Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tách câu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.46 KB, 100 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
M U
1. Lớ do chn ti
1.1. C s lớ lun
Nhà nghiờn cứu Xụ Vit Bakhtin khẳng ịnh, ngụn ng chẳng
nhng là phng tin miờu t, m cũn l i tng miờu t ca vn hc.
Gorki cng núi: Yu t u tiờn ca vn hc l ngụn ng, cụng c ch
yu ca nú v cựng vi cỏc s kin, cỏc hin tng ca cuc sng l cht
liu ca vn hc. Tht vy các ngh s, bng ti nng v phong cỏch riờng
ca mỡnh ó s dng cht liu, phng tin l ngụn t sỏng to ra cỏc tỏc
phm vn chng .
Song cn phi bit, cỏi lm nờn s kỡ diu ca ngụn ng ú chớnh l cỏc
phng tin, bin phỏp tu t. Nu khụng cú cỏc phng tin, bin phỏp tu t
thỡ tỏc phm vn hc ch l phộp cng n gin, l s sp xp theo trt t
thụng thng ca cỏc yu t ngụn ng. Chớnh vỡ vy, vic tỡm hiu cỏc tỏc
phm vn hc khụng th khụng gn vi vic tỡm hiu cỏc bin phỏp tu t.
Bin phỏp tu t l nhng cỏch kt hp ngụn ng c bit trong hon
cnh c th, nhm mụt mc ớch tu t nht nh. Nú i lp vi bin phỏp s
dng ngụn ng thụng thng trong mi hon cnh nhm mc ớch din t lớ
trớ. Tỏch cõu l mt bin phỏp tu t c trng ca cỳ phỏp biu cm. Bin
phỏp tỏch cõu c cỏc tỏc gi s dng trong ngụn ng th, ngụn ng vn
xuụi, ngụn ng kch... trong cỏc phong cỏch chc nng khỏc nhau ca ngụn
ng (phong cỏch ngụn ng ngh thut, phong cỏch chớnh lun , phong cỏch
sinh hot hng ngy). c bit, trong vn xuụi Vit Nam hin i, bin
phỏp tỏch cõu c s dng nh mt cụng c ph bin th hin cm xỳc,
thỏi , tỡnh cm v ý ca nh vn. So vi vn xuụi trc cỏch mng, vn
xuụi thi kỡ hin i cú s chuyn hng mnh m khụng ch v ti, ch

1

Đỗ Thị



K31C Ngữ


Khãa luËn tèt nghiÖp

đề, nội dung phản ánh mà còn có sự chuyển hướng của các phương thức thể
hiện. Giờ đây, tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm văn học không chỉ là trọn

1

§ç ThÞ

K31C – Ng÷


vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức mà còn đòi hỏi phải đặc sắc, độc
đáo, phù hợp với thị hiếu của người đọc, của thời đại. Từ yêu cầu đó, các biện
pháp nghệ thuật được sử dụng trong văn chương ngày càng phong phú, đa
dạng. Và biện pháp tu từ tách câu được các nghệ sĩ sử dụng linh hoạt, sáng
tạo ở nhiều cấp độ, đạt hiệu quả cao, tác động mạnh mẽ vào lí trí và tình cảm
của người tiếp nhận.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Biện pháp tu từ tách câu được sử dụng khá phổ biến và đạt hiệu quả
nghệ thuật cao trong văn xuôi hiện đại. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của
mình để làm sâu sắc hơn kết quả nghiên cứu về biện pháp tu từ tách câu trong
văn xuôi hiện đại, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Hiệu quả nghệ thuật của biện
pháp tách câu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại”.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đi sâu nghiên cứu về quy luật sử dụng
tách câu và hiệu quả tu từ của biện pháp tách câu trong văn xuôi hiện đại. Qua

đó, chúng tôi có điều kiện củng cố và nắm vững những kiến thức cơ bản về
tách câu và vận dụng những kiến thức đó để tạo lập hoặc lĩnh hội văn bản
nghệ thuật.
Phép tách câu trong văn xuôi hiện đại là một hiện tượng mới mẻ và độc
đáo. Đây là một đề tài gắn với hướng nghiên cứu biện pháp tổ chức câu trong
văn bản và tổ chức văn bản. Kết quả và phương pháp nghiên cứu sẽ giúp
chúng tôi củng cố hệ thống kiến thức về ngữ pháp học và phong cách học, bồi
dưỡng phương pháp để cảm nhận cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương
từ góc nhìn của phong cách học. Đặc biệt là một sinh viên Ngữ văn, trong
tương lai sẽ là giáo viên trực tiếp giảng dạy chương trình về ngữ pháp câu và
phong cách học cho học sinh Trung học phổ thông thì việc thực hiện khóa
luận là rất cần thiết.
Thông qua hoạt động khảo sát, thống kê trong quá trình thực hiện đề tài,
chúng tôi sẽ có điều kiện làm giàu hơn vốn ngữ liệu về các biến thể ngữ pháp
3

