Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

xây dựng nền văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay tiểu luận môn khoa học quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.9 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Văn hoá đã và đang thâm nhập sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
tạo ra các giá trị tốt đẹp để con người tiến dần tới cái Chân - Thiện - Mỹ. Trong
bối cảnh quá trình toàn cầu hoá ngày càng gia tăng, kinh tế và văn hoá có thể
được xem là hai nguồn lực lớn nhất quy định hành vi của con người. Mối
quan hệ giữa kinh tế và văn hoá cũng như văn hoá và phát triển không chỉ thu
hút sự quan tâm của giới nghiên cứu mà còn của nhiều chính phủ và các tổ
chức quốc tế. Ở nước ta, trong mối quan hệ này, Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng khẳng định, kinh tế phát triển là cơ sở để xây dựng và phát triển nền văn
hóa. Đồng thời, Đảng ta đã đưa ra quan điểm “Văn hoá là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội”. Sự phát triển kinh tế phải hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp để phục vụ
con người, phục vụ nhân dân. Mặt khác, cần khai thác văn hóa như một động
lực, như một nguồn lực để phát triển kinh tế. Do đó, bất cứ một lĩnh vực nào
mà văn hoá khi đã thâm nhập vào, thấm sâu vào sẽ tạo ra hệ giá trị tinh thần tạo
thành động lực của sự phát triển.
Một trong những vấn đề cần quan tâm đó là cân bằng giữa phát triển kinh
tế và văn hóa. Kinh tế là nền tảng vật chất quan trọng và văn hóa là cơ sở, nền
tảng tinh thần của xã hội. Kinh tế dù phát triển tới mức nào mà xem nhẹ yếu tố
văn hóa thì suy cho cùng cũng là sự phát triển khập khiễng bởi như trong Nghị
quyết Trung ương V khóa VIII đã khẳng định: Kinh tế và văn hóa là hai chân
của sự phát triển, chúng ta không thể đi chân ngắn, chân dài, chân cao, chân
thấp, không chỉ chăm lo phát triển nền tảng vật chất(kinh tế) của xã hội mà
không chăm lo phát triển nền tảng tinh thần(văn hóa) của xã hội. Điều đó đòi
hỏi mỗi quốc gia cần phải kết hợp hài hòa giữa hai mặt kinh tế và văn hóa để tạo
động lực cho sự phát triển bền vững.

1


Chính vì những lý do ấy tôi đã lựa chọn đề tài: “Xây dựng nền văn hoá


trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay” đề làm tiểu
luận kết thúc môn học của mình.
NỘI DUNG
Chương 1: Một số lý luận chung về văn hóa
1.1. Định nghĩa văn hoá
Văn hóa theo tiếng Latinh là “cultus” nghĩa là sự trồng trọt. Danh từ
“cultus” được hiểu theo hai nghĩa khác nhau “cultusagri” là trồng trọt ngoài
đồng (trồng cây) và “cultusannimi” là trồng tinh thần, trồng người.
Như vậy theo nghĩa gốc của từ “văn hóa” thì đó là làm cho sự vật, hiện
tượng gì đó sinh sôi, nảy nở, phát triển theo chiều hướng tốt đẹp.
Theo ngôn ngữ tiếng Trung “văn” là những cái tốt đẹp của cuộc sống đã
được đúc kết, “hóa” là đem cái đã được đúc kết ấy hóa thân trở lại cuộc sống,
làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Năm 1871, Edward Burnett Taylor – một nhà dân tộc học, nhân chủng
học người Anh trong tác phẩm “Primitive culture” (Văn hóa nguyên thủy) đưa
ra định nghĩa đầu tiên về văn hóa: Văn hóa là phức thể bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán cùng những khái niệm và
thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội đạt được với tư
cách là một thành viên trong xã hội.
Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Chúng
tôi xin trích dẫn một số định nghĩa về văn hóa tiêu biểu:
Định nghĩa văn hóa của UNESSCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các
hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động
sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và các
thị hiếu, những yếu tố xác định đặc tính riêng của dân tộc”.
Bàn về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đưa ra định nghĩa về văn
hóa trong phần cuối của “ Nhật ký trong tù” năm 1943 như sau:

2



“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học nghệ thuật nhằm cung cấp cho sinh hoạt về ăn, mặc và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó là loài người đã sản sinh nhằm đáp ứng những nhu cầu của cuộc
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
Văn hóa dưới góc nhìn của nhà nghiên cứu Lê Văn Quán là:”những tri
thức khoa học văn hóa, sự hiểu biết, trình độ học vấn, trình độ tiếp thu và vận
dụng những kiến thức khoa học. Hệ thống kiến thức được con người sang tạo
và tiếp thu, tích lũy, bổ sung và luôn luôn đổi mới qua các thế hệ thông qua
lao động, sản xuất, đấu tranh giữa con người với tự nhiên và xã hội. Qua đó
con người tiếp xúc, giao tiếp với nhau, hình thành nên những tập tục, những
cách đối nhân xử thế nhất định. Sự hiểu biết được sử dụng làm nền tảng và
định hướng cho nếp sống, nếp suy nghĩ, đạo lý, tâm hồn và hoạt động của
mỗi dân tộc đạt tới chân, thiện, mỹ trong mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với môi trường xã hội và tự nhiên”.
Có thể nói văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo, tích lũy, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong hoạt
động sản xuất, nếp suy nghĩ, cách sống và sự tương tác giữa con người với tự
nhiên và xã hội. Những giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong
xã hội. Từ những nhận định trên có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất: văn hóa bao gồm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chứ
không chỉ đơn thuần là văn hóa tư tưởng hay văn hóa nghệ thuật.
Thứ hai: văn hóa là sự sáng tạo của con người hướng tới chân, thiện, mỹ.
Do đó nó là dấu hiệu tộc loại để phân biệt con người với động vật.
Thứ ba: nói tới văn hóa là nói tới hệ thống với chức năng tổ chức xã hội,
tính giao tiếp với chức năng điều tiết xã hội, tính lịch sử với chức năng, tính
nhân bản với chức năng giao tiếp.

3


Thứ tư: văn hóa về bản chất là quá trình phát triển mang tính người, là
cái đặc trưng cho một cộng đồng dân tộc.
Từ những định nghĩa và nội dung xem xét trên ta có thể đưa ra định
nghĩa văn hóa như sau : Văn hoá là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần
được sáng tạo, tích luỹ trong lịch sử nhờ qua trình hoạt động thực tiễn của
con người. Các giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong đời
sống xã hội và liên tiếp truyền lại cho thế hệ sau. Văn hoá thể hiên trình độ
phát triển và những đặc tính riêng mỗi dân tộc.
Văn hóa đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Văn hoá chính là
yếu tố then chốt trong chính sách phát triển một quốc gia, là nguồn gốc bắt rễ
của sự phát triển. Văn hoá là nền tảng để xây dựng một đời sống tinh thần
lành mạnh, đồng thời cũng là động lực của sự phát triển. Đánh giá về vai trò
của văn hóa, nguyên Tổng giám đốc Unessco- ông F. Mayor đã từng nói đại ý
như sau: văn hóa như một nguồn cổ xuý trực tiếp cho phát triển và ngược lại
phát triển cần thừa nhận văn hoá giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết
xã hội.
1.2. Vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế
Thứ nhất, văn hoá ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế thông qua sự thúc
đẩy các giá trị được chia sẻ trong cộng đồng. Các giá trị đó cũng quy định
cách thức mà các thành viên của cộng đồng thực hiện trong các quá trình sản
xuất mang tính kinh tế. Chẳng hạn như nếu các giá trị văn hoá này khiến việc
ra quyết định trở nên có hiệu quả hơn, đưa đến những sự cải tiến đa dạng và
nhanh chóng hơn và đưa đến những ứng xử đối với sự thay đổi một cách nhạy
bén hơn thì năng suất kinh tế và tính năng động của cộng đồng cũng được
phản ánh qua hiệu quả kinh tế cao hơn (trong trường hợp của một doanh
nghiệp) hay qua tỷ lệ tăng trưởng lớn hơn (trong trường hợp của một nền kinh
tế quốc gia)

