Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Tiểu luận kinh tế tri thức kinh tế tri thức và vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của việt nam hiện nay liên hệ với thực tiễn của ngành hoặc địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.89 KB, 44 trang )

A.

MỞ ĐẦU

Tại đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định : thời kỳ phát triển
mới của đất nước là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục
tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần đại hội VIII là : “ Xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hôi”. Đến Đại hội lần thứ X , Đảng tiếp tục nhấn mạnh "Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với từng bước phát triển kinh tế tri
thức".Trong Văn kiện XI, Đảng lại có sự phát triển mới về nhận thức lý luận
và thực tiễn thể hiện ở định hướng “phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình
độ tiên tiến của thế giới”.
Để thực hiện được chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã đề ra, để có
khả năng tiếp nhận những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ , có
thể rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì kinh tế tri thức chính
là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất. Kinh tế tri thức dựa vào tri
thức và thông tin là chủ yếu , trong đó khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp và quan trọng hàng đầu.
Nền kinh tế tri thức đã hình thành, đã là hiện thực của nhiều nước. Đó là
xu thế tất yếu của quá trình phát triển sức sản xuất , là thành tựu quan trọng
của loài người mà chủ nghĩa xã hội phải nắm lấy và vận dụng để phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Nhiều nước đang phát triển đã đang đi nhanh vào nền kinh tế tri thức và đây
cũng là thời cơ và thách thức hết sức to lớn, quyết liệt.
Để hiểu rõ về kinh tế tri thức, quá trình công nghiệp hóa gắn với kinh tế
tri thức, em đã chọn đề tài “Kinh tế tri thức và vấn đề đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam


hiện nay. Liên hệ với thực tiễn của ngành hoặc địa phương” làm đề tài tiểu
luận của mình.
1


B.
1.
1.1.
1.1.1.
1.1.1.1.

NỘI DUNG

KINH TẾ TRI THỨC
Tri thức và sự ra đời của kinh tế tri thức
Tri thức.
Dữ liệu, thông tin và tri thức
Giữa “tri thức”, “thông tin” và “dữ liệu” có sự phân biệt nhất định. Dữ
liệu là các tín hiệu, con số. chữ viết, hình ảnh, âm thanh…riêng biệt, là nguồn
gốc, là vật mang thông tin, là vật liệu sản xuất ra thông tin Giữa tri thức,
thông tin và dữ liệu có sự phân biệt nhất địnhThông tin là những dữ liệu được
sắp xếp lại thành những tổ hợp có ý nghĩa , có nội dung.
Theo tiến trình của sự nhận thức, sau khi các giác quan tiếp nhận các tín
hiệu của các đối tượng ta có các dữ liệu. Tập hợp các dữ liệu này qua quá
trình tư duy lô gic ta sẽ có thông tin về đối tượng đó.Thông tin được hiểu theo
nghĩa thông thường là sự phản ánh về một vật, một hiện tượng, một sự kiện
hay quá trình nào đó của thế giới tự nhiên, xã hội và con người thông qua
khảo sát trực tiếp hay lý giải gián tiếp.Thông tin là nội dung của tất cả các loại
thông điệp giao tiếp.Thông tin được truyền đi dưới hình thức trao đổi trực tiếp
giữa hai người qua các thiết bị truyền thông hoặc qua các phương tiện thông

tin đại chúng khác nhau như báo chí, sách vở, các tài liệu, tranh ảnh các cơ sở
dữ liệu, bằng sáng chế.Thông tin không phải nhất thiết dưới hình thức các từ
ngữ - nó có thể là hình ảnh. Âm thanh, bản nhạc, điệu múa, cử chỉ.
Khi tiếp thu và xử lý thông tin, con người có những hiểu biết về đối
tượng, về quy luật vận động và tương tác của đối tượng đối với thế giới vật
chất xung quanh. Những hiểu biết đó goi là tri thức.Tri thức là những thông
tin sau khi được thu thập, xử lý để nhận thức. Giữa thông tin và tri thức đôi
khi không có ranh giới rõ ràng. Để phân biệt, ta có thể hình dung: Thông tin là
“cái của người” còn tri thức là “ cái của mình”.
Phân biệt tri thức được hệ thống hóa với tri thức tiềm ẩn là điều quan
trọng.Tri thức được hệ thống hóa là tri thức được chuyển thành thông tin để
có thể dễ dàng truyền đạt, trao đổi, phổ biến cho người khác.Tri thức ở dạng
tiềm ẩn, như năng khiếu, khó có thể hệ thống hóa để trở thành thông tin, vì
2


vậy, khó có khả năng truyền đạt, trao đổi, phổ biến cho người khác.Tri thức
tiềm ẩn thường gắn với cá nhân con người, tổ chức, dân tộc, đất nước cụ thể.
Từ những mối quan hệ trên đây, ta thấy rõ, thông tin là cơ sở quan trọng
của tri thức, không có thông tin thì không thể có tri thức. Tuy nhiên, đôi khi
có thông tin mà vẫn không có tri thức.Chính vì vậy, mà năm 1996, nhà tương
lai học người Anh Giôn Naisbet đã cảnh báo rằng: “ Chúng ta đang chìm
ngập trong thông tin mà vẫn thiếu tri thức”.Thông tin và tri thức trong thời
đại ngày nay có tốc độ gia tăng, lan truyền và được phổ biến rất nhanh chóng,
1.1.1.2.

gắn trực tiếp với hoạt động sản xuất và đời sống xã hội.
Tri thức trở thành yếu tố chủ yếu của sản xuất.
Tri thức, thông tin, công nghệ giữ vị trí then chốt,có vai trò thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội và đời sống.

Trước kia, người ta thường coi lao động và vốn là 2 yếu tố của sx, còn tri
thức, thông tin, công nghệ là các yếu tố bên ngoài của sản xuất.Gần đây, các
nhà nghiên cứu kinh tế đều thừa nhận tri thức, thông tin, công nghệ là yếu tố
nội tại của hệ thống kinh tế. Rômơ coi tri thức và công nghệ là yếu tố thứ ba
của sx, bên cạnh vốn và lao động
Ngày nay, các nguồn vốn, lao động và đất đai vẫn giữ vai trò rất quan
trọng nhưng tri thức càng ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu các nguồn
lực của sản xuất.
“Báo cáo phát triển thế giới” của Ngân hàng Thế giới năm 1999 viết:
“Đối với những nước tiên phong trong nền kinh tế toàn cầu, cán cân giữa tri
thức và các nguồn tài nguyên hiện nay đã nghiêng mạnh về phía tri thức, đến
nỗi có lẽ tri thức đã trở thành nhân tố quan trọng nhất quyết định mức sống,
quan trọng hơn đất đai, hơn công cụ sản xuất, hơn lao động. Ngày nay, các
nền kinh tế tiên tiến nhất về công nghệ đã hoàn toàn dựa trên tri thức”.
Tri thức ngày càng trở thành yếu tố chủ yếu của sản xuất. Đầu tư vào tri
thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn. Trong các
nước phát triển, đầu tư vô hình (giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ…)
tăng nhanh hơn đầu tư hữu hình ( đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật).

