Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận về con đường đi lên CNXH ở việt nam trong giai đoạn từ năm 1986 – 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.71 KB, 53 trang )

QUY ƯỚC VIẾT TẮT
CMXHCN

: Cách mạng xã hội chủ nghĩa

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNXH – DC

: Chủ nghĩa xã hội – dân chủ

CNXHKH

: Chủ nghĩa xã hội khoa học

ĐCS

: Đảng Cộng sản

GCCN

: Giai cấp công nhân

GCTS


: Giai cấp tư sản

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do cấp thiết của đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12
- 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống. Để
đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết phải đổi mới tư
duy. Thực tiễn xã hội đã khách quan hóa vai trò và tầm quan trọng đặc biệt
của lý luận và tư duy lý luận đối với sự phát triển của đất nước và dân tộc.
Đổi mới tư duy lý luận của Đảng, là vấn đề cấp thiết với sự lãnh đạo của
Đảng đồng thời là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng
nước ta. Ở vị trí Đảng cầm quyền, có trọng trách lãnh đạo đất nước và lãnh
đạo xã hội đi tới chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Con đường cách mạng của nước ta từ một nước nông nghiệp tiến lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp. Cho nên
thời kỳ quá độ ở nước ta rất lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng bí
thư đầu tiên của Đảng thời kì đổi mới nhận mạnh : “Nói đổi mới tư duy, điều
căn bản là phải đổi mới tư duy lý luận”. Đồng chí đặt vấn đề để xứng đáng là
người lãnh đạo chính trị đối với xã hội, với niềm tin yêu của dân, Đảng phải
không ngừng nâng cao và hoàn thiện sự lãnh đạo của mình. Công cuộc đổi

mới hiện nay đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên phải không ngừng học tập, nếu
thiếu trình độ lý luận, học vấn thì khó mà làm được. Đây là lĩnh vực đầy rẫy
những cấp bách, thậm chí là cấp bách nhất phải đổi mới.
Trải qua gần 15 năm (1986 – 2000), công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo, được nhân dân đồng tình hưởng ứng,
đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Điều đó
chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi
2


lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Nước ta đang
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa tư bản, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, do đó,
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới đất nước cũng có nhiều điểm
khác so với thời kỳ trước đây.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng, trong khi
khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của
quá trình đổi mới, đã đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về
các vấn đề của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá. Đổi mới
tư duy lý luận của Đảng, là vấn đề cấp thiết với sự lãnh đạo của Đảng đồng
thời là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã khẳng định "Xét trên tổng thế,
Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới tư duy chính trị trong việc hoạch định
đường lối chính sách đối nội và đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không
có sự đổi mới khác". Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về những vấn
đề cơ bản của quá trình đổi mới và đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, và là
sinh viên chuyên ngành Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học, em lựa chọn đề tài
"Quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận về con đường đi lên CNXH
ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1986 – 2000”.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương

pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, căn cứ vào một
số quan điểm trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước từ sau Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986).
2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài: Đó là con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1986 – 2000.
Đối tượng nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, tác giả đã xác định đối
tượng nghiên cứu của đề tài là những “tư tưởng” có liên quan đến con đường
đi lên CNXH và những “lý luận” của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình
3


CNXH trong giai đoạn từ năm 1986 – 2000 thông qua các quan điểm của Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và văn kiện của Đảng trong các kỳ đại hội.
Giới hạn khảo sát của đề tài: Tác giả lựa chọn không gian và thời gian
khảo sát của đề tài là không gian phát triển tư tưởng, lý luận qua công cuộc
đổi mới đất nước từ đại hội VI…của Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2000.
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Nghiên cứu về quá trình phát triển tư tưởng và lý luận về con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong giai đoạn 1986 – 2000 và tác động của
nó đối với tình hình kinh tế chính trị xã hội đối với Việt Nam có rất nhiều
những tác phẩm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khía cạnh khác nhau. Tiêu biểu
như:
- Nguyễn Đức Bình (chủ biên), Đặng Xuân Kỳ, Nguyễn Duy Quý: Về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- V.I Lênin, Về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội H. : Sự thật, 1967.
- Về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội/ Hồ Chí
Minh - H: Sự thật, 1976.