§ç ThÞ

K31C – Ng÷


được tạo ra từ phép tu từ tách câu. Đặc biệt, chúng tôi sẽ có được phương
pháp phân biệt những câu riêng được tách với một số kiểu câu có hình thức
giống chúng (câu đặc biệt, câu tỉnh lược…), thấy được tách câu là biện pháp
tu từ đặc sắc được sử dụng nhiều trong văn xuôi hiện đại. So với văn xuôi
truyền thống thì tách câu trong văn xuôi hiện đại được sử dụng phong phú, ở
nhiều cấp độ hơn, mang lại những hiệu quả tu từ độc đáo và mới mẻ hơn.
Như vậy, việc lựa chọn đề tài khóa luận xuất phát từ nhận thức được ý
nghĩa và sự cần thiết của nó đối với việc học tập của bản thân trong hiện tại
và việc giảng dạy tiếng Việt trong tương lai.

2. Lịch sử vấn đề
Biện pháp tu từ tách câu được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đề cập đến
trong một số cuốn sách với nhiều góc độ khác nhau.
2.1. Nghiên cứu tách câu ở góc độ ngữ pháp
2.1.1.

Tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt”- tập2

Nxb GD 2007 có bàn về hiện tượng câu dưới bậc. Tác giả nêu định nghĩa
“Câu dưới bậc là biến thể của câu, có ngữ điệu kết thúc, tự lập, nhưng không
tự lập về cấu tạo ngữ pháp và về ngữ nghĩa”. Tác giả viết: “Tất cả những câu
dùng trong đời sống của con người cũng như của một cộng đồng ngôn ngữ,
đều là những câu - lời nói, câu biến thể; đều là những biến thể hiện thực của
câu - ngôn ngữ, câu - mô hình”. Xét trong phạm vi câu đơn, ngoài những câu
- lời nói phù hợp với những kiểu câu rời, đã được xem xét (câu đơn hai thành
phần và câu đơn đặc biệt), chúng ta còn gặp những cấu tạo ngôn ngữ được
dùng với tư cách là những “câu” nhưng không phù hợp hoàn toàn với định
nghĩa về câu như đã nêu, và có tổ chức khác thường. (Ở đây không đề cập đến
những chuỗi từ bất thường về mặt nghĩa!). Các sách ngữ pháp trước đây
thường gọi những “câu” như vậy là câu đơn có thành phần tỉnh lược. Trong
nhà trường chúng thường bị coi là “câu què”, “câu cụt”.
Ví dụ:


“Của đáng mười Nhu chỉ bán được năm. Có khi chẳng lấy được đồng
tiền nào là khác nữa”.
(Nam Cao)
Tác giả nhận xét: “Đứng bên trong “câu” mà nhìn thì có thể gọi là
những câu có thành phần tỉnh lược, thậm chí là những câu “què quặt”. Như có
thể thấy, những câu kiểu này không có đời sống tự lập, chúng chỉ xuất hiện

được nhờ bám vào những câu lân cận hữu quan. Vì vậy phải đứng trong tổ
chức lớn hơn câu mà nhìn nhận chúng. Ở góc nhìn này, rõ ràng phần lớn
chúng là những bộ phận bổ sung cho câu hữu quan. Bởi vậy, phục hồi bộ
phận đã được “tỉnh lược” nhìn chung, cũng tức là lặp thừa phần tương ứng
nằm ở câu lân cận hữu quan, nhất là đối với những câu “tỉnh lược” cả chủ ngữ
lẫn vị ngữ.
Những câu như câu được nói đến trong ví dụ trên là những biến thể của
câu nhưng không mang đầy đủ các đặc trưng cần yếu của câu. Mặt khác,
chúng cũng không thuộc về những đơn vị bậc thấp hơn câu, chúng là những
biến thể dưới bậc của câu, gọi tắt là “câu dưới bậc”. Câu dưới bậc có chứa vị
ngữ thì tự nó đã có tính vị ngữ, ta sẽ gọi nó là câu dưới bậc có tính vị ngữ tự
thân. Câu dưới bậc không chứa vị ngữ thì tính vị ngữ của nó có tính chất lâm
thời, tức là chỉ có được trong trường hợp sử dụng đó, ta sẽ gọi là câu có tính
vị ngữ lâm thời.
Câu dưới bậc có tính vị ngữ lâm thời chính là hiện tượng tách câu mà
chúng ta đang xét. Đó là những câu dưới bậc vốn tương đương với chủ ngữ,
hoặc chỉ tương đương với thành phần phụ của câu hay thành phần phụ của từ
trong câu lân cận hữu quan, nếu ta sát nhập vào câu lân cận đó. Căn cứ vào
khả năng này, chúng ta có ba kiểu nhỏ chủ yếu sau đây.
- Câu dưới bậc tương đương với chủ ngữ.
Ví dụ:
“Tiếng hát ngừng. Cả tiếng cười”.