3


Từ lâu, người ta đã thừa nhận tầm quan trọng của việc tiếp thu tri thức,
nhưng giờ đây nó lại cấp thiết hơn bao giờ hết trước xu hướng quốc tế hóa
ngày càng tăng. Việc quốc tế hóa sản xuất tạo ra những động lực mới, những
cơ hội mới và những áp lực mới đối với việc tiếp thu tri thức. Những nền kinh
tế công nghiệp hóa đang tự thay đổi do ngày càng chú trọng tới những kỹ
năng tri thức, phát triển các sáng kiến, tiếp thu các công nghệ và tham gia vào
các mạng lưới quốc tế trao đổi sản phẩm, vốn và tri thức. Đi cùng với sự xuất
hiện của kinh tế tri thức là những thay đổi trong các hoạt động kinh tế và cơ

cấu tổ chức mà đòi hỏi phải có những thay đổi chủ yếu trong nền kinh tế , các
công ty, các cá nhân và chính phủ.
Hiện nay, các nền kinh tế tiên tiến nhất về công nghệ đã thực sự dựa vào
tri thức. Khi nền kinh tế sản sinh ra của cải mới từ những công nghệ mới, quy
trình sản xuất mới… do việc sử dụng tri thức mới thì cũng đang tạo ra hàng
triệu việc làm mới. Với tầm quan trọng đó của tri thức, nhiều nước đang phát
1.1.1.3.

triển tập trung triển khai những chiến lược quốc gia về tri thức.
Tri thức là động lực cho sự tăng trưởng kinh tế.
Thuật ngữ “kinh tế tri thức” cho thấy “vai trò chủ chốt” của tri thức dưới
mọi hình thức trong các quá trình kinh tế: “Đầu tư vô hình ngày càng phát
triển hơn đầu tư hữu hình. Những cá nhân nào có nhiều trí thức hơn sẽ nhận
được công việc có tiển lương cao hơn, những công ty nào có nhiều tri thức
hơn sẽ là người chiến thắng trên thị trường và những quốc gia nào tiếp thu
nhiều tri thức hơn sẽ có năng lực sản xuất lớn hơn. ( OECD, 1996)
So sánh Hàn Quốc với Gana: Vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX :
Thu nhập bình quân/đầu người tương đương. Thập kỷ 90 của thế kỷ XX Hàn
Quốc gấp 6 lần Gana. Nguyên nhân chủ yếu do Hàn Quốc thành công trong
việc nâng cao dân trí và sử dụng tri thức rộng rãi.
Cuốn sách Nền kinh tế dựa trên tri thức của tổ chức OECD viết:” Hơn
50% GDP của các nước thành viên chủ yếu của tổ chức đã lấy tri thức làm cơ
sở”.Ở thế kỷ XVIII, một nước muốn công nghiệp hóa phải mất 100

4


năm.Trong thập kỷ 70-80 của thế kỷ XX là khoảng 20 năm.Còn trong thập kỷ
90 của thế kỷ XX là 10 năm. Trung Quốc, mất 10 năm.
Anphrết Mácsan cho rằng:” tri thức là động lực sản xuất mạnh nhất của

chúng ta, nó tạo điều kiện cho chúng ta chinh phục thiên nhiên và…thỏa mãn
những ham muốn của chúng ta”.
Do trình độ khoa học và tri thức ngày càng cao cùng hàng loạt những
thành tựu vĩ đại mà con người đã đạt được trong cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, làm giàu thêm kho tàng tri thức của nhân loại, con người
lại thấy còn rất nhiều vấn đề có thể và cần phải biết. Do đó, nó kích thích con
1.1.2.

người nghiên cứu, tìm hiểu, tạo động lực cho sự phát triển.
Sự ra đời của nền kinh tế tri thức.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, sự bùng nổ các công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin , công nghệ
sinh học …đã khẳng định vai trò, động lực quan trọng đối với sự phát triển,
và có tác động rất mạnh mẽ , sâu sắc đến nền kinh tế thế giới và xã hội loài
người, tạo sự nhảy vọt trong phát triển lực lượng sản xuất. Nền kinh tế thế
giới bước sang giai đoạn phát triển mới, trong đó tri thức thông tin trở thành
yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển sản xuất, khoa học và công nghệ
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Từ đầu thập kỷ cuối cùng của thế kỷ
XX ở các nước phát triển, lực lượng sản xuất chuyển sang một giai đoạn mới.
Có nhiều tên gọi khác nhau cho giai đoạn phát triển mới này của lực
lượng sản xuất: “Kinh tế tri thức”, “Kinh tế mới”, “Kinh tế hậu công nghiệp”,
“Kinh tế số”… “Kinh tế tri thức” là tên thường dùng nhất. Nó nói lên được
nội dung cốt lõi của kinh tế tri thức : sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức
của con người đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra
của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Như vậy, kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển cao của lực lượng sản
xuất xã hội, theo đó thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp
trong lao động xã hội giảm đi rất nhiều, còn hàm lượng tri thức, hao phí lao
động trí óc lại tăng lên ngày càng lớn.


5


Quá trình phát triển lực lượng sản xuất của loài người có thể chia làm ba
thời kỳ: thời kỳ thứ nhất là nền kinh tế nông nghiêp, cũng có thể gọi là kinh tế
sức lao động, đặc trưng chủ yếu là sản xuất bằng lao động thủ công, năng suất
thấp, đất đai là tài nguyên chủ yếu. Thời kỳ thứ hai là nên kinh tế công
nghiệp, cũng được gọi là kinh tế tài nguyên, dựa chủ yếu vào máy móc và tài
nguyên thiên nhiên. Hiện nay, loài người bước vào nền kinh tế tri thức , tri
thức và thông tin trở thành yếu tố sản xuất quan trọng hơn cả vốn và lao động.
Việc chuyển từ công nghiệp sang kinh tế tri thức là sự chuyển từ nền
kinh tế dựa vào lao động và tài nguyên sang nền kinh tế dựa chủ yếu vào trí
lực của con người. Máy móc do con người làm ra không chỉ thay thế lao động
cơ bắp của con người mà còn thay thế nhiều chức năng lao động trí óc con
người, làm cho năng lực trí tuệ khả năng sáng tạo của con người phát triển
hầu như vô tận.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất xã hội chuyển từ kinh tế
công nghiệp sang giai đoạn mới- kinh tế tri thức chủ yếu do tác động của một
-

số yếu tố cơ bản sau:
Sự phát triển phi thường của công nghệ thông tin đã dẫn đến xuất hiện hàng

-

loạt những sản phẩm và dịch vụ mới làm thay đổi các quá trình sản xuất.
Tốc độ phát triển của những tiến bộ khoa học, công nghệ và sự phổ biến của
chúng đang gây áp lực đối với các công ty trong việc đáp ứng nhanh hơn nữa
những cơ hội cũng như thách thức mà những thay đổi của khoa học và công