- " Định hướng XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam Nguyễn Phú Trọng - NXBCTQG Hà Nội, 2000.
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII... của Đảng
Cộng Sản Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu của các tác giả trên đã đề cấp đến vấn đề quá
trình hình thành, phát triển lý luận về con đường đi lên CNXH của quá trình
thực hiện CMXHCN ở nước ta theo nhiều khía cạnh khác nhau và có nội
dung phong phú. Mặc dù vậy do gắn với lý luận và thực tiễn, để đáp ứng được
nhu cầu thực tiễn trên, tác giả chức có điều kiện đi sâu vào toàn bộ các vấn đề
một cách có hệ thống. Đặc biệt trong đó có việc đi sâu tìm hiểu cơ sở lý luận
và thực tiễn về điều kiện quốc tế đảm bảo sự thắng lợi cho quá trình hình
thành, phát triển lý luận về các giai đoạn tất yếu của CMXHCN.
4


Những tác phẩm này đều có những nội dung liên quan đến vấn đề phát
triển tư tưởng lý luận về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được nhìn nhận
theo những quan điểm khác nhau. Trong đề tài của mình tác giả nghiên cứu
vấn đề dưới góc nhìn của chủ nghĩa xã hội khoa học.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận nhằm làm rõ những tư tưởng, lý luận
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên CNXH trong
giai đoạn 1986 - 2000, để thực hiện được mục tiêu này tác giả đưa ra ba
nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, Những lý luận chung về con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam.
Thứ hai, Qúa trình phát triển tư tưởng và lý luận về con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1986 - 2000 .
Thứ ba, Sự vận dụng của Đảng Cộng sản vào công cuộc xây dựng mô
hình CNXH hiện nay và thành tựu đạt được trong những năm đổi mới.
5. Phương pháp nghiên cứu

* Phương pháp luận: Để nghiên cứu được đề tài này tác giả tuân thủ các
nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử để đánh giá xem xét vấn đề. Đặc biệt
tác giả sử dụng những nguyên lý, phạm trù cơ bản như: bản chất và hiện
tượng, nguyên nhân và kết quả; quy luật lượng – chất, quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập, mỗi quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất, giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng để tiến hành nghiên
cứu.
* Phương pháp nghiên cứu chung: Đối với đề tài này tác giả sử dụng
phương pháp nghiên cứu chung là: phân tích – tổng hợp, lôgíc – lịch sử, trừu
tượng hoá, khái quát hoá để nghiên cứu.
* Phương pháp cụ thể: Sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, thu
thập tài liệu, phân tích, sắp xếp, tóm tắt tài liệu. Ngoài ra tác giả còn tiến hành
trao đổi, thảo luận với các nhà khoa học, thầy cô giáo, đồng môn để bổ sung
nhiều tri thức quý báu phục vụ cho quá trình nghiên cứu của mình.
5


6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần danh mục tài liệu tham khảo,
tiểu luận có kết cấu gồm: 3 chương 8 tiết.

6


NỘI DUNG
Chương I: Lý luận chung về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
1.1 Khái niệm “con đường đi lên CNXH” ở Việt Nam
Trong chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến con đường CMXHCN
(cách mạng vô sản, cách mạng công nhân, cách mạng cộng sản). Khái niệm
con đường CMXHCN là đồng nghĩa với con đường đi lên CNXH.

CNXHKH hiện đại là CNXKH được xây dựng và phát triển cơ sở
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và được bổ sung, được khái quát
từ những nội dung mới qua sự phản ánh cuộc đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động ở các quốc gia, các dân tộc và cuộc đấu
tranh chung của nó trên toàn thế giới trong giai đoạn phát triển của nó.
Mà khái niệm con đường đi lên CNXH ở Việt Nam (theo nghĩa hẹp) là
khái niệm được dùng để chỉ định hướng phát triển đi lên CNXH của cách
mạng dưới sự chỉ đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ngay sau
khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà không đi con đường
lên CNTB. Mà theo nghĩa rộng, là khái niệm dùng để chỉ quá trình đấu tranh
cách mạng của nhân dân Việt Nam từ những năm 20 của thế kỷ XX với mục
tiêu, nội dung, nhiệm vụ, mô hình, phương hướng, động lực của nó và thực
hiện thông qua các bước đi, những phương thức, giải pháp thích hợp nhằm
xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam, góp phần tích cực vào việc thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân quốc tế và các mục tiêu
chung của nhân loại vì hòa bình độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
7


tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực
là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ.
Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh

giữa cái mới và cái cũ. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư
liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau,
nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều
cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai
cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân
dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích
toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung
chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và
hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Động lực
chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà
các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực
của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
1.2 Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Nhận thức mới về CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam phải dựa
trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
CNXH làm cơ sở lý luận và phương pháp luận để vận dụng sáng tạo, phát
8


triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong những điều
kiện mới.
Sau 20 năm đổi mới, bài học quan trọng đầu tiên mà Đảng Cộng Sản