(Nam Cao)


- Câu dưới bậc tương đương với thành phần phụ của câu.
Ví dụ:
“Ngay buổi chiều hôm đó. Mặt biển trở lại thanh bình”.
(Nguyễn Tuân)

- Câu dưới bậc tương đương với thành phần phụ của từ.
Ví dụ:
“Tôi nghĩ đến sức mạnh của thơ. Chức năng và vinh dự của thơ”.
(Phạm Hổ)
Như vậy, trong giáo trình này tác giả đã đưa ra được khái niệm và
những tiêu chí phân loại của câu dưới bậc (tách câu) nhưng chưa đầy đủ và
cũng mới chỉ ở giới hạn miêu tả, phân loại.
2.1.2.

Cũng trong cuốn sách này, tác giả Diệp Quang Ban đã phân tích

khả năng tách vế của câu ghép ra thành câu riêng (về cấu tạo, vẫn còn giữ lại
các dấu hiệu cho thấy nó vốn là một vế của câu ghép được tách ra), khả năng
sử dụng một câu riêng có cấu tạo (dấu hiệu hình thức) tương tự một vế của
câu ghép, nhưng không tìm thấy được một cách hiển nhiên vế kia (vế có quan
hệ trực tiếp với nó). Tác giả nêu khả năng tách vế của câu ghép đẳng lập và
câu ghép chuỗi, khả năng tách vế của câu ghép chính phụ và khả năng tách vế
của câu ghép qua lại.
Như vậy, tác giả đã nêu những dấu hiệu (về hình thức và nội dung) để
nhận diện tách câu, miêu tả và phân loại tách câu theo cấu tạo ngữ pháp
nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm vi câu ghép, mà chưa đề cập đến tách câu
trong câu đơn.
2.2. Nghiên cứu tách câu ở góc độ phong cách học
2.2.1.

Tác giả Nguyễn Minh Thuyết trong cuốn “Tiếng Việt thực hành”

ở phần “Rèn luyện kĩ năng đặt câu” đã nêu định nghĩa về tách câu như sau:
“Tách câu có nghĩa là tách một bộ phận của câu thành câu riêng”.



Tác giả có nêu một số trường hợp tách các bộ phận của câu thành câu riêng
như:
- Tách trạng ngữ.
Ví dụ:
“Tôi bày ra nhiều trò khác để thấy mình có ích. Như đọc sách. Tôi nghĩ
trong kháng chiến mình không có nhiều thì giờ, lại thiếu sách thì nay cố mà
đọc”.
(Nguyễn Văn Bổng)
- Tách vị ngữ
Ví dụ:
“Trăng lên. Cong vút và kiêu bạc ở góc trời”.
(Nguyễn Thị Thu Huệ)
- Tách bổ ngữ.
Ví dụ:
“Tôi nghĩ đến sức mạnh của thơ. Chức năng và vinh dự của thơ”.
(Phạm Hổ)
- Tách định ngữ.
Ví dụ:
“Mọi ngêi Nga h«m nay đều thÝch làm giàu. Tiền, ®ã là
mục đÝch. Duy nhất. Cao nhất. Đẹp nhất”.
(Vũ Thư Hiên)
- Tách vế của câu ghép.
Ví dụ:
“B¸c dư sức trở thành một nhà văn lớn của Ch©u Âu hay
một nhà thơ thiªn tài Ch©u Á. Nếu như kh«ng cã chóng ta.
Nếu như kh«ng cã những c¸i kh¸c lớn hơn B¸c”.
(Chế Lan Viên)



Tác giả còn nêu tác dụng của việc tách một bộ phận của câu thành câu
riêng biệt, đó là:
-

Làm nổi rõ thông tin ở nòng cốt câu

-

Làm nổi rõ thông tin trong bộ phận câu đîc tách riêng ra.

-

Tạo điều kiện để chuyển sang một chủ đề khác.

-

Thể hiện những ý nghĩa nhất định trong miêu tả sự vật, sự việc, tâm trạng.
Như vậy, tác giả Nguyễn Minh Thuyết đã nêu được định nghĩa tách
câu, phân loại tách câu và một số hiệu quả tu từ của biện pháp tách câu. Tuy
nhiên, cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu gợi mở, chứ chưa đi sâu
phân tích.

2.2.2.

Cuốn “Tiếng Việt 10” trong bài “Các biện pháp tu từ cú pháp”,

các tác giả đã coi việc “tách bộ phận của câu ra thành câu riêng” là một biện
pháp tu từ với những tác dụng: “Miêu tả chi tiết, bổ sung, giới thiệu, nêu hoàn
cảnh, không gian thời gian, nêu chủ đề… theo lối nhấn mạnh, cũng có khi có
tác dụng về hình thức”. Cuốn sách cũng đã đưa ra một số ví dụ minh họa cho

từng tác dụng của biện pháp này nhưng vẫn chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu
gợi mở.
2.2.3.

Trong cuốn “Phong cách tiếng Việt” - Nxb Gd 1998, Tác giả

Đinh Trọng Lạc đã định nghĩa: Tách câu là một biện pháp tu từ quan trọng.
Tác giả nêu nên hiệu quả và cách sử dụng biện pháp này như sau:
-

Nhấn mạnh vị ngữ bằng cách tách ra những câu độc lập làm cho người đọc
chú ý.

-

Diễn tả suy nghĩ dồn dập của nhân vật

-

Miêu tả những động tác rời rạc, những suy đoán cũng rời rạc theo nhịp điệu.
Cuốn sách cũng khẳng định “Phép tách câu là một biện pháp tu từ học
với dụng ý tu từ rõ rệt, hoÆc là miêu tả nhịp điệu, diễn biến của hình tượng


hoặc miêu tả nhịp điệu cảm xúc”.
Mặc dù cuốn sách đã nêu lên một số tác dụng của biện pháp tách câu,
khẳng định hiệu quả tách câu, nhưng mới chỉ là những gợi ý, những nhận định
cơ bản nhất và cũng chỉ dừng lại ở việc lấy ví dụ tách vị ngữ, chưa đưa ra một
bảng phân loại cụ thể các trường hợp tách câu.
2.2.4.


Cuốn “Tiếng Việt thực hành” cña tác giả Hoàng Kim Ngọc

- Nxb Văn hóa Thông tin 4/2007, trong phần nói về các cách biến đổi câu,
nêu định nghĩa: “Tách câu có nghĩa là tách một bộ phận của câu thành một
câu độc lập nhằm mục đích làm nổi rõ một thông tin nào đó”.
Tác giả có đưa ra các trường hợp phân lọai tách câu thành: Tách trạng
ngữ, tách vị ngữ, tách định ngữ, tách bổ ngữ và tách một vế của câu ghép. Khi
phân lo¹i tách câu như vậy tác giả đã đưa ra ví dụ minh họa cho từng loại.
Ở cuốn sách này, tác giả còn nêu rõ điều kiện để nhận biết biện pháp tu
từ tách câu đó là: “Câu bị tách bao giờ cũng phải nằm sau một câu trọn vẹn
nào đó”.
Vì thế trường hợp sau khó có thể coi là tách câu.
“Ngay buổi chiều h«m đã. Mặt biển trở lại thanh b×nh”.
Có thể nói, việc xem xét và phân tích biện pháp tách câu từ góc độ
phong cách học đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm và đề cập tới. Về cơ
bản các tác giả đã thống nhất ở định nghĩa, các cách phân loại và hiệu quả của
biện pháp tách câu. Tuy nhiên trong một số trường hợp cụ thể chưa có sự
thống nhất về cách nhận diện và miêu tả. Hơn nữa, nhìn chung các tác giả đều
dừng lại ở việc giới thiệu khái quát chứ chưa đi sâu phân tích. Trên cơ sở
những gợi ý trên, chúng tôi đi sâu tìm hiểu biện pháp tách câu và hiệu quả của
nó trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Tách câu là biện pháp tu từ quan trọng được nhiều tác giả quan tâm và
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Kế thừa những đóng góp của các tác


giả trước, thực hiện đề tài này người viết đã phải thực hiện một số nhiệm vụ
để đạt mục đÝch cuối cùng của việc nghiên cứu, đó là:
3.1. Mục đích nghiên cứu