-

nghệ đem lại.
Toàn cầu hóa nền kinh tế dẫn đến xu hướng cạnh tranh toàn cầu lớn hơn do
giảm các chi phí vận chuyển và thông tin, tăng thương mại , đầu tư và tự do

1.2.
1.2.1.

hóa thị trường vốn.
Những đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường.
Tri thức là yếu tố quyết định nhất.
Đặc điểm lớn nhất làm khác biệt kinh tế tri thức với kinh tế công nghiệp
và kinh tế nông nghiệp chính là tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất của
sản xuất, hơn cả lao động cơ bắp và tài nguyên. Vốn quý nhất, động lực quan
trọng nhất cho sự phát triển kinh tế là tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu

6


tạo nên sự tăng trưởng kinh tế. Khác với nguồn lực khác bị mât đi khi sử
dụng, tri thức và thông tin có thể được chia sẻ, và trên thực tế lại tăng lên khi
sử dụng.
Tri thức không những có vai trò sáng tạo, truyền bá mà còn có vai trò
truyền thông, sử dụng, trở thành nguồn lực của sản xuất. Vì vậy lấy ngành sản
xuất dựa trên cơ sở tri thức làm ngành sản xuất thứ tư có thể sẽ là một điều
xác đáng. Do vậy, đầu tư phát triển tri thức là đầu tư chủ yếu nhất.
Trong kinh tế tri thức, chiến lược đầu tư mới là mua khái niệm mới và
khả năng tạo ra chúng, chứ không phải mua máy móc thiết bị mới. Giá trị
tăng thêm ngày càng được tạo ra bởi những yếu tố vô hình như sáng chế, phát

1.2.2.

minh, thiết kế mẫu mã, tiếp thị, nhãn hiệu….
Sự chuyển đổi nhanh cơ cấu
Tiến tới kinh tế tri thức là sự chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu,
năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, dựa vào phương pháp sx nông nghiệp,
lao động thủ công là chính sang nềnkinh tế có năng suất, chất lượng, hiệu quả
cao, theo phương pháp sx công nghiệp, dựa vào tiến bộ khoa học và công
nghệ mới nhất.
Trong kinh tế tri thức, vẫn còn nông nghiệp và công nghiệp nhưng hai
ngành nàychiếm tỷ lệ thấp. Trong kinh tế tri thức, các ngành kinh tế dựa vào
tri thức, dựa vào các thành tưu mới nhât của khoa học và công nghệ chiếm đa
số.
Sự biến chuyển nhanh chóng này đang diễn ra trong mọi ĩnh vực, trong
toàn bộ cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, kinh
tế tri thức đã bắt đầu hình thành . Hiện nay ở những nước này riêng những
ngành kinh tế dựa vào tri thức đã chiếm khoảng 45%-50% GDP. Trong các
nước OECD những ngành kinh tế tri thức đã chiếm hơn 50% GDP.
Một ngành kinh tế có thể coi là ngành kinh tế tri thức khi tỷ lệ đóng góp
của yếu tố tri thức trong tăng trưởng kinh tế, trong sản xuất các sản phẩm dịch
vụ khoảng từ 70% trở lên.
Kinh tế tri thức tạo ra nhiều việc làm mới, phát triển nhanh đội ngũ công
nhân trí thứ, lao động trí óc chiếm đa số trong lực lượng lao động.

7


Trong kinh tế tri thức, sự thành công của một công ty này không nhất
thiết dẫndến sự sụp đổ của một công ty khác do cạnh tranh như ở thời ký công
nghiệp mà thành công của người khác dẫn đến sự phát triển liên tục.

Trong kinh tế tri thức, các công ty mới mọc nhanh như nấm , sự ra đời
của công ty gắn với sự ra đời của công nghệ mới, một sáng chế mới.
Các công ty hoạt động muốn trụ được phải không ngừng đổi mới, hợp
1.2.3.

tác với nhau.
Công nghệ thông tin và viễn thông ứng dụng rộng rãi trongm ọi lĩnh vực
đời sống kinh tế xã hội.
Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi
trong mọi lĩnh vực, mạng thông tin máy tính phủ khắp nước, nối với hầu hết
các tổ chức, các gia đình, nhờ đó có thể lựa chọn sản phẩm, thăm dò các dịch
vụ công cộng, tìm hiểu quyền hạn và nghĩa vụ công dân, giải quyết các nhu
cầu văn hóa và giáo dục…
Công nghệ thông tin có tác động làm cho tri thức, sức sáng tạo của con
người trở thành yếu tố có ý nghĩa quyết định và nguồn lực có giá trị nhấtkhông phải vốn mà là trí lực, để tạo nên những giá trị gia tăng của các sản
phẩm dịch vụ.
Tác dụng trực tiếp của ngành công nghệ thông tin với tư cách là công
nghiệp công nghệ thông tin nhằm tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng
cao, còn tác dụng gián tiếp của công nghệ thông tin là các hoạt động được tiến
hành ngay trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhất là
trong các ngành dịch vụ cao làm tăng mạnh mẽ hiệu quả của toàn bộ nền kinh
tế.
Công nghệ thông tin hiện nay rất đa dạng: thư điện tử, điện thoại di
động, thương mại điện tử, chính phủ điện tử, ,mạng internet… làm thay đổi
bộ mặt của nhiều ngành sản xuất kinh doanh.
Thương mại điện tử: là việc trao đổi mua bán, tư vấn, dịch vụ tiến hành
trên mạng máy tính. Nó có vai trò rất to lớn: Giảm chi phí sản xuất, giảm chi
phí bán hàng và tiếp thị, giảm chi phí giao dịch, giúp thiết lập và củng cố
quan hệ đối tác.


8


Chính phủ điện tử: mọi việc điều hành của chính quyền chủ yếu thông
qua mạng máy tính, giúp nâng cao hiệu quả và hiệu lực điều hành của chính
quyền. Hệ thống công văn giấy tờ thực hiện bằng thư điện tử. Cơ sở hạ tầng
của chính phủ điện tử là mạng thông tin nhanh và mạnh, truyền cả âm thanh,
hình ảnh. Chính quyền điện tử còn tạo điều kiện thuận lợi để thực thi dân chủ
trực tiếp của nhân dân.
Chữa bệnh điện tử: khám bệnh và chữa trị từ xa.
Thực tế ảo: công nghệ thông tin có thể mô hình hóa các quá trình ,các
hiện tượng trong tự nhiên, có thể dựng lại thực tế bên ngoài; có thể tạo ra
những phòng thí nghiệm ảo, có thể tạo ra những hiện tượng phức tạp giúp cho
phép nhanh chóng phân tích, đánh giá những điều trước đây khoa học chưa có
1.2.4.