Việt Nam rút ra là: …“trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm
cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn. Đổi mới không phải xa
rời mà là nhận thức, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ
nam cho mọi hành động cách mạng”. (ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, 2006, tr.69- 70).
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về CNXH và xây dựng
CNXH có giá trị bền vững trong việc tạo ra thế giới quan và phương pháp
luận khoa học và cách mạng cho các Đảng Cộng Sản nhận thức, xác định
những mô hình, những đặc trưng cách thức xây dựng XHCN phù hợp với
điều kiện cụ thể của nước mình. Thực tiễn cách mạng thế giới đã và đang
chứng minh sức sống, giá trị bền vững của những “nguyên lý tổng quát”những quan điểm thể hiện tính phổ biến về CNXH và về xây dựng CNXH
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin.
C.Mác và Ph.Ăngghen, với rất nhiều công trình nghiên cứu đã khái
quát nên những đặc trưng (mang tính dự báo) về xã hội xã hội chủ nghĩa, giai
đoạn đầu (giai đoạn thấp) của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản và giai đoạn
sau (giai đoạn cao) của hình thái đó, khi mà “thay thế cho xã hội tư sản cũ,
với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp,
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người”. (C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, 1995,
tập 4, tr.628)
Đồng thời với việc phác thảo những đặc trưng của CNXH, CNCS,
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra tính quy luật phổ biến của công cuộc
9


xây dựng CNXH là: cuộc cách mạng XHCN phải do giai cấp công nhân lãnh
đạo thong qua đội tiên phong của họ là Đảng Cộng Sản; cuộc cách mạng phải

được tiến hành thường xuyên liên tục, không ngừng qua từng thời kỳ với các
nhiệm vụ cụ thể; sau khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền thì
phải sử dụng chính quyền phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết tốt các
quan hệ lợi ích giữa giai cấp công nhân với dân tộc, dân tộc và quốc tế…
V.I.Lênin là người kế tục sự nghiệp vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen
đã vừa bảo vệ, vừa bổ sung, phát triển những quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, cụ thể hóa quan niệm về CNXH ở nước Nga Xô- viết và cách
thức con đường xây dựng CNXH ở nước Nga. Chính sách kinh tế mới (NEP)
của V.I.Lenin đã cho thấy sự vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của
C.Mác và Ph.Ăngghen về CNXH và xây dựng CNXH ở nước Nga. Điều
quan trọng nhất trong khi coi những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam là phải quán triệt đầy đủ, nhận thức
thật đầy đủ, sâu sắc các quan điểm biện chứng, lịch sử - cụ thể để có nhận
thức mới, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc. C.Mác và Ph.Ăngghen là
những nhà duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các ông luôn luôn có quan
điểm biện chứng và lịch sử - cụ thể trong xem xét đánh giá các sự vật, hiện
tượng, các mô hình phát triển, đặc biệt là trong quan niệm về con đường, biện
pháp xây dựng CNXH.
Sau 25 năm viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”, trong “Lời tựa”
viết cho bản tiếng Đức năm 1872, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên quan
điểm đánh giá: “Mặc dầu hoàn cảnh thay đổi trong hai mươi lăm năm qua,
nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong
“Tuyên ngôn” này vẫn hoàn toàn đúng. Ở đôi chỗ, có một vài chi tiết cần xem
lại. Chính ngay trong “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ ràng bất cứ ở đâu và
bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn
cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào biện pháp cách
mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay viết lại thì về nhiều mặt
10



cũng phải viết khác đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến lớn trong
hai mươi lăm năm qua… Ngoài ra, hiển nhiên là việc phê phán những văn
phẩm XHCN, việc nhận định về thái độ của người cộng sản đối với các đảng
đối lập… thì trong chi tiết, nhận định ấy cũ rồi.
Sau đó, Ph.Ăngghen trong tác phẩm “sự phát triển của chủ nghĩa xã hội
từ không tưởng tới khoa học” cũng đã nêu lên một luận điểm rất nổi tiếng: “
Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học thì trước hết phải đặt chủ
nghĩa xã hội trên cơ sở hiện thực” đồng thời “phải nghiên cứu thêm, trong
mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó” ( C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập
19, Nxb CTQG, 1995, tr.305).
V.I.Lênin khi vận dụng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung,
các quan điểm về CNXH và xây dựng CNXH nói riêng đã nêu lên hàng loạt
quan niệm về các quan niệm, các định nghĩa về CNXH, CNCS và con đường,
phương thức để thực hiện. Nhưng quan trọng nhất là những quan điểm mang
tính chất phương pháp luận của Người về CNXH và xây dựng CNXH. Trước
khi cuộc cách mạng XHCN tháng Mười Nga nổ ra, từ năm 1916, trong tác
phẩm “ Về một sự biếm họa chủ nghĩa Mác”, V.I.Lênin từng khẳng định: “Tất
cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội , đó là điều không tránh khỏi,
nhưng tất cả các dân tộc đều tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải một cách
hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức
này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của
chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”. (V.I.Lênin, toàn
tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, 1981, tr.160).
Về sau, bằng thực tế sinh động của công cuộc xây dựng CNXH ở nước
Nga Xô - viết, trong tác phẩm: “ Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng
sản (1920) Người còn chỉ rõ: “… nhiệm vụ của những người cộng sản là phải
biết áp dụng những nguyên tắc phổ biến và cơ bản của chủ nghĩa cộng sản
vào đặc điểm của những mối quan hệ giữa giai cấp và các đảng, vào đặc điểm
11