- Nghiên cứu đề tài này, góp phần củng cố và khẳng định một vấn đề lí thuyết
của phong cách học, đó là miêu tả phân loại và hiệu quả nghệ thuật của biện
pháp tách câu.
- Giúp cho bản thân người viết có thể hiểu, nhận biết và vận dụng linh hoạt
biện pháp tách câu trong viết văn. Đồng thời bồi dưỡng cho bản thân năng
lực phân tích, cảm thụ văn học.
- Đề tài còn nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản phục vụ cho việc học tập
và giảng dạy môn Ngữ Văn sau này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Muốn đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Tập hợp những vấn đề lí thuyết liªn quan đến đề tài. Lựa chọn cho mình
một cách hiểu thống nhất và đầy đủ về phép tách câu.
- Khảo sát, thống kê, phân loại việc sử dụng tách câu trong một số tác phẩm
thuộc phạm vi nghiên cứu của khóa luận (các tác phẩm văn xuôi Việt Nam
hiện đại).
- Phân tích hiệu quả tu từ của phép tách câu trong một số trường hợp sử dụng
tiêu biểu, đặc sắc. Từ đó rút ra nhận xét về giá trị, tác dụng biểu đạt của biện
pháp tách câu.
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu : “Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tách câu trong văn
xuôi Việt Nam hiện đại”
4.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.2.1.

Giới hạn về nội dung

- Dựa vào khái niệm và các kiến thức lý thuyết về tách câu để nhận diện



các trường hợp tách câu trong các trường hợp cụ thể trong các tác phẩm (văn
bản) thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Xác định hiệu quả tu từ của phép tách câu trong các tác phẩm văn xuôi hiện
đại mà đề tài khảo sát.
4.2.2.

Giới hạn thống kê
Để thực hiện khóa luận, tác giả khóa luận đã tiến hành thống kê phép

tách câu trong một số văn bản sau:
- “Mùa lá rụng trong vườn”, Ma Văn Kháng, Nxb v¨n häc Hµ Néi 2001
- “Truyện ngắn hay 2005 - 2006”, Nxb Thanh niên, Hà Nội 2006.
- “37 truyện ngắn của Nguyễn Thị Huệ”, Nxb Văn học, Hà Nội 2004.
- “Giày đỏ”, Dương Bình Nguyên, Nxb Hội nhà văn, H 2007.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu sau.
5.1. Phương pháp thống kê
Phương pháp này dùng để xác định và tập hợp các trường hợp tách câu
trong văn bản thuộc đối tượng khảo sát.
5.2. Phương pháp phân loại
Đây là phương pháp dùng để phân chia ngữ liệu đã thống kê thành các
tiểu loại cụ thể dựa trên những tiêu chí đã được xác định.
5.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp này được dïng trong các trường hợp:
- Xem xét đặc điểm cấu trúc cú pháp của câu, của đoạn văn bản - những đơn vị
cú pháp được tạo ra từ phép tách câu.
- Xem xét chức năng biểu đạt nội dung thông báo, nội dung biểu
cảm….của những đơn vị cú pháp được tách biệt nhằm mục đích tu từ.
5.4. Phương pháp miêu tả

Phương pháp này được sử dụng khi cần tái hiện lại một ngữ liệu hoặc


khi cn mụ t cu trỳc cỳ phỏp ca ng liu ú.
5.5. Phng phỏp so sỏnh
Phng phỏp so sỏnh dựng i chiu hai hay nhiu cu trỳc cỳ phỏp
cú giỏ tr tng ng (cú th tng ng v cu trỳc cỳ phỏp hoc cu trỳc
v ngha) nhm lm c s xỏc nh hiu qu ca vic s dng cỏc bin th
cỳ phỏp c to ra t phộp tu t tỏch cõu.
5.6. Phng phỏp tng hp
S dng sau quỏ trỡnh phõn loi, phõn tớch xỏc nh hiu qu ca
phộp tỏch cõu hoc rỳt ra nhng nhn xột, nhng kt lun cn thit.
6.

Đóng góp của khoá luận

- Về lí thuyết: Khẳng định một vấn đề lí thuyết của
phong cách học là hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tách
câu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
- Về thực tiễn: Kết quả khảo sát thông kê góp phần làm phong
phú thêm vốn ngữ liệu để khẳng định biện pháp tách
câu là biện pháp tu từ có giá trị nghệ thuật cao.
7.Bố cục của khoá luận
Khoá luận đợc trình bày trong 56 trang giấy
A4, trong đó: Mở đầu 12 trang:
- Lí do chọn đề tài
- Lịch sử vấn đề
- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Đối tợng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Phơng pháp nghiên cứu

- Đóng góp của đề tài
- Bố cục của khoá luận


Néi dung 42 trang:
Ch¬ng 1: C¬ së lÝ
luËn
1.1. BiÖn ph¸p t¸ch c©u


1.2. C¬ së nhËn diÖn t¸ch c©u
1.3. Ph©n lo¹i t¸ch c©u Ch¬ng 2:
Ph©n tÝch kÕt qu¶ thèng kª
2.1.

KÕt qu¶ thèng kª

2.2.