điều kiện tiếp cận.
Hệ thống giáo dục thay đổi, chuyển sang hệ thống học tập suốt đời, xã hội
học tập.
Với sự bùng nổ thông tin và liên tục đổi mới công nghệ, đổi mới tri thức,
mô hình giáo dục truyền thống( đào tạo xong rồi làm việc) không còn phù hợp
nữa mà phải đào tạo cơ bản, ra làm việc và tiếp tục đào tạo, vừa đào tạo vừa
làm việc. Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người học bất cứ lúc nào,
bất cứ ở đâu cũng có thể học tập được. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc học tập suốt đời.
Nhờ sự phát triển có tính chất bùng nổ của mạng Internet, các trường đại
học trên thế giới đã có những thay đổi đáng kể trong hoạt động ứng dụng máy
tính và mạng máy tính trong các chương trình giảng dạy và học tập. Nhiều
trường đã có trên mạng với toàn bộ tài liệu lưu trữ, thư viện, thông tin..Số
thầy giáo, số người học tập và được đào tạo qua mạng ngày càng nhiều với


1.2.5.

các chương trình giảng dạy, kiểm tra, thi.
Kinh tế tri thức là kinh tế có tính toàn cầu.
Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang phát triển không thể kìm giữ.
Thị trường thế giới sẽ mở rộng , cơ chế thị trường mở sẽ phát huy tác dụng
động lực thúc đẩy tăng trưởng. Cơ chế thị trường của mỗi quốc gia chịu sự tác
động mạnh của cơ chế thị trường của các quốc gia hùng mạnh, của khu vực và

9


thế giới. Cạnh tranh khu vực và toàn cầu cũng sẽ phát triển mạnh mẽ. Tri thức
và thông tin không biên giới sẽ đưa hoạt động kinh tế vượt ra khỏi phạm vi
biên giới và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu.
Thị trường và sản phẩm trong kinh tế tri thức mang tính toàn cầu. Một
sản phẩm sản xuất ở bất cứ nơi nào cũng có thanh nhanh chóng có mặt khắp
nơi trên thế giới; rất ít sản phẩm do một nước làm ra, mà phần lớn là kết quả
của sự tập hợp các phần việc được thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới, kết quả
của công ty ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa… Quá trình toàn cầu hóa cũng là
quá trình chuyển sang kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức thúc
đẩy nhau, gắn quyện với nhau. Toàn cầu hóa một mặt tạo thuận lợi cho sự
phát triển nhanh kinh tế tri thức ở các nước, nhưng đồng thời cũng đặt nhiều
thách thức rủi ro. Cho tới nay thì khoảng cách giàu nghèo đang tăng nhanh,
do chênh lệch nhiều về tri thức, nếu rút ngắn được khoảng cách về tri thức sẽ
1.2.6.

thu hẹp được khoảng cách giàun nghèo.
Sáng tạo để tồn tại và cạnh tranh.

Đặc điểm nổi bật của kinh tế tri thức là sự sáng tạo kinh tế. Ngay ở xã
hội công nghiệp, công nghệ mới, tri thức mới luôn có vai trò rất quan trọng,
bởi nó quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm và sản xuất. Tuy nhiên ở
xã hội công nghiệp quá trình từ tri thức mới đến tạo ra sản phẩm mới còn dài,
và càng ngày quá trình đó càng được rút ngắn lại. Trong kinh tế tri thức, quá
trình này gọi là quá trính sáng tạo kinh tế, rút xuống rất ngắn. Sáng tạo kinh tế
bao gồm 5 nội dung: 1, Đưa ra một loại sản phẩm mới hoặc nêu ra chất lượng
mới cho một loại sản phẩm. 2, Áp dụng một phương pháp sản xuất mới; 3,
Mở ra một thị trường mới. 4, Tạo ra được một loại nguyên liệu hoặc một loại
bán thành phẩm mới. 5, Hình thành một tổ chức xí nghiệp mới.
Ngay ở xã hội công nghiệp, cái mới đã đóng vai trò quan trọng bởi nó
quyết định khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, ở xã hội công nghiệp, quá trình
tạo ra cái mới còn dài. Bước sang kinh tế tri thức, chu kỳ sản sinh ra cái mới
và xóa bỏ cái cũ rút xuống rất ngắn.

10


Trong kinh tế tri thức, có những nghịch lý: Thứ nhất, của cải mà con
người làm ra dựa chủ yếu vào cái chưa biết, những gì đã biết giá trị ít đi. Thứ
hai, môi trường để tìm ra cái chưa biết chính là thông tin, là sự phát triển
mạng. Mạng trở thành yếu tố quyết định trong kinh tế mạng hay kinh tế số.
Thứ ba, tiếp nhận cái chưa biết cũng chính là loại bỏ cái chưa biết.Thứ tư,
1.3.
1.3.1.

luôn luôn đổi mới, cái mới ra đời ngày càng nhiều.
Động lực cho sự phát triển kinh tế.
Cơ chế phát huy dân chủ, sáng tạo và nâng cao sức cạnh tranh.
Do những khuôn khổ thể chế nhằm thúc đẩy quá trình phát triển công

nghệ có tầm quan trọng cao hơn cả tiềm năng của bản thân công nghệ, nên
cần phải tạo ra được những thể chế thúc đẩy sự sáng tạo nhằm phục vụ hiệu
quả phát triển kinh tế xã hội . Tuy nhiên, điều kiện xã hội thay đổi hàng ngày,
vì vậy các khuôn khổ thể chế, tạo ra bầu không khí dân chủ, cũng cần được
xây dựng một cách linh hoạt, thích ứng.
Một sự khác biệt nổi bật giữa tri thức và các nguồn vốn khác là nó chịu
sự không chế hoàn toàn của người có nó, người khác không thể làm nó
chuyển dời hoặc xuất ra ngoài một cách tùy tiện. Do vậy, phải có chế độ sở
hữu tài sản tri thức phù hợp, đảm bảo nguyên tắc lợi ích cùng hưởng, rủi ro
cùng chịu để gắn bó chặt chẽ các nhân tài vào sự phát triển của tổ chức. Đây
là yếu tố kích thích sáng tạo, động lực quan trọng trong kinh tế tri thức.
Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất, kinh doanh
giữa các thành phần kinh tế là hết sức quan trọng, là động lực thúc đẩy kinh tế
phát triển mạnh mẽ. Cạnh tranh là sức mạnh của thị trường. Mặt khác, cạnh
tranh là nhân tố nuôi dưỡng sự đổi mới, sáng tạo. Sự tăng cường cạnh tranh
trên các thị trường đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ
nhanh hơn nữa dựa trên cơ sở những thành quả sáng tạo khoa học và công

1.3.2.

nghệ.
Nâng cao nhận thức về tri thức.
Yếu tố cốt lõi của kinh tế tri thức là tri thức và tri thức chỉ có được từ
con người, cho nên cần quan tâm đến con người, chính sách phát triển con

11


người, chú trọng phát triển tài năng của con người thông qua sự đổi mới hệ
thống giáo dục.