của sự phát triển khách quan hướng tới chủ nghĩa cộng sản, những đặc điểm
riêng của mỗi nước, mà chúng ta phải biết nghiên cứu, phát hiện và dự đoán”.
(V.I.Lênin, toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, 1978, tr.93).
Cơ sở lý luận và phương pháp luận để có những nhận thức mới về
CNXH và xây dựng CNXH là phải biết “kết hợp những nguyên lý phổ biến
vào đặc điểm riêng của từng quốc gia, dân tộc, phải nghiên cứu, phát hiện
những nét đặc thù của CNXH và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở từng nước”.
Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin
phải được quán triệt, vận dụng sáng tạo trong xử lý mối quan hệ giữa “cái phổ
biến” và “cái đặc thù” ngay trong nhận thức về CNXH và về con đường đi lên
CNXH phù hợp, thiết thực với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc.
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam là
kết quả vận dụng sáng tạo, phát triển lý luận Mác – Lênin về CNXH và xây
dựng CNXH, kết quả của việc giải quyết mối quan hệ giữa “cái phổ biến” và
“cái đặc thù” phù hợp với điều kiện nước ta. “Cái phổ biến” cần quán triệt,
vận dụng vào điều kiện Việt Nam là phải đưa cách mạng Việt Nam theo con
đường cách mạng vô sản, phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản. Công cuộc cách mạng XHCN là công cuộc giải phóng giai cấp gắn với
giải phóng dân tộc: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1,
Nxb CTQG, 2002, tr.416). Mà “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Độc lập dân tộc phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội và “…chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ” (Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, 2002,
tr.128).
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đã nêu và thực hiện phương châm: học tập

những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sang
12


tạo vào hoàn cảnh thực tế nước ta. Người chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác Lênin là học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản
thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để
áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm.
Lý luận đi đôi với thực tiễn”. Người đã từng đặt câu hỏi “chủ nghĩa xã hội là
gì?”, rồi chính Người trả lời, chỉ rõ những nét đặc trưng bản chất nhất của
CNXH, phản ánh điều kiện Việt Nam, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân
Việt Nam: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh…”; “chủ
nghĩa xã hội là công bằng - hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được
Nhà nước giúp đỡ, chăm nom”; “chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho
nhân dân lao động thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn,
việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. Từ quan niệm cụ thể, thiết
thực về CNXH, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nêu lên rất nhiều luận điểm về
thời kỳ quá độ lên CNXH, con đường, cách thức xây dựng để quá độ lên
CNXH trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người đã xác định đặc điểm của
thời kỳ quá độ lên CNXH và nhiệm vụ quan trọng nhất cần thực hiện: “…đặc
điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa… Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là xây dựng
nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có nền văn hóa và
khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải
cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ
chủ chốt và lâu dài”.
Để xây dựng CNXH, Người đã chỉ rõ trách nhiệm lãnh đạo của Đảng,
vai trò quản lý của Nhà nước, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phải

phát huy dân chủ để “dân là chủ”, “dân làm chủ”… Tư tưởng “lấy dân làm
gốc” của cha ông ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng trong công cuộc
13


xây dựng CNXH: “Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần
phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ
đại của toàn dân”. Về cách thức tiến hành xây dựng CNXH, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước, đội ngũ cán bộ phải có tri thức, trí
tuệ trong tìm hiểu, nắm vững quy luật, phải đấu tranh chống phiêu lưu, chủ
quan, chống tác phong quan liêu đại khái. Phải xác định lộ trình, bước đi thận
trọng, vững chắc để đi lên CNXH: “Tiến nhanh, tiến mạnh không phải là
phiêu lưu, làm ẩu. Phải thiết thực đi từng bước, phải tiến vững chắc. Phải nắm
vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều
kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Chớ
đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế. Phải chống bệnh chủ
quan, tác phong quan liêu đại khái. Phải xây dựng tác phong điều tra, nghiên
cứu trong mọi công tác cũng như trong khi định ra mọi chính sách của Đảng
và Nhà nước”. Để xây dựng thành công CNXH, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định vấn đề xây dựng Đảng, nâng cao vai trò, sức chiến đấu của Đảng là yếu
tố quyết định. Người đặt ra nhiệm vụ phải tăng cường về mặt tư tưởng và toàn
diện về tổ chức, đồng thời “Mọi đảng viên đều phải ra sức học tập chủ nghĩa
Mác- Lênin củng cố lập trường giai cấp vô sản, cố gắng nắm vững những quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam; phải luôn luôn nâng cao đạo đức
cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
Những phân tích trên nhằm khẳng định cơ sở lý luận và phương pháp
luận của những nhận thức mới về CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam
hiện nay là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH và xây
dựng CNXH (mang tính phổ biến) và những quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam (kết hợp tính phổ