Thứ hai, văn hoá có thể ảnh hưởng đến tính công bằng - chẳng hạn như
bằng việc ghi nhớ những nguyên tắc đạo đức như sự quan tâm đến mọi người
4


hay sự thiết lập các cơ chế để những khúc mắc có thể được bày tỏ. Nhìn
chung, ảnh hưởng của văn hoá đến tính công bằng sẽ được xem xét trong các
quyết định phân phối nguồn lực của cộng đồng đến việc đạt được thành quả
cho tất cả các thành viên một cách công bằng.
Thứ ba, văn hoá có thể được xem như là có ảnh hưởng hay thậm chí
quyết định đến mục tiêu kinh tế và xã hội của cộng đồng. Ở cấp độ một cộng
đồng nhỏ như một công ty, văn hoá doanh nghiệp có thể là sự quan tâm đến
người lao động và điều kiện lao động của họ. Những giá trị này có thể làm
giảm lợi nhuận hay những mục tiêu kinh tế khác trong mục tiêu chung của
công ty. Ở cấp độ toàn xã hội, giá trị văn hoá có thể hoàn toàn hài hoà với sự
theo đuổi các thành tựu vật chất, tăng thành tựu kinh tế vĩ mô. Mặt khác, văn
hoá cũng có thể kiềm chế sự theo đuổi các thành tựu vật chất để ưu tiên cho
các mục tiêu phi vật chất liên quan đến chất lượng mọi mặt của cuộc sống, do
đó ảnh hưởng đến tốc độ và chiều hướng của tăng trưởng kinh tế. Qua ba con
đường này, ảnh hưởng của văn hoá đến hành vi cá nhân sẽ được phản ánh
trong hiệu quả mang tính tập thể. Vì vậy, chẳng hạn như, ở mức độ tổng thể
chúng ta có thể quan sát ảnh hưởng của văn hoá đến thành tựu kinh tế vĩ mô
liên quan đến các chỉ số năng suất như tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân đầu
người, tỷ lệ thay đổi công nghệ, mức độ việc làm, tỷ lệ và chiều hướng biến
đổi cấu trúc … và liên quan đến các chỉ số bình đẳng như phân phối thu nhập,
an sinh xã hội (đặc biệt các chương trình chăm sóc cho người già yếu, bệnh
tật), cung cấp các dịch vụ cộng đồng và (phản ánh mối quan tâm tới bình đẳng
giữa các thế hệ) sự sẵn sàng để thực hiện các chương trình đầu tư công dài
hạn mà không thể đem đến lợi ích trực tiếp đối với thế hệ hiện nay.


5


Chương 2: Vấn đề phát triển văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta hiện nay
2.1. Văn hóa với tiềm năng hoạt động sáng tạo của con người Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế
Kế thừa những tư tưởng Văn hoá của Hồ Chí Minh trong giai đoạn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của xu thế hội nhập như hiện nay. Chúng ta
nhận thấy rằng vấn đề văn hoá và con người là một trong những vấn đề được
quan tâm nhiều nhất. Tuy nhiênvănhoátrrongxuthếhội nhập với bản chất và
tiềm năng nó thúc đẩy con người phát triển với những tiềm năng sáng tạo
của bản thân. Văn hoá là "bản tính thứ hai" của loài người, nơi chứa đựng
toàn bộ tinh hoa trí tuệ, phẩm chất, năng lực, ý chí, khát vọng và niềm tin
của con người, nói tổng quát, đó là toàn bộ sức mạnh bản chất Người. Quá
trình tạo ra thiên nhiên thứ hai thực chất cũng là quá trình loài người không
ngừng tự nâng cao và hoàn thiện chính mình trong suốt chiều dài lịch sử.
Văn hoá luôn hiện thân trong mọi lĩnh vực hoạt động sống của xã hội, nó
quy định phong cách tư duy, phương thức hành động, lối sống, nó cũng quy
định hiệu quả và chất lượng hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân. Sức mạnh
quy định đó nằm trong nhân lõi tinh tuý được kết tụ thành tiềm năng sáng
tạo to lớn của văn hoá.
Từ giữa thế kỷ XIX, C.Mác đã dự báo rằng, với sự phát triển của khoa
học và kỹ thuật, phần lao động sống ngày càng giảm, phần lao động bằng máy
móc tăng lên, lao động thủ công được thay thế bằng các thao tác tự động, trí
tuệ con người được dùng cho việc chiếm lĩnh kỹ năng lao động, kỹ năng điều
khiển máy móc. Và ngày nay, ở các nước phát triển, trong các ngành công
nghiệp chủ đạo, người lao động lẽ ra phải tập trung hơn vào việc phát triển
những phẩm chất và các năng lực toàn điện của bản thân để sáng tạo ra văn