Bản chất của kinh tế tri thức là đầu tư vốn vô hình là chính, cần đẩy
mạnh giáo dục. Nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò động lực của tri thức
và sức lao động có tri thức nhằm tăng hiệu quả hoạt động phát triển kinh tế xã
hội.
Như vậy, vấn đề chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào
tạo nhân tài, hướng tới một xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người học
tập suốt đời để tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công
1.3.3.

nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý là những lĩnh vực ưu tiên chiến lược.
Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia.
Nếu coi giáo dục là cái nền của kinh tế tri thức, thì khoa học công nghệ
làm mũi chủ công của kinh tế tri thức. Vì vậy, đầu tư vào nghiên cứu và triển
khai được coi như một tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ kinh tế tri
thức. Hoa Kỳ đang dẫn đầu chỉ tiêu này với 2,8% GDP.
Đối với các nước đang phát triển, việc khai thác trực tiếp thành quả
nghiên cứu khoa học trong các doanh nghiệp không ngừng được tăng cường,
là một trong những nguồn lực cơ bản để cải tạo các cơ sở sản xuất hiện có, tạo
ra các lĩnh vực sản xuất mới, nâng cao trình độ công nghệ của quốc gia, tạo
năng lực đi thẳng vào các công nghệ hiện đại, có điều kiện thích nghi nhanh

1.3.4.

công nghệ nhập, tiến tới tạo ra công nghệ của riêng mình.
Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin.
Được coi là thành tựu to lớn nhất của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ gần đây, công nghệ thông tin có tác động to lớn và sâu sắc đến mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, nó thu nhỏ thế giới, xóa nhòa
khoảng cách về thời gian và không gian, gây ra những thay đổi sâu sắc về
phong cách hoạt động của mọi đối tượng từ từng cá thể đến từng khối liên

minh, là động lực quan trọng phát triển kinh tế tri thức.
Trong khi những nhu cầu cơ bản của nhân loại chưa được giải quyết triệt
để, sự bất bình đẳng và nghèo đói ngày càng tăng lên thì công nghệ thông tin
có thể góp phần tích cực vào sự phát triển bền vững, đáp ứng ngày càng đầy

12


đủ hơn các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, tất nhiên trong sự phù
hợp điều kiện cụ thể của từng quốc gia về mặt tự nhiên và tính nhân văn.
Công nghệ thông tin phát triển là công cụ cơ sở , tiền đề để từ đó sáng tạo ra
các công nghệ cao khác và mới hơn. Đây là những công nghệ thúc đẩy nâng
cao năng suất lao động có khả năng tiết kiệm tài nguyên, thăm dò phát hiện
tài nguyên mới. Trong điều kiện xu thế toàn cầu hóa, đối với các nước đang
phát triển, công nghệ thông tin là loại công nghệ được ưa chuộng du nhập
vào.
Nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ thông tin, Chỉ thị 58CT/TW của Bộ chính trị ngày 17/10/2010 nhấn mạnh: “Ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin sẽ góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và
tinh thần của toàn dân tộc, tạo động lực và sức bật mạnh mẽ cho công cuộc
đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành kinh tế, tăng cường năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ hữu hiệu cho quá trình chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm
bảo an ninh, quốc phòng, tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự
1.3.5.

nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Phát triển cơ sở hạ tầng thông tin.
Kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia là một hệ thống thống nhất các mạng
truyền thông chất lượng cao, giải băng rộng, các máy tính, các cơ sở dữ liệu
và các phương tiện điện tử dân dụng, sẵn sàng để mọi người truy cập tới

những lượng thông tin to lớn dưới mọi hình thức vào bất cứ nơi nào, bất cứ
nơi đầu.
Kết cấu hạ tầng thông tin toàn cầu đóng vai trọng nối hàng trăm triệu
máy tính của người dùng; là một hệ thống, bao gồm các mạng kết nối với
nhau, có tính chất tự tổ chức, có khả năng tương tác và thích ứng nhanh, có
thể truy cập đến hàng triệu nguồn cung cấp thông tin trên khắp thế giới. Mạng
là cơ sở, là nhịp cầu để thực hiện sự giao tiếp tốc độ cao giữa các thành viên
của cộng đồng, làm cho vai trò của địa chính trị ngày càng suy yếu, phá vỡ
những giới hạn về thời gian, không gian cũng như khác biệt về ngôn ngữ.

13


2.
2.1.

KINH TẾ TRI THỨC VÀ CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN
ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM.
Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
Nguồn nhân lực từ nông dân:
Tính đến 2011, số dân của cả nước là 84,156 triệu người1, trong đó,
nông dân chiếm khoảng hơn 61 triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân
số của cả nước.Số liệu trên đây phản ánh một thực tế là nông dân nước ta
chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội.
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao
động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi
năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công
nghiệp. Nguồn nhân lực trong nông thôn không được khai thác, đào tạo, nên
một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp,
công trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm

trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư
thừa rất nhiều.
Nguồn nhân lực từ công nhân:
Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có khoảng dưới 5
triệu người, chiếm 6% dân số của cả nước, trong đó, công nhân trong các
doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ thấp, khoảng gần 2 triệu người, bằng
khoảng 40% so với lực lượng công nhân nói chung của cả nước .
Lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước có khoảng 2,70 triệu,
chiếm gần 60%. Xu hướng chung là lực lượng công nhân trong các doanh
nghiệp nhà nước ngày càng ít đi, trong khi đó, lực lượng công nhân của khu
vực ngoài nhà nước ngày càng tăng lên. Công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ
lệ rất thấp so với đội ngũ công nhân nói chung.
Trình độ học vấn, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn thấp: Số công
nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người,
chiếm khoảng 3,3% so với đội ngũ công nhân nói chung ở Việt Nam. Số công

14


nhân xuất khẩu lao động tiếp tục tăng, tuy gần đây có chững lại. Trong các
ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nghiệp nặng còn
rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước. Công nhân trong
các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng
40%. Sự già đi và ít đi của đội ngũ công nhân Việt Nam đã thấy xuất hiện .Về
mặt chính trị, thực chất, công nhân Việt Nam chưa có địa vị bằng trí thức,
công chức, viên chức.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự quan tâm chưa đầy đủ và
chưa có chính sách có hiệu quả trong việc xây dựng giai cấp công nhân.
Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức
Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì

đội ngũ trí thức Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh
viên đại học và cao đẳng phát triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn
người; năm 2002: 1.020,7 nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm
2004: 1.319,8 nghìn người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn người; năm 2006:
1,666, 2 nghìn người…Tính đến cuối năm 2008, chúng ta đã đào tạo được
trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên .Cả nước đến nay
có 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16
nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công
nghệ;

và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật, trong đó, có khoảng 34

nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực KH&CN thuộc khu vực
nhà nước,gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên
dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ thông, gần 9.000 tiến sĩ được điều
tra, thì có khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chuyên môn.
Đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người
trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ
đang giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới.
Số trường đại học tăng nhanh: Việt Nam hiện có 369 trường đại học, cao
đẳng, (trong đó 160 trường ĐH và 209 trường CĐ) quy mô 1.603.484 sinh
15


viên, đạt 188 sinh viên/1 vạn dân. Số lượng trường ngoài công lập tăng lên
với 64 trường chiếm tỉ lệ 16,5%, tỷ lệ sinh viên ngoài công lập chiếm 11,8%
tổng số sinh viên ĐH, CĐ của cả nước. Tổng số giảng viên ĐH,CĐ năm 2008
là 56.120 người, tăng 11,7% so với năm trước; nhưng tỷ lệ giảng viên có trình
độ tiến sĩ giảm từ 11% xuống 10,5%; trình độ thạc sĩ 36,1% tăng so với năm
học trước (33,57%). Tỷ lệ bình quân 28,5 sinh viên /1 giảng viên. 285 trường

trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74
trường và khối trung học phổ thông chuyên với tổng số 47,5 nghìn học sinh
tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7 trường đại học chuyên .
Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia
trung học phổ thông năm học 2007-2008. Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào
tạo Việt Nam đã trình lên Thủ tướng Chính phủ Việt Nam dự án đào tạo 20
nghìn tiến sĩ trong giai đoạn 2007-2020 ở cả trong nước và ngoài nước.
Năm 2008, Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và
đào tạo là 76.200 tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng
14,1% so với thực hiện năm 2007.
Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công
chức, viên chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất
nước cũng tăng nhanh: Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất
bản là gần 5 nghìn người làm việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung
ương 42, địa phương 12). Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng
viên chuyên nghiệp và hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc
trong các cơ quan báo chí và hàng chục nghìn người khác là cộng tác viên,
nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng cáo, phát
hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện tử, đài
phát thanh, truyền hình. Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề
khác của các cơ quan trung ương và địa phương cũng tăng nhanh. Tổng nhân
lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có 52,893 người. Việt
Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con số này có thể
nói tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà.
16


Những hạn chế của nguồn nhân lực Việt Nam
Chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức còn quá
yếu. Có người tính rằng, hiện vẫn còn khoảng 80% số công chức, viên chức

làm việc trong các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một
công chức, viên chức như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học,
ảnh hưởng nhiều đến chất lượng công việc.
Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm, không
ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất 1-2 năm đào tạo lại. Trong số 37%
sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc .Bằng cấp đào
tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận .
Năm 2007, số sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411. Theo ước tính,
mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước đầu tư
khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có
việc làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh
viên x 63% x 70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ
đồng của dân và 3.050 tỷ đồng của nhà nước).
Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong đó
có công chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập. Sự bất
cập này đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế.Trong những năm đổi
mới, kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến 8%, nhưng so với kinh tế thế giới
thì còn kém xa .Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và tập đoàn tài
chính quốc tế (IFC), công bố ngày 26-9-2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ
91/178 nước được khảo sát.
Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam như
sau:
- Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan
tâm đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, còn đào tạo thì
nửa vời, nhiều người chưa được đào tạo

17


- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn

giữa lượng và chất.
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công
nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực
hiện mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.2.
2.2.1.

Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam đi vào nền kinh tế tri thức.
Cơ hội.
Những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế- xã hội trong thập kỷ qua
đang tạo ra thế và lực mới để chúng ta bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Với chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, quan hệ của nước ta
với các nước trên thế giới mở rộng hơn bao giờ hết.
Môi trường hòa bình sự hợp liên kết quốc tế và những xu thế tích cực
trên thế giới tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so
sánh, tranh thủ ngoại lực- nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý,
mở rộng thị trường để phục vụ sự nghiêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và toàn
cầu hóa hiện nay, các nước phát triển đi trước đều có nhu cầu đổi mới cơ cấu
kinh tế, mở rộng thị trường, chuyển vốn đầu tư và xuất khẩu công nghệ sang
các nước đang phát triển. Do vậy, các nước đang phát triển có nhiều khả năng
nắm bắt các tri thức mới, các công nghệ mới, kể cả tranh thủ các nguồn vốn,
nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, vươn ra thị trường thế giới.
Bên cạnh nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú, Việt Nam có
những lợi thế về nguồn nhân lực, nếu tạo lập được một môi trường thuận lợi
cho đầu tư, thì không sợ thiếu vốn, thiếu công nghệ.
Là một nước đi sau, Việt Nam có thể rút ra được những bài học từ những
nước đi trước, đặc biệt là của những nước và lãnh thổ công nghiệp châu Á:
Những bài học thành công lẫn những bài học thất bại trên nhiều lĩnh vực, từ
quản lý kinh tế vĩ mô, đến bảo vệ môi trườn- sinh thái, giữ gìn bản sắc.


18


Từ một xuất phát điểm thấp, nếu có chính sách và biện pháp đúng đắn,
Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ trung gian để đi ngay vào các công nghệ
tiên tiến, công nghệ cao, nhằm tăng tốc độ phát triển của nền kinh tế, sớm bắt
kịp thế chung của kinh tế thế giới. Như vậy, Việt Nam có thể chuyển đổi một
cách cơ bản cơ cấu kinh tế còn nặng về nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp
hiện đại, dịch vụ tiên tiến, rút ngắn giai đoạn phát triển công nghiệp truyền ,
từng bước phát triển kinh tế tri thức.
2.2.2.

Thách thức.
Nước ta cũng đang đứng trước những thách thức rất gay gắt cần phải
khắc phục trong quá trình phát triển.
Đó là nhữg thách thức nảy sinh từ thực trạng nền kinh tế còn non yếu
của chúng ta đứng trước bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trong quá trình
toàn cầu hóa mạnh mẽ đang làm gia tăng nhanh khoảng cách phát triển và
khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia, làm cho mâu thuẫn xã hội ngày
càng sâu sắc và gay gẳt.
Bốn nguy cơ Đảng ta từng chỉ rõ: Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham
nhũng và tệ nạn quan liêu, “diễn biến hòa bình” do các thế lực thù địch gây
ra- đến nay vẫn tồn tại và diễn biến đan xen phức tạp.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn
là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của Việt Nam quá thấp, lại
phải phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Muốn xác lập được vị
trí của mình, chúng ta cần phải nâng cao năng lực của mình thông qua phát
triển mạnh giáo dục- đào tạo theo tiêu chuẩn cao của thế giới, nâng cao năng

lực khoa học và công nghệ để đổi mới các doanh nghiệp; khuyến khích mọi
thành viên của xã hội học hỏi, sáng tạo không ngừng, phổ biến rộng rãi công
nghệ mới, tri thức mới…Nhưng đây còn là những mặt yếu, một thách thức
của chúng ta, đòi hỏi phải có chuyển biến thật mạnh mẽ, giải quyết thật cơ
bản động cơ lợi ích mới phát huy được mọi thành phần kinh tế.
19