biến và tính đặc thù).
1.3 Cơ sở thực tiễn của những nhận thức mới về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở nước ta.
Cơ sở thực tiễn của những nhận thức mới về CNXH và xây dựng
CNXH ở Việt Nam chính là “mảnh đất hiện thực Việt Nam”, là thực tiễn của
14


đất nước trong quá trình xây dựng CNXH trước và sau đổi mới, đặc biệt là
thực tiễn lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH của Đảng Cộng Sản Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, đặt trong bối cảnh chung của tình hình thế giới và thực
tiễn vận động của các cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới nhận thức về CNXH và
xây dựng CNXH ở nước ta (nhất là trong giai đoạn 1986- 2000).
Những tác động từ tình hình chính trị - xã hội thế giới từ sau sự sụp đổ
của hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô: sự tồn tại của chủ
nghĩa tư bản hiện đại và hòa bình, hợp tác, phát triển là xu thế lớn; toàn cầu
hóa kinh tế kinh tế vừa tạo ra cơ hộ phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều
yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là
các nước phát triển; các mâu thuẫn lớn của thời đại và cuộc đấu tranh tư
tưởng vẫn diễn ra gay gắt; công cuộc cải cách và xây dựng CNXH mang đặc
sắc Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu; sự tồn tại kiên cường của nước
Cộng hòa CuBa XHCN; thực tiễn phát triển của các nước Châu Mỹ Latinh và
phương châm xây dựng “Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI” ở Vênezuela… đều
phải được tính đến khi xác định cơ sở thực tiễn của những nhận thức mới về
CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay.
Thực tiễn của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới phản ánh thực tiễn
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam với những thành tựu đạt được trong
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc
XHCN - đây là cơ sở thực tiễn quan trọng nhất để tiếp tục có những nhận thức
mới về CNXH và xây dựng CNXH ở nước ta. Có thể cụ thể hóa cơ sở thực

tiễn này dựa trên các phương diện lý luận sau:
+ Thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, đối nội, đối ngoại của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới là cơ sở thực
tiễn đã kiểm chứng, phản ánh thành quả của đổi mới nhận thức về CNXH và
xây dựng CNXH ở Việt Nam trong việc xác định đặc trưng, bản chất của xã
hội - XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng, những phương hướng, nội dung,
nhiệm vụ cụ thể và cách thức thực hiện chúng trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ở Việt Nam.
15


+ Những bước phát triển về công tác tư tưởng, lý luận từ năm 1986 đến
2000 và quá trình gắn lý luận với thực tiễn, tổng kết thực tiễn và phát triển về
CNXH ở Việt Nam trên cơ sở những quan điểm Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về CNXH và con đường xây dựng CNXH.
+ Đó là nhu cầu mới đòi hỏi lý luận phải giải đáp nhiều vấn đề, định
hướng cho hoạt động thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, bổ sung hoàn thiện “ Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” ở Việt Nam.
+ Các vấn đề thực tiễn và lý luận đặt ra cần giải đáp một cách thuyết
phục liên quan đến nhận thức về CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam như:
phân tích, dự báo về sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại, các
mâu thuẫn lớn của thời đại và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng; xu
hướng, triển vọng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế; giải quyết như thế nào cho đúng
đắn, phù hợp với điều kiện Việt Nam những mối quan hệ giữa tốc độ tăng
trưởng và chất lượng phát triển bền vững, giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện công bằng xã hội, thể hiện tính ưu việt của định hướng XHCN, giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị, giữa độc lập tự chủ và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, những thời cơ, thuận lợi mới và những thách thức, nguy cơ