Ph©n tÝch hiÖu qu¶ nghÖ thuËt cña

phÐp t¸ch c©u KÕt luËn: 1 trang


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Biện pháp tách câu

1.1.1. Định nghĩa
Tác giả Đinh Trọng Lạc định nghĩa: “Tách câu là biện pháp tu từ đặc

trưng của cú pháp biểu cảm, cụ thể là tách riêng một cách có dụng ý từ một
cấu trúc cú pháp thống nhất ra một hay nhiều bộ phận biệt lập về mặt ngữ
điệu, tách xa nhau bằng một chỗ ngắt (trên chữ viết thì bằng dấu chấm hoặc
một dấu tương đương). [12,Tr.197]
Tách biệt có thể tác động qua lại với những phương tiện biểu cảm khác
của cú pháp như: lặp, sóng đôi…để tăng cường chúng.
Trong tách câu, câu được hiện thực hóa đầy đủ về cấu trúc nhưng bị
tách ra hai hay nhiều bộ phận: bộ phận tách biệt được tạo nên bởi một thành
phần câu đã được tách ra khỏi nòng cốt, hoặc bởi các phần nòng cốt đã bị tách
ra; bộ phận còn lại là bộ phận xuất phát hay bộ phận trung tâm.
Ví dụ:
“ Nãi xong, anh ta vïng đứng lªn, giơ tay chào mọi
người rồi đi ra cửa. Mọi người nh×n theo anh ta. Im lặng”.
(Nguyễn Ngọc Tư)
(“Im lặng” là một bộ phận tách biệt mang tính vị ngữ: “im lặng” là một
động từ đồng chức năng với động từ “nhìn theo”)
Với tư cách là một biện pháp tu từ, tách câu được sử dụng trong văn
nghệ thuật, văn chính luận và đem lại những khả năng biểu cảm - cảm xúc
nhất định.
1.1.2. Hiệu quả tu từ của biện pháp tách câu
a.Tách câu có thể được dùng để cụ thể hóa nội dung của bộ phận trung tâm.


Vớ d:
Dung l cô gái ru b béo ch nh. Chng p gì
nhng cng mm mm v trng tro. M li còn con mt. Cô
din nht vùng ny.

( Nam Cao)
b.Tỏch bit c dựng c t trng thỏi tõm lý - cm xỳc ch
th. Vớ d:
ói, khát. Mt. au n v s hãi ã lm lão hụt hi.
( Nguyn Th Ngc Tỳ)
c. Tỏch bit cú th lm hon thnh chc nng miờu t, mụ t hon cnh,
iu kin, chi tit ca nhng bin c c núi n.
Ví dụ:
Một đôi mắt hẹp, lúc nào cũng lờ đờ, lúc nào
cũng nh mất hết khả năng thụ cảm và suy nghĩ. Tựa mặt
ao tối giấu kín dới đáy những bùn lầy và rêu phong.
(Ma Văn Kháng)
d. Đặc biệt ở tách câu có thể thấy chức năng chuyển hóa
thông báo một cách tự nhiên và sinh động, có giá trị nh một
sự đánh dấu các đoạn văn bản liên
đới với nhau, gắn kết các mảnh đoạn văn bản, tạo mảnh đoạn
vn bn mới.
Ví dụ:
Dự định mà còn biết bao ngập ngừng, cả cô
Quyên và bà tôi đều im lặng, nghĩ đến các trắc trở ngoài
sức cố gắng của mình.
Cho đến lúc ngoài sân nhà cô Đại Bàng có hai đứa con
gái. Đó là con Vàng Anh và con Vành Khuyên.
(Ma Văn Kháng)


e. Tách câu có thể hoàn thành chức năng tạo nhịp điệu cú
pháp, nâng cao tính hình thái cho câu văn. Trong chuỗi ngữ
lu, tách câu đã tạo nên
những điểm dừng, điểm nhấn. Ngi đọc không chỉ chú ý

theo dõi nội dung
biểu đạt mà còn theo dõi cả đặc điểm kết cấu của lời văn.