Sự khác biệt về trình độ công nghệ của Việt Nam so với các nước phát
triển rất lơn; trừ một số ít lĩnh vực có áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại,
nhìn chung, công nghệ nước ta tụt hậu so với trình độ chung của thế giới
khoảng ba, bốn thập kỷ. Việc một số nước phát triển sớm tiến sang xây dựng
kinh tế tri thức đã đặt Việt Nam trước nhiều bất lợi: ưu thế giàu tài nguyên và
sức lao động bị giảm rõ rệt, do đó làm giảm thu nhập quốc dân.
Ngoài ra, nhiều nước phát triển đẩy dần các công nghiệp tốn nhiều năng
lực, nguyên liệu gây ô nhiễm hoặc cần nhiều lao động sang các nước đang
phát triển dưới hình thức đầu tư , khiến cho nước nhận đầu tư phải chịu nạn ô
nhiễm, vì khi khủng hoảng sản xuất thừa, thì phải hứng chịu nhiều rối loạn
kinh tế, tài chính.
Điều đáng lo khác là nạn chảy máu chất xám làm cho các nước đã nghèo
lại càng nghèo hơn, vì nghèo tri thức là nguồn gốc của mọi thứ nghèo.
Do vậy, những thách thức gặp phải khi bước vào kinh tế tri thức đối với
các nước đang phát triển lớn hơn nhiều so với các nước đang phát triển .
Ngày nay, những nước lạc hậu về kinh tế đứng trước hai khả năng: hoặc
biết tranh thủ thời cơ có đường lối và chiến lược phát triển đúng, thông minh,
sáng tạo thì hoàn toàn có thể vươn lên, sớm khắc phục tình trạng kém phát
triển , sớm tiến kịp các nước đi trước; hoặc không đủ bản lĩnh chớp lấy thời
cơ khiến đất nước không thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu ngày càng xa hơn.
Đối với nước ta, sự xuất hiện của kinh tế tri thức là cơ hội chưa từng có
để chúng ta đi tắt đón đầu, từng bước đuổi kịp các nước trên thế giới. Nhờ

toàn cầu hóa kinh tế và cả thế giới nối liền nhau bằng mạng lưới Internet, các
nước chậm tiến có thể nắm bắt và tận dụng nhiều thành quả khoa học công
nghệ và kinh nghiệm của thế giới mà không phải làm tất cả từ đầu.Nhân tố
quan trọng nhất trong kinh tế tri thức không còn là tài nguyên thiên nhiên
hoặc là tiền vốn, mà là con người có tri thức.
Nước ta không thể chần chờ, bỏ lỡ cơ hội lớn, mà phải từng bước phát
triển kinh tế tri thức để rút ngắn khoảng cách với các nước, cho nên công
20


nghiệp hóa nước ta phải đồng thời thực hiện 2 nhiệm vụ lớn: chuyển biến từ
kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh nghiệp sang kinh tế
tri thức. Hai nhiệm vụ ấy phải thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ trợ
nhau, bổ sung cho nhau, điều đó có nghĩa là phải nắm bắt các tri thức công
nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; đồng thời
phát triển nhanh các ngành dịch vụ và công nghiệp khác dựa vào tri thức ,
khoa học công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các
ngành kinh tế tri thức.
2.3.
2.3.1.

Kinh tế tri thức và côngcuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải kết hợp với quá trình phát triển kinh tế
tri thức.
Đảng ta xác định phát triển đất nước phải bằng sức mạnh tổng hợp, kết
hợp nội lực dân tộc với sức mạnh thời đại.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa, cái thiếu nhất là cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Do đó Đảng
ta xác định nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ là phát triển lực
lượng sản xuất, là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.Tất cả vì con người.Vì thế
phát triển kinh tế không những phải nhanh, có những đột phá, mà còn phải
bền vững, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ xã hội, công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường sinh thái. Có kết hợp được hài hòa tăng trưởng kinh tế
với thực hiện công bằng xã hội, lấy tăng trưởng kinh tế làm cơ sở, thì mới bảo
đảm tăng trưởng kinh tế ổn định bền vững.Tăng trưởng kinh tế phải nhất thiết
phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất thiết phải đi đôi với giữ vững độc
lập tự chủ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.. Không thể xem tăng trưởng là tất
cả, quan trọng hàng đầu là sự đảm bảo định hướng xã hội và chính trị.
Trong bối cảnh thế giới đang chuyển mạnh sang kinh tế tri thức, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đi tắt đón đầu tức là phải nắm bắt và vận dụng tri
thức khoa học và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm cách thức hoạt động của
kinh tế tri thức, bỏ qua nhiều bước phát triển công nghiệp trước đây mà các

21


nước đi trước đã phải trải qua vì lúc bấy giờ trình độ khoa học và công nghệ
còn hạn chế. Đi tắt cũng có nghĩa là phải kết hợp hai quá trình: chuyển từ
kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp lên
kinh tế tri thức . Ở các nước đi trước, đó là hai quá trình nối tiếp với nhau; ở
Việt Nam hai quá trình đó lồng ghép vào nhau; hỗ trợ cho nhau, nói cách
khác, công nghiệp hóa nước ta là công nghiệp hóa dựa vào tri thức, khi hoàn
thành công nghiệp hóa thì cũng là lúc đang phát triển kinh tế tri thức. Mô hình
công nghiệp hóa đi tắt này chưa hề có tiền lệ, phải có nguồn nhân lực đủ bản
lĩnh , có tri thức, có nhiều khả năng sáng tạo mới có thể thực hiện được.
Công nghiệp hóa nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa , vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn mình. Như vậy, công
nghiệp hóa phải nhằm mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người chứ
không phải tất cả chỉ vì sự tăng trưởng kinh tế. Quá trình công nghiệp hóa

phải là quá trình phát triển một cách hài hòa kinh tế với văn hóa, xã hội, lấy
con người làm trung tâm, tất cả vì con người, do con người.
Công nghiệp hóa phải thân thiện với môi trường, tiến hành công nghiệp
hóa phải quan tâm tiêu chí bảo vệ môi trường. Công nghiệp hóa nước ta phải
là công nghiệp hóa sinh thái, phải sử dụng các công nghệ sạch , ít gây ảnh
2.3.2.

hưởng đến môi trường, sử dụng ít nguyên liệu, ít năng lượng.
Từng bước phát triển kinh tế tri thức, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Kinh nghiệm tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa của các nước phát
triển cũng như các nước và lãnh thổ công nghiệp mới cho thấy bốn điều kiện
tối thiểu đối với một quốc gia để có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tiến kịp các nước phát triển là: giữ vững ổn định chính trị, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế thị trường, phát huy
mọi thành phần kinh tế, giải phóng mọi lực lượng sản xuất ; khoa học và công
nghệ quốc gia; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu
có chọn lọc những giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại.

22


Tập trung sức để phát triển nguồn nhân lực, tạo ra một lực lượng lao
động có trình độ, kỹ năng, kỹ thuật cao đáp ứng đòi hỏi của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa chú trọng chăm lo việc bồi dưỡng, đào tạo lại
cho đông đảo đội ngũ lao động đang làm việc, vừa ra sức phát triển giáo dục
đào tạo, nâng cao dân trí, tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán
bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm
thúc đẩy phát triển nhanh lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở vật chất kỹ

thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Việc phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại phải đi đôi với việc xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. Từng bước phát triển
kinh tế tri thức không những giúp cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
được rút ngắn, mà còn góp phần cải thiện quan hệ sản xuất theo hướng phù
hợp với quá trình phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Công nghiệp hóa nền kinh tế là vừa tăng tỷ trọng riêng của ngành công
nghiệp,vừa trang bị máy móc cho nông nghiệp, giảm nhẹ và thay thế lao động
cơ bắp của con người. Hiện đại hóa cũng không có nghĩa là thu hẹp hay loại
bỏ hẳn nông nghiệp và công nghiệp và chỉ phát triển dịch vụ. Trái lại, nội
dung chủ yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tăng cường ứng dụng các
thành tựu khoa học và công nghệ, các tri thức mới để nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả của các ngành sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế, phát triển các ngành nghề mới.
Cũng với ý nghĩa tương tự như vậy, “tri thức hóa” và “tin học hóa”
không đem tri thức, thông tin thay cho tư liệu sản xuất vật chất, mà chỉ tăng
hàm lượng của chúng vào trong lao động nông nghiệp , công nghiệp và dịch
vụ để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất, giảm nhẹ và tiến tới
thay thế lao động thể lực và cả phần lao động trí óc; từ đó đẩy nhanh toàn bộ
tiến trình công nghiệp hóa. Kinh tế tri thức có thể xem là nội dung mới, đặc
thù của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại; nó làm nhân lên gấp
bội sức mạnh trí óc của con người cũng như cuộc cách mạng công nghiệp đã
23


nhân lên gấp bội súc mạnh cơ bắp của con người. Như vậy, thông tin, tri thức
chỉ là phương tiện, chứ không phải mục đích tự thân cuối cùng của nền sản
2.3.3.

xuât vật chất xã hội.

Những yếu tố đảm bảo cho sự thành công của công nghiệp hóa rút ngắn
dựa vào tri thức.
Tăng cường năng lực nội sinh, chủ động hội nhập quốc tế. Phải có đủ
năng lực nội sinh mới sử dụng có hiệu quả các yếu tố bên ngoài, biến các yếu
tố bên ngoài thành năng lực của chính mình.
Xu thế tham gia hôi nhập là tất yếu. Muốn hội nhập có hiệu quả, tự mình
phải có sức mạnh- năng lực nội sinh mạnh. Để có điều này, trước hết phải có
con người được giáo dục và đào tạo tốt. Giáo dục, đào tạo, khoa học, công
nghệ có vai trò hàng đầu. Đảng và Nhà nước ta coi phát triển giáo dục và
khoa học là quốc sách hàng đầu. Phải có con người có tri thức, nắm bắt được
những tri thức khoa học mới nhất, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta.
Yếu tố quyết định nhất đối với năng lực nội sinh của một dân tộc là văn
hóa, giáo dục, khoa học cũng tức là sức mạnh tinh thần và trí tuệ của dân tộc.
Hội nhập quốc tế tạo điều kiện thuận lợi để tiếp thu các tinh hoa văn hóa của
các nước nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Biết cách lựa chọn tiếp thu tinh hoa văn hóa của nước ngoài, ngăn
chặn không cho những sản phẩm văn hóa có hại.
Trên nền tảng chủ nghĩa Mac Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh,tiếp tục
đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo tinh thân đại hội IX đề ra. Đặc biệt là phải
đổi mới tư duy kinh tế theo kịp sự phát triển của thời đại. Không thể tiếp tục
đi theo kiểu kinh tế hiện vật, sản xuất với bất cứ giá nào để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong nước mà là kinh tế phải lấy hiệu quả làm đầu, sản xuất những
gì có hiệu quả cao nhất do có lợi thế so sánh để đổi lấy những gì minh cần.
Phải kết hợp chặt chẽ các yếu tố tài nguyên, con người và các tri thức và công
nghệ hiện đại để chọn những ngành, những sản phẩm có nhiều lợi thế đem lại
hiệu quả cao nhất.. Thời đại ngày nay công nghệ không ngừng đổi mới, vòng
đời công nghệ rất ngắn, cho nên nói chung không thể đầu tư vào những lĩnh

24



vực đòi hỏi vốn lớn, thời gian kéo dài, mà phải chọn quy mô nhỏ, hoàn vốn
nhanh, linh hoạt dễ chuyển đổi.
Khái quát lại, để thực sự có động lực phát triển, rút ngắn dần khoảng
cách phát triển trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, về mặt kinh tế phải thực sự
-

đổi mới mạnh mẽ trên những lĩnh vực sau:
Từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung phải thực sự chuyển sang kinh tế thị trường.
Từ kinh tế hiện vật, lấy số lượng làm chính chuyển sang kinh tế giá trị, lấy

-

cạnh tranh để thúc đẩy phát triển, lấy hiệu quả làm đầu.
Công nghiệp hóa không chỉ là xây dựng và phát triển công nghiệp mà công
nghiệp hóa là sử dụng tri thức, khoa học và công nghệ mới nhất để hiện đại
hóa nền kinh tế , chuyển nền kinh tế từ tình trạng năng suất, chất lượng, hiệu

-

quả thấp sang nền kinh tế năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
Từ sản xuất để thỏa mãn nhu cầu chuyển sang sản xuất những gì có hiệu quả

-

cao nhất.
Từ kinh tế khép kín chuyển sang hội nhập kinh tế thế giới, phát huy lợi thế so

-


sánh.
Từ thiên về đầu tư quy mô lớn, xây dựng lâu chuyển sang quy mô nhỏ, xây

-

dựng nhanh, dễ chuyển đổi.
Từ chính sách đầu tư nặng về kinh tế chuyển sang tăng mạnh đầu tư cho con

-

người, cho văn hóa, xã hội.
Từ kinh tế chỉ huy tập trung chuyển sang phát hut mạnh mẽ quyền chủ động,
sáng tạo của các doanh nghiệp, để các doanh nghiệp tự do kinh doanh theo

2.4.

luật định.
Coi tri thức là một nguồn vốn của sản xuất, mà là nguồn vốn quan trọng nhất,
có chính sách đãi ngộ theo giá trị của tri thức.
Phát triển kinh tế tri thức trong quá trình công nghiêọ hóa, hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa nước ta vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt,
hay nói cách khác nền kinh tế nước ta phát triển theo hai tốc độ: một mặt,
phải đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn,
nâng cao năng lực sản xuất những nghành công nghiệp cơ bản, giải quyết
những nhu cầu cơ bản và bức xúc của người dân, xóa đói, giảm nghèo, giải
quyết việc làm…, mặt khác, phải phát triển mạnh mẽ những ngành kinh tế
dựa vào tri thức và công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin để hiện đại hóa
25



×