát triển của xã hội: tư tưởng triết học Ấn
Độ và tư duy của người Ấn Độ cổ trung đại có nhiều giá trị nhân văn sâu sắc,
đó là xu hướng khá đậm nét trong triết học Ấn Độ cổ trung đại là quan tâm
giải quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo.
- Hạn chế của triết học Ấn Độ cổ trung đại: Do chưa giải thích được
đúng đắn nguồn gốc, bản chất của “cái khổ”,nên triết học Ấn Độ mới dừng
lại ở sự “giải thoát” về mặt tinh thần, mà chưa đem lại khả năng giải phóng
con người triệt để bằng cách mạng hiện thực.
- Gía trị đối với việc xây dựng nền văn minh hiện nay:Giá trị nhân văn
của triết học và văn hóa Phương Đông, trong đó có Hindu giáo và nhất là Phật
giáo, đang được tiếp thu và phát triển thành một nhân tố cơ bản và “ Phổ quát
” toàn cầu của nền văn minh mới trong thế kỷ XXI
Bài viết này của em chưa thực sự hoàn chỉnh, có thể còn nhiều sai sót,
em rất mong muốn sự góp ý của các thầy cô, và các bạn để bài viết hoàn
chỉnh hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn.

24


×