Ví dụ:
Huống hồ giá nào cho xứng cái mà cuốn sách
chứa đựng, gợi mở. Một t tởng khai sáng. Một kiến thức nền
tảng. Một cách gọi tên sự vật. Một dung cảm thần tiên. Một
phút giây suy tởng. Một mơ mộng. Môt bâng khuâng, một
bảng lảng, một khoái cảm đợc biểu hiện năng lực ngời của
mình.
(Ma Văn Kháng)
Trong ví dụ trên, ta thấy nhịp điệu cảm xúc của hiện
thực đã chi phối cấu trúc cú pháp. Một tình cảm mạnh mẽ,
một nỗi bức xúc ngột ngạt đã chi phối nhịp văn. Cũng do đó,
tính hình thái của đoạn văn đợc nâng cao. Tất cả những
yếu tố ngôn ngữ với biện pháp tu từ tách câu và một số biện
pháp khác
đã tạo ra những ảnh ảo đợc đa đến gần với ngời đọc và
nằm trong thế giới thực tại, vợt ra ngoài thế giới nghệ thuật.
Tách câu không chỉ xuất hiện trong cú pháp nghệ
thuật, nó còn có mặt ở hầu hết các phong cách chức năng
nh phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách chính
luận, phong cách khoa học, phong cách hành chính - công
vụ Tuy nhiên chỉ trong ngôn ngữ nghệ thuật, tách câu mới
thực sự trở thành một biện pháp tu từ có giá trị thẩm mĩ:
tăng thông tin bổ sung, xây dựng cấu trúc lời nói văn nghệ
thuật, gây hiệu quả thẩm mĩ. Trong lời nói hội thoại, tách
câu có giá trị diễn cảm: thu hút sự chú ý của ngời đối thoại,
thể hiện tình cảm trực tiếp của ngời nói. Còn trong lời nói

nghị luận và lời nói hành chính, nó chỉ có giá trị thông tin:
đảm bảo hiệu quả thông báo.


1.2. Cơ sở nhận diện tách câu
Cần phân biệt biện pháp tu từ tách câu với câu đặc
biệt, câu tỉnh lợc. Khi phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp
thì câu đơn đặc biệt, câu tỉnh lợc hay câu do kết
quả của việc tách câu đều là những câu không có đầy đủ
các thành phần chủ ngữ vị ngữ nh câu bình thờng. Và
chúng đợc sử dụng với mục đích tu từ rõ rệt xuất phát từ ý
đồ của tác giả khi sáng tạo ra chúng.
- Câu đơn đặc biệt là câu đợc cấu tạo bởi một từ, một cụm
từ, trong đó


không phân biệt đợc đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ. Nó
là một trung tâm cú pháp không chứa hay không hàm ẩn
một trung tâm cú pháp thứ hai co quan hệ C - V với nó, nó là
một cấu trúc kín, tự thân có tính chỉnh thể và thực hiện
đợc chức năng thông báo.
- Câu tỉnh lợc vốn là câu có đủ thành phần chính: chủ ngữ
và vị ngữ, nhng trong một văn cảnh nhất định (thờng là
trong khẩu ngữ, trong đối thoại) ngời nói và ngời nghe
đều hiểu nội dung giao tiếp, nên có thể rút gọn đợc thành
phần câu để lời nói đợc gọn hơn, việc thông báo đợc nhanh
hơnNhững câu tỉnh lợc nh thế, nếu cần, có thể khôi
phục lại thành phần
đã bị lợc bớt.
- Tách câu là một biện pháp tu từ đặc trng của cú pháp

biểu cảm, cụ thể là tách riêng một cách có dụng ý từ một
cấu trúc cú pháp thống nhất ra một hay nhiều bộ phận biệt
lập về mặt ngữ điệu, tách xa bằng một chỗ ngắt (trên chữ
viết thì bằng dấu chấm hoặc một dấu tơng đơng).
Do đó để phát hiện và đánh giá tách câu dựa vào
những cơ sở sau:
1.2.1. Dựa vào ngữ nghĩa (nội dung)
Câu đợc tách ra có quan hệ chặt chẽ với câu đi trớc
hoặc câu đi sau nó về mặt ngữ nghĩa. Câu đợc tách ra
phải có cùng nội dung ngữ nghĩa, bổ sung, chi tiết hóa câu
đi trớc hoặc sau nó, bởi câu tách đợc ngời viết sử dụng
nhằm làm rõ nội dung ý nghĩa nào đó cho câu trung tâm.
Vì vậy nếu đứng một mình thì câu tách ra không có
nghĩa.
Ví dụ:

Đỗ Thị

20

K31C Ngữ


Hắn không còn kinh rợu nữa nhng cố uống cho thật ít.
Để cho khỏi tốn tiền, nhng nhất là để tỉnh táo mà yêu
nhau.
( Nam Cao)
Để cho khỏi tốn tiền vốn là bổ ngữ chỉ mục đích
nhng ợc tách ra thành câu riêng để nhấn mạnh sự thay đổi,
thức tỉnh nhận thức của Chí Phèo.

1.2.2. Dựa vào cấu tạo ngữ pháp (hình thức)
Câu đợc tách ra là một bộ phận của câu đi trớc hoặc đi
sau nó. Các

21

Đỗ Thị

K31C Ngữ


quan hệ từ, các kết từ, phụ từ hô ứnggiữa câu đợc tách
và câu trung tâm chính là dấu hiệu để chúng ta xem
xét, nhận diện tách câu.
Ví dụ:
Ngời tôi thoắt lạnh, thoắt nóng. Rồi bắt đầu run.
( Hậu thiên đờng - Nguyễn Thị Thu Huệ)
Dựa vào chức năng ngữ pháp thì bộ phận đợc tách ra
đồng chức năng với một bộ phận câu trớc nó.
Theo tác giả Hoàng Kim Ngọc trong cuốn Tiếng Việt
thực hành - Nxb Văn hóa Thông tin - H.2007 thì Câu bị
tách bao giờ cũng phải nằm sau một câu trọn vẹn nào đó
và có thể kiểm tra bằng cách nếu bỏ dấu chấm, nó sẽ trở
thành một bộ phận của câu trớc.
Ví dụ:
Mặt trời đỏ lựng đằng tây nh một cục tiết
sống. Tròn xoe. ( Phù thủy Nguyễn Thị Thu Huệ)
Hoặc bộ phận tách cũng có thể là một vế của câu ghép.
Ví dụ:
Cái sự tất nhiên nó phải vậy, nó nên vậy, mà cũng

lắm điều buồn phiền. Bởi vì cái bếp còn dùng chung.
(Mùa lá rụng trong vờn - Ma Văn Kháng)
Những câu đợc tách nh trong các ví dụ trên nếu đứng
một mình hay nếu xét từ bên trong chúng thì đó là những
câu không đầy đủ, câu què câu cụt (câu sai ngữ pháp).
Nhng nếu nhìn chúng từ bên ngoài, trong mối quan hệ với
những câu khác (đi trớc hoặc sau chúng) thì chúng là
những câu bổ sung thêm (khi đứng sau) hoặc chuẩn bị


(khi đứng trớc) cho những câu mà chúng có liên hệ về mặt
ngữ pháp và ngữ nghĩa.
1.2.3. Dựa vào hiệu quả tu từ
Tách câu là một biện pháp tu từ cú pháp và nh đã nói ở
trên. Biện pháp tách câu luôn đợc sử dụng với mục đích và
dụng ý của ngời viết. Vì thế sử dụng phép tách câu mang
lại một hiệu quả nhất định. Nhận diện tách câu dựa


vào hiệu quả tu từ của nó, tức là phải xem câu đợc tách ra
với dụng ý gì và hiệu quả tu từ của câu đợc tách đó là gì.
Ví dụ:
Cô vùng lên. Dang tay ôm lấy ngời Dơng.
(Thiếu phụ cha chồng - Nguyễn Thị Thu Huệ)
ở ví dụ này, tách câu đợc dùng để cụ thể hóa nội
dung của bộ phận trung tâm.
1.2.4. Dựa vào tính liên kết giữa các câu
Nh đã nói ở trên, câu đợc tách ra nếu đứng một mình
chúng sẽ không có ý nghĩa (cả về ngữ pháp và ngữ nghĩa).
Tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt tập 2, Nxb Giáo dục 1997 cũng viết: Câu dới bậc tự thân nó

là không có tính tự lập về ngữ pháp và ngữ nghĩa. Vì
vậy, một đặc trng cần yếu trong sự tồn tại của nó là sự liên
kết với câu lân cận hữu quan. Tính chất gắn bó của câu
này với câu khác nói chung trong một tổ chức ngôn ngữ lớn
hơn câu đợc gọi là tính liên kết. Tính liên kết giữa các
câu có thể
đợc biểu hiện tờng minh bằng các yếu tố ngôn ngữ biểu thị
nó, cũng có thể không đợc biểu hiện tờng minh, nghĩa là
chỉ đợc thực hiện qua nội dung ý nghĩa và trật tự sắp xếp
của câu. Nhìn trên đại thể trong một tổ hợp nhiều câu, thờng tồn tại ba kiểu liên kết chính sau đây:
- Liên kết hớng lùi (còn gọi là hồi cố) là mối liên hệ ý của câu
sau với câu trớc nó, ngợc hớng của dòng âm thanh khi nói hớng
về quá khứ.
Ví dụ:
Huấn đi về trạm máy. Một mình trong đêm.


( Nguyễn Thị Ngọc Tú)
- Liên kết hớng tới (dự báo) là mối liên hệ ý của câu đứng
trớc với câu
đứng sau nó, thuận theo hớng của dòng âm thanh khi nói, hớng
về tơng lai.
Ví dụ:
Về việc riêng - suốt đời tôi phục vụ Cách mạng, phục vụ
nhân dân.


×