mới nảy sinh trên con đường phát triển đất nước…

16


CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG VÀ LÝ LUẬN
VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
TỪ NĂM 1986 - 2000
Ở Việt Nam ngay từ đầu và suốt tiến trình hơn 20 năm đổi mới, việc
kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, coi đó là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của
Đảng được xem như tiền đề và điều kiện tiên quyết cho những thành công to
lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là trong giai
đoạn 1986 - 2000 (đây là giai đoạn về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta theo đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đề ra. Những thành tựu đạt được trong thời kì đổi mới đã làm thay đổi
sâu sắc đời sống kinh tế - xã hội của đất nước).
2.1 Nền tảng tư tưởng và hệ thống lý luận về con đường đi lên
CNXH giai đoạn trước năm 1986.
Theo C.Mác, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa
là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với
thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không
thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Kiểu quá độ của Mác là quá độ về chính trị. Quá độ trực tiếp chỉ cần thay đổi
kiến trúc thượng tầng của giai cấp tư sản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là
có ngay những điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo V.I. Lênin về lý
luận, không còn nghi ngờ gì nữa rằng giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội
xã hội chủ nghĩa phải có một thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ đấu tranh giữa chủ
nghĩa tư bản đã bị đánh bại và chủ nghĩa xã hội mới phát sinh. Là thời kỳ đan
xen giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn

toàn, còn có điều kiện phục hồi trở lại. Cái mới thì mới ra đời chưa đủ thực
lực chiến thắng hoàn toàn cái cũ.
Mà bản chất nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
tính đan xen giữa cái cũ và cái mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
17


hội. Có tính gay go, phức tạp, lâu dài nhắc nhở chúng ta không được chủ
quan, nóng vội, duy ý chí. Kiểu quá độ của V.I. Lênin là quá độ toàn diện,
gián tiếp. Vì từ các nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội có xuất phát điểm
thấp. Nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên CNXH từ
sau khi miền Bắc được giải phóng thì đã cụ thể hơn. Chia thời kỳ quá độ
thành nhiều chặng đường, nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ; bắt đầu
thời kỳ quá độ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính
quyền bắt tay xây dựng chế độ xã hội mới; nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt
thời kỳ quá độ là xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của nền công nghiệp cho
chủ nghĩa xã hội nhằm cải tạo nông nghiệp tức là công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn; độ dài thời kỳ quá độ tùy thuộc vào việc thực
hiện nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ; kết thúc thời kỳ quá độ
khi xây dựng xong cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Để đi đến
đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội VI, Đảng ta, qua thực tiễn lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã trải qua nhiều bước tìm tòi và thử
nghiệm.
Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, Đại hội IV
của Đảng họp tháng 12 - 1976 đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong cả nước mà nội dung cơ bản là tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng:
cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư
tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt.
Nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện, chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan,
nóng vội, tính sai bước đi. Trong phát triển lực lượng sản xuất, đã không tập

trung phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ mà quá thiên về công nghiệp
nặng, làm nhanh, làm nhiều. Về quan hệ sản xuất, đã chủ trương cải tạo ồ ạt,
muốn nhanh chóng xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân để xác lập một cách
phổ biến các hình thức sở hữu tập thể và toàn dân đối với tư liệu sản xuất
ngay cả khi lực lượng sản xuất còn rất thấp kém. Về quản lý, đã chọn mô hình

18


kế hoạch hoá tập trung quan liêu, phủ nhận kinh tế thị trường, xem nhẹ năng
suất, chất lượng và hiệu quả.
Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trước hết là những
nguyên nhân về tổ chức và quản lý kinh tế, vào những năm cuối thập niên 70
thế kỷ XX, đất nước dần dần lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống còn là đưa đất nước thoát ra khỏi
khủng hoảng. Muốn vậy, phải thay đổi mạnh mẽ cách nghĩ và cách làm, tìm
tòi và thử nghiệm cách làm ăn mới cho những vấn đề đặt ra.
Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8 - 1979), với chủ trương bằng mọi
cách “làm cho sản xuất bung ra”, là bước đột phá đầu tiên của quá trình tìm
tòi và thử nghiệm đó. Hội nghị chủ trương ổn định nghĩa vụ lương thực trong
5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc trao đổi tự do; khuyến khích
mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc
dưới mọi hình thức; sửa lại thuế lương thực và giá lương thực để khuyến
khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối theo định suất, định lượng,... Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 6 nhanh chóng được nhân dân cả nước đón nhận
và biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn nền kinh tế. Chỉ một thời gian
ngắn, trong cả nước xuất hiện rất nhiều điển hình về cách làm ăn mới. Long
An từ giữa năm 1980 đã thí điểm mô hình “mua cao, bán cao”, “bù giá vào
lương” thay cho cơ chế “mua cung, bán cấp”. Hải Phòng, Vĩnh Phú, Nghệ
Tĩnh thí điểm hình thức khoán. Từ thực tế các thí điểm đó, ngày 13-1-1981,

Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về cải tiến công tác
khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác
xã nông nghiệp. Tiếp đó, trong công nghiệp, bước đầu xác định quyền tự chủ
của các cơ sở trong sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính của các xí nghiệp
theo các Quyết định 25/CP và 26/CP của Hội đồng Chính phủ. Nghị quyết
Trung ương 6, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và các Quyết định 25/CP và 26/CP
của Chính phủ cho thấy những ý tưởng ban đầu của đổi mới, tuy còn sơ khai,
chưa cơ bản và toàn diện, nhưng đó là bước đầu có ý nghĩa, đặt những cơ sở
đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.
19


Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) phát triển thêm một
bước, đánh giá một cách khách quan thành tựu và hạn chế trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đã chỉ ra nguyên nhân chủ quan gây nên sự sa sút của nền kinh
tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Để góp phần khắc
phục tư tưởng nóng vội, Đại hội đưa ra khái niệm về “chặng đường trước
mắt” của thời kỳ quá độ và xác định trong chặng đường này, nội dung chính
của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là “coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng
trong một cơ cấu hợp lý”. Đại hội cũng khẳng định sự tồn tại năm thành phần
kinh tế trong một thời gian nhất định ở miền Nam.
Tuy nhiên sau đó, Hội nghị Trung ương 5 khoá V (12-1983) lại cho
rằng sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên
nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế, xã hội, từ đó, chủ trương để ổn định
tình hình, phải đẩy mạnh hơn nữa cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước phải
nắm hàng, nắm tiền, xoá bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông hải
sản quan trọng, thống nhất quản lý giá...
Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) là bước đột phá thứ hai với
chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ

chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa... Tháng 9-1985, cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền được bắt đầu
bằng việc đổi tiền, xoá bỏ hoàn toàn chế độ tem phiếu. Do tư tưởng nóng vội,
cuộc tổng điều chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá cả thị trường có nhiều diễn
biến phức tạp; lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Đầu năm 1986, lại phải lùi
một bước, quay trở lại thực hiện chính sách hai giá...
Mà xuất phát điểm lên chủ nghĩa xã hội còn quá thấp, từ một nền nông
nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chính với lực lượng sản xuất thấp kém, quan
hệ sản xuất manh mún, đại đa số là nông dân mang nặng tư tưởng nho giáo,
phong kiến, tiểu nông. Hậu quả chiến tranh nặng nề, vừa khôi phục, hàn gắn
20


vết thương chiến tranh, vừa phát triển kinh tế, vừa thực hiện chính sách xã
hội. Các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp nhất là tệ quan liêu, tham nhũng làm
mất lòng tin của dân đối với chế độ xã hội mới. Sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức là
nguy cơ của một đảng cầm quyền. Chủ nghĩa đế quốc và âm mưu diễn biến
hòa bình hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội với các chiêu bài dân chủ, nhân quyền,
tôn giáo, dân tộc...là lực cản cho quá trình phát triển của dân tộc.
Vận dụng những quan điểm cơ bản mà V.I.Lênin đã nêu ra về đặc điểm
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở “những nước tiểu nông”, Đảng ta và
nhân dân ta đã có những thành quả bước đầu trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội, bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc. Nhưng khoảng thời gian 1975-1985,
chúng ta đã phạm một số sai lầm, trong đó có biểu hiện chủ quan, nóng vội,
giản đơn, nhất là về quản lý kinh tế: Đó là quá chú trọng hai thành phần kinh
tế là quốc doanh và tập thể một cách hình thức, thực hiện quá lâu cơ chế tập
trung quan liêu, hành chính bao cấp của Nhà nước; nhận thức chưa đúng quan
điểm của V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế hàng hoá nhiều

thành phần, kinh tế đan xen nhau,...trong thời kỳ quá độ, do đó đã biến chế độ
sở hữu toàn dân và tập thể trở nên trừu tượng, hình thức bề ngoài, nhiều tư
liệu sản xuất chung của xã hội, nhất là đất đai trở nên không có chủ cụ
thể...Đó là một trong những nguyên nhân làm triệt tiêu các động lực, các tiềm
năng của toàn dân ta, của đất nước ta và không phát huy hết nội lực, không
tranh thủ được sự hợp tác quốc tế. Vì vậy, kinh tế - xã hội đã lâm vào trì trệ,
khủng hoảng...
2.2 Đổi mới tư duy lý luận về con đường đi lên CNXH giai đoạn
1986 - 1990
Vào nửa sau những năm 80 của thế kỉ XX, tình hình thế giới tiếp tục có
những diễn biến phức tạp. Trong khi các nước tư bản đẩy mạnh cuộc cách
mạng khoa học- kĩ thuật, nhanh chóng vượt qua khủng hoảng để phát triển đi
lên, các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã

21


hội, dần dần đi tới khủng hoảng. Trong quan hệ quốc tế, xu thế đối đầu
chuyển dần sang xu thế đối thoại.
Ở trong nước, nhân dân ta đã giành thêm được những thành tựu quan
trọng trên nhiều lĩnh vực, cải biến được một phần cơ cấu kinh tế xã hội. Song,
chúng ta chưa tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và
khuyết điểm mới. Trong thời kì thực hiện kế hoạch 5 năm (1981 - 1985),
chúng ta không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định tình hình kính tếxã hội, ổn định đời sống nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền
cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế- xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng trầm
trọng. Tình hình trên đòi hỏi phải đổi mới toàn diện để đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên. Trong bối cảnh ấy, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-121976. Tham dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt gắn 1,9 triệu đảng viên
trong cả nước. Nguyễn Văn Linh, Uỷ viên Bộ Chính trị đọc diễn văn khai
mạc Đại hội. Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đọc Báo cáo chính trị của

Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Võ Văn Kiệt đọc Báo cáo về phương
hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế- xã hội trong 5 năm (1986 - 1990).
Với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật", Đại hội khẳng định những thành tựu đã đạt được, đồng thời nêu ra
những mặt hạn chế, yếu kém và vạch rõ những nguyên nhân của sự yếu kém.
Từ thực tiễn cách mạng trong 10 năm vừa qua, Đại hội rút ra bài học kinh
nghiệm quan trọng:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy
luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

22


Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một
đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Trên cơ sở đó, Đại hội khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta là "... đem hết tinh thần và lực lượng, tiếp tục thực hiện thắng
lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội". Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối
chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa do các Đại hội lần thứ IV và lần thứ V của Đảng xác định. Tuy

nhiên, về nhận thức, Đảng ta đã có những điều kiện để hiểu biết đầy đủ hơn
về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thời kì quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền
sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải
lâu đài và khó khăn, trải qua nhiều chặng đường. "Chặng đường đầu tiên là
một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn", Đại hội nêu rõ: "nhiệm vụ bao
trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là
ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề
cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp theo".
Theo quan điểm của Đảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội bao gồm
cả ổn định sản xuất, ổn định phân phối, lưu thông, ổn định đời sống vật chất
và văn hoá, tăng cường hiệu lực của tổ chức quản lí, lập lại trật tự, kỉ cương
và thực hiện công bằng xã hội ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong
quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định
được. Xuất phát từ nhiệm vụ bao trùm và mục liêu tổng quát, Đại hội VI xác
23


định những mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là:
+ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ. Hướng mọi cố gắng vào việc
đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu của xã hội, dần dần ổn định và
tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ổn định
đời sống nhân dân phải đi đôi với bảo đảm yêu cầu có tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế quốc dân để đủ sức tiếp nhận và đưa vào tái sản xuất mở rộng vốn vay
và viện trợ của nước ngoài.
+ Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lí nhằm phát triển sản xuất.
+ Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần

kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể
một cách toàn diện, cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lí, chế độ phân phối làm
cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân, thể
hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, thu nhập của
người lao động và tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá.
+ Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội. Muốn vậy, cần giải quyết một
phấn quan trọng việc làm cho người lao động và bảo đảm về cơ bản phân phối
theo lao động; thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của
nước ta; loại bỏ những nguồn thu nhập do làm ăn phi pháp mà có. Trong sự
nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, đặc biệt chú ý xây dựng quan hệ xã hội và
lối sống lành mạnh, khắc phục các hiện tượng tiêu cực; giữ gìn và phát huy
tinh thần dân chủ, nhân đạo, chủ nghĩa anh hùng và những giá trị văn hoá
khác của truyền thống dân tộc và cách mạng.
+ Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Phát triển quan điểm kinh tế của Đại hội VI, Hội nghị lần thứ 6 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 3-1989 đã khẳng định phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách này được nhân dân hưởng ứng
24


rộng rãi và đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, đã góp phần phát huy quyền
làm chủ của nhân dân về kinh tế, khơi dậy được nhiều tiềm năng và sức sáng
tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo thêm việc làm và sản
phẩm cho xã hội... Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (đánh dấu sự
mở đầu chính thức công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đảng ta xác định đúng đắn, bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận, nhất là
tư duy kinh tế. Đổi mới toàn diện nhưng có trọng điểm đúng: Trên cơ sở ổn
định, phát triển kinh tế, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, đồng thời và
từng bước đổi mới hệ thống chính trị để phát triển đất nước đúng định hướng

xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đã có nhận thức ngày càng rõ hơn về “thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội”, có thể thấy rõ những bước cụ thể hoá về phát triển
“bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Đường lối đổi mới của Đảng ta đã khẳng
định đó là “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Đến Đại hội IX, Đảng ta nhận
thức rõ hơn nữa: “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh
lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất,
nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhưng cơ cấu,
tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những
biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã
hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác
lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong
mục tiêu chung độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nội dung chủ
yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
25


×