hoá và sử dụng văn hoá cho việc nâng cao hoạt động sống thì dường như họ
chỉ tận dụng thời gian và sức lực cho việc học tập để nâng cao tay nghề.
6


Chạy theo xu hướng phát triển của kỹ thuật, công nghệ chỉ vì lợi ích vật
chất trước mắt thực chất là đánh mất văn hoá với tư cách là mục tiêu và động
lực phát triển cá nhân và xã hội. Trong thời đại khoa học công nghệ, thời đại
trí tuệ, văn hoá càng giữ vai trò đặc biệt trong việc cung cấp tiềm năng sáng
tạo cho người lao động. Chỉ trên nền văn hoá, chỉ khi chiếm lĩnh được văn
hoá nhân loại, người ta mới có thể phát triển khả năng hoạt động, nhất là đối
với sự phát triển các năng lực sáng tạo của cá nhân. Phải tận dụng văn hoá với
tư cách là nguồn năng lượng nhân loại, là tiềm năng sáng tạo trong mọi hoạt
động sống của con người.
Rõ ràng, bản thân chúng ta, tri thức, trí tuệ, tư duy và tình cảm của chúng
ta chính là sản phẩm của văn hoá, sản phẩm của toàn bộ tiềm năng sáng tạo
kết tụ trong mỗi nền văn hoá và toàn bộ văn hoá loài người.
Chiếm lĩnh văn hoá là con đường và phương pháp tối ưu trong chiến
lược xây dựng và phát triển con người nói chung, phát triển năng lực hoạt
động sáng tạo của cá nhân nói riêng đối với nền giáo dục đào tạo của chúng ta
hiện nay. Chiếm lĩnh văn hoá không đơn thuần là nắm lấy toàn bộ tri thức,
kinh nghiệm, phương thức hoạt động hay nguyên tắc tư duy. Vấn đề quan
trọng là phải biến tri thức, kinh nghiệm văn hoá thành phẩm chất và sức mạnh
bên trong, thành tính tích cực gợi mở và phát huy cách suy nghĩ cách hành
động sáng tạo của mỗi con người trong cuộc sống. Sự nghiệp giáo dục đào tạo
những con người tích cực và sáng tạo cần phải theo hướng vươn tới cái bên
trong của văn hoá, tới sự thức tỉnh con người vươn tới khát vọng chiếm lĩnh
nghề nghiệp và sự nghiệp. Điều có ý nghĩa quan trọng đối với giáo dục - đào
tạo là xây dựng được hệ thống và nội dung phù hợp, có khả năng tác động
mạnh mẽ đến cội nguồn sâu xa nhất của thế giới bên trong con người, để phát

huy những tiềm năng sáng tạo con người đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc
tế ngày nay.

7


2.1.2 Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội với việc giữ gìn bản
sắc văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.1.1. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh không những là
người luôn quan tâm đến vấn đề văn hoá, mà còn là người đặt cơ sở cho một
nền văn hoá của dân tộc.Không những thể hiện tư tưởng của người qua những
bài nói bài viết mà còn được thể hiện thông qua chính bản thân của Hồ Chí
Minh gắn liền với hoạt động cách mạng của mình.
Ngay từ rất sớm chủ tịch Hồ Chí Minh từng định nghĩa về văn hóa: "Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa".
Khái niệm về văn hóa đó của Bác được xác lập từ đầu những năm 40
củathếkỷtrước, nghĩalà hơn 40 năm trước khi UNESCO đưa ra khái niệm về
văn hóa mà nhân loại hiện đang sử dụng. Trong quan niệm của Bác, văn hóa
gắn với lẽ sinh tồn và mục đích của cuộc sống. Văn hóa là toàn bộ những sáng
tạo, những phát minh không chỉ đáp ứng những nhu cầu tinh thần mà còn cả
những nhu cầu vật chất của con người. Một nhận thức như vậy không cho phép
coi văn hóa như một thứ giải trí, một thứ gia vị, cũng không cho phép coi văn
hóa như một hoạt động lơ lửng trên không, không cho phép coi văn hóa là cái
đuôi của các hoạt động kinh tế và chính trị. Bác Hồ đã từng nói: Một dân tộc có
thể bị áp bức bóc lột, bị suy kiệt về vật chất, nhưng sức sống của dân tộc đó
vẫn còn, và chỉ chờ có thời cơ là dân tộc đó sẽ vùng dậy. Cái sức sống đó chính

là ở những giá trị văn hóa, những truyền thống văn hóa tốt đẹp.Lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của nước ta đã minh chứng điều đó. Trong
các cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc, trong các cuộc đụng đầu không
cân sức về tiềm năng kinh tế, về vũ khí, với các thế lực ngoại xâm, cuối cùng
dân tộc ta đã giành chiến thắng. Chính các tướng lĩnh Mỹ đã thừa nhận: họ thất
8


bại vì họ vấp phải một dân tộc có truyền thống lịch sử lâu đời. Gần đây, Giáo
sư, Tiến sĩ Tin-pho thuộc Học viện Không quân Mỹ, trong bài viết về chiến
tranh của Mỹ ở Việt Nam trước đây, cũng khẳng định: máy bay cực kỳ hiện đại
của không lực Hoa Kỳ đã vấp phải một cơn gió ngang cực mạnh, bị cơn gió
ngang đó quật đổ xuống. Cơn gió ngang đó là những giá trị văn hóa của dân tộc
Việt Nam.
Như vậy, văn hóa là cội nguồn của đời sống một dân tộc.Nó là nền tảng
tinh thần của xã hội.Nó tạo nên cốt cách, tâm hồn, tạo nên lực cố kết giữa các
thành viên trong xã hội, tạo nên sức mạnh nội lực của một dân tộc.Nó là
"nguyên khí" của một quốc gia.
Vấn đề đặt ra hiện nay khi quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Ðảng ta về văn hóa là làm sao giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
các lĩnh vực văn hóa, kinh tế và chính trị. Ðó là ba lĩnh vực then chốt trong
đời sống một quốc gia. Trong quỹ đạo của tư duy cũ, do nhận thức chưa thấu
đáo mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, có lúc, có nơi đã tuyệt đối hóa vai
trò của vật chất. Hiện nay dấu vết của quan niệm đó không phải không còn,
thậm trí còn trầm trọng do tác động của mặt trái của kinh tế thị trường. Có
người nghĩ một cách đơn giản: có kinh tế là có tất cả. Ðể phát triển kinh tế,
vấn đề nâng cao nguồn lực con người, việc áp dụng khoa học - công nghệ vào
sản xuất, việc sử dụng kịp thời các thông tin về kinh tế và về công nghệ, nghệ
thuật quản lý và uy tín đối với khách hàng là cực kỳ quan trọng. Các nhân tố
đó không phải tự nhiên mà có, như những tài nguyên từ trong lòng đất. Trái

lại, phải biết sử dụng các thành tựu của văn hóa.
Sự tăng trưởng kinh tế không có mục tiêu tự thân. Nếu tăng trưởng kinh
tế mà dẫn đến việc phá hoại môi trường sinh thái, làm xấu đi môi trường nhân
văn, thì sự tăng trưởng đó sẽ dẫn đến những bất ổn trong xã hội. Những bất
ổn đó sẽ phá hủy cả một nền kinh tế.
Vấn đề đặt ra trong công tác lý luận và hoạt động thực tiễn hiện nay là
phải khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của sự
9


phát triển kinh tế - xã hội. Từ quan điểm đó, phải hình thành những chủ
trương, chính sách thích hợp nhằm xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần
của xã hội, nhằm ngăn chặn nguy cơ suy thoái về đời sống tinh thần đang diễn
ra trong mỗi quốc gia, trên phạm vi toàn cầu. Quán triệt quan điểm đó thực
chất là quán triệt quan điểm coi trọng con người, coi con người là chủ thể
sáng tạo ra mọi của cải trong xã hội, và mọi của cải trong xã hội phải trở về
phục vụ con người.
Trong những năm chiến tranh ác liệt, giữa muôn vàn khó khăn của đất
nước do chiến tranh gây nên, Bác Hồ vẫn đặc biệt quan tâm sự nghiệp giáo
dục, vẫn phát động phong trào thi đua dạy thật tốt, học thật tốt. Ðó là những
tư tưởng lớn, những bài học lớn mà chúng ta có thể rút ra trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn hóa ở nước ta hiện nay.
Gần đây, Hội nghị Trung ương 10 đã đi tới một kết luận cực kỳ quan trọng
phải gắn kết nhiệm vụ trung tâm phát triển kinh tế, nhiệm vụ then chốt chỉnh đốn
và xây dựng Ðảng với nhiệm vụ xây dựng nền tảng tinh thần là văn hóa. Kết
luận đó thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.Trong tư tưởng của
Người, sự nghiệp kháng chiến, cứu nước không thể tách rời sự nghiệp xây dựng,
phát triển văn hóa, bởi vì văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu
của cuộc kháng chiến.
Qua 20 năm đổi mới, thực tế chứng minh rằng đất nước ta đã thu được

những thành tựu to lớn và rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Những thành
tựu đó bắt nguồn từ sự đổi mới tư duy, phát triển về lý luận và nhận thức của
Ðảng. Những giá trị trong nền tảng tinh thần của đất nước là nguyên nhân
quan trọng tạo nên những thành tựu trong 20 năm qua. Nhưng cũng phải thấy
rằng, cùng với những thành tựu to lớn, rất quan trọng đã đạt được, chúng ta
đang phải đối diện những thách thức, trong đó có nhiều vấn đề văn hóa, xã
hội, bức xúc. Ðây là điều mà toàn xã hội đều quan tâm. Việc tiếp tục triển
khai Nghị quyết T.Ư 5 khóa VIII về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", Nghị quyết T.Ư 6 (lần 2) khóa VIII
10


"Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Ðảng hiện
nay" chính là nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần, văn
hóa của dân tộc. Nền tảng tinh thần có được củng cố thì sự phát triển kinh tế xã hội với bền vững, mới đi đúng theo định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.1.3. Giữ gìn bản sắc văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
C.Mác đã từng khẳng định một cách đúng đắn rằng, một xã hội chỉ có
thể phát triển cao với một nền đại công nghiệp. Lý tưởng cao đẹp của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta là xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh và văn minh. Để thực hiện lý tưởng đó, Nghị quyết Đại
hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra: từ nay đến năm 2020
chúng ta phải phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện
đại.
Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định rằng: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá
và kinh tế? Tục ngữ có câu: có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi
trước... Phát triển kinh tế và văn hoá để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân”. Trong thời đại ngày nay muốn làm được điều đó thì chúng ta
phải tiến hành công nghiệp hoá bởi vì "Mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại

hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, công nghiệp hoá không phải chỉ là phát triển nền công nghiệp,
mà là phát triển mọi lĩnh vực từ sản xuất vật chất và dịch vụ của nền kinh tế,
cho đến các khâu trang thiết bị, phương pháp quản lý, tác phong lao động, kỹ
năng sản xuất…

11


Hiện đại hoá cũng không có nghĩa chỉ là đưa khoa học - công nghệ - kỹ
thuật thông tin - vi điện tử hiện đại vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế, mà là
quá trình vận dựng tất cả những phương tiện đó vào tổng thể hệ thống kinh tế,
chính trị, xã hội, nó đòi hỏi phải thực hiện cách mạng công nghệ trong các cơ
cấu kinh tế - xã hội một cách hợp lý, cân đối, tạo lập cơ chế quản lý xã hội ở
trình độ chuyên môn cao với phương pháp quản lý hiện đại.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải hoàn thiện cơ cấu - tổ chức - vận
hành xã hội, chuyên môn hoá chức năng ngày càng sâu của các thể chế, nâng
cao chất lượng các phương tiện thông tin đại chúng và chất lượng sống: dân
chủ hoá đời sống xã hội trong khuôn khổ một Nhà nước pháp quyền, phát
triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và dân đức thông qua việc phát triển
nền giáo dục quốc gia.
Như vậy, quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thực chất tự bản thân
nó chính là một quá trình biến mọi hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội, đặc
biệt là hoạt động sản xuất tinh thần và đời sống văn hóa từng bước lên trình
độ tiên tiến và hiện đại. Đó là quá trìnhvănhoáhoáđờisốngxã hội
vàvănhoáhoángàycàngcao bản thân con người.Bởi văn hoá là hiện thân sức

mạnh bản chất người được thể hiện trong "Thiên nhiên thứ hai" của con người
(Mác). Tất cả sức mạnh bản chất người đó được tàng chứa trong toàn bộ thế
giới vật chất - tinh thần, nó thể hiện một cách năng động nhất trong cơ cấu tổ chức - vận hành của một xã hội, đặc biệt là ở phần tinh thần nơi thăng hoa
toàn bộ giá trị văn hoá nằm tương ứng bên trên cơ cấu - tổ chức - vận hành
đó.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã vạch ra qui luật khách
quan rằng, đời sống vật chất (hiện thực) quy định đời sống tinh thần của xã hội.
Do đó, trình độ kinh tế - chính trị - xã hội tiên tiến và hiện đại do công nghiệp
hoá - hiện đại hoá tạo ra sẽ là cơ sở quy định bản chất và trình độ của nền văn
hoá xã hội.

12


Một vấn đề lớn và quan trọng đặt ra là: Nền văn hoá tiên tiến, hiện đại do
công nghiệp hoá - hiện đại hoá hình thành nên có mâu thuẫn, có thủ tiêu nền
văn hoá truyền thống và làm mất đi bản sắc dân tộc của văn hoá truyền thống?
Phép biện chứng duy vật và thực tiễn xã hội cho thấy, đời sống tinh thần
có cuộc sống độc lập của nó so với nền tảng vật chất xã hội.Văn hoá, một khi
ra đời, dù là xuất phát từ tồn tại kinh tế, từ đời sống vật chất, nó trở thành thực
thể độc lập với cơ sở kinh tế - xã hội. Thực tế đã chứng minh, những hệ tư
tưởng, chính trị, văn hoá đã đóng vai trò điều chỉnh và qui định chiều hướng
vận động của xã hội. Ngày nay, loài người càng nhận rõ rằng, văn hoá không
chỉ là cái phát sinh của điều kiện kinh tế - xã hội, mà còn là động lực nội sinh
của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nghĩa là, trước sự hiện đại hoá xã hội, và
cùng với nó là sự hình thành những yếu tố văn hoá tiên tiến, hiện đại, thì
những yếu tố, những thực thể văn hoá truyền thống như là bản sắc văn hoá
Việt Nam vẫn độc lập tồn tại và không những tồn tại, mà chúng còn làm tiền
đề cho sự nảy sinh và phát triển các yếu tố văn hoá mới.
Lịch sử phát triển văn hoá nhân loại cho thấy, mỗi nền văn hoá bao giờ

cũng tàng chứa những tố chất đặc sắc, tạo nên nét riêng của mình đó là bản sắc.
Cái bản sắc đó được kết tinh từ tâm hồn, khí phách hàng ngàn đời của dân tộc,
tạo nên nhân lõi, cốt cách, bản lĩnh và sức sống của một dân tộc, nó là căn cước
để nhận dạng nó trong trăm ngàn nền văn hoá. Vì vậy Hồ Chí Minh rất quan tâm
đến việc “phát huy vốn cũ quý báo của dân tộc (nhưng tránh “phục cổ” một cách
máy móc) và học tập văn hoá tiên tiến của các nước (trước hết là các nước bạn)
cũng chưa làm được nhiều”
Văn hoá Việt Nam với bản sắc của mình, qua bao lần tiếp biến vẫn
không bị sai lạc, phai mờ, thậm chí qua bao lần đất nước bị xâm lăng, dân tộc
bị thôn tính, nhưng bản sắc đó không bao giờ mất, không những không mất
mà nó ngày càng được khẳng định và phát triển. Những bản sắc văn hoá của
chúng ta không những đã đi vào thơ ca hò vè mà nó đã được thấm vào trong
tâm hồn của mỗi người dân. Bác Hồ của chúng ta cũng đã khẳng định:
13


“Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay là những sáng tác của quần
chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà lại ngắn, chứ không “trường thiên đại hải”,
dây cà ra dây muống. Các cán bộ văn hoá cần phải giúp những sáng tác của
quần chúng. Những sáng tác ấy như là hòn ngọc quý”. Vì vậy cần phải được
phát huy những yếu tố tích cực ấy. Mỗi lần tiếp biến, văn hoá Việt Nam với
bản lĩnh và sức sống của mình, lấy bản sắc dân tộc làm tiêu chí, nó gạn lọc,
tiếp thu những tinh hoa tốt đẹp của các nền văn hoá khác trên khắp thế giới,
làm giàu có và đậm đà thêm, phong phú thêm cho bản sắc của mình.
Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay ở nước ta thực sự
đang là một cuộc tiếp biến lớn lao, rất căn bản của văn hoá Việt Nam với thế
giới văn hoá hiện đại. Với truyền thống luôn giữ vững bản sắc của mình, văn
hoá Việt Nam không bao giờ bị văn hoá hiện đại làm lu mờ, thôn tính, mà sẽ
tiếp thu những yếu tố văn hoá tiên tiến, hiện đại chứa đựng trong khoa học công nghệ hiện đại, nó cộng sinh, làm phong phú và hiện đại thêm nền văn
hoá của chính mình. Theo nghĩa đó, công nghiệp hoá - hiện đại hoá không

những không là tác dụng xấu, mà là tác dụng tích cực, hay có thể nói, chúng
đem lại những yếu tố mới cho việc làm sâu sắc thêm phong phú thêm bản sắc
văn hoá Việt Nam.
Nói như vậy không có nghĩa công nghiệp hoá - hiện đại hoá chỉ có đem
lại những thuận lợi, tạo ra tất cả những yếu tố tích cực cho và giữ gìn bản sắc
văn hoá Việt Nam.
- Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nâng cao chất lượng sống, từ đó hình
thành nên những chuẩn mực mới lạ trong đời sống tinh thần, có thể dẫn đến
"sự va chạm" giữa lối sống, lối tư duy hiện đại với lối sống và tư duy truyền
thống: Lối sống và cách tư duy hoà với thiên nhiên, tình cảm cộng đồng tình
làng nghĩa xóm dường như "mặc cảm" với lối sống đô thị và toan tính kinh tế
có tính cá nhân, nếp sống thanh bình dễ "dị ứng” với nhịp độ gấp gáp của tác
phong công nghiệp, ứng xử tình cảm nghiêng về đạo đức thường tương phản

14


với văn hoá trí tuệ và nền pháp lý chặt chẽ, lối sống tiêu xài không mấy phù
hợp với truyền thống thanh đạm của con người Việt Nam…
- Sự hội nhập sẽ làm tăng nhanh nhiều loại sản phẩm văn hoá, trong đó,
bên cạnh các yếu tố tốt đẹp, có cả những yếu tố không phù hợp với văn hoá
truyền thống, thậm chí độc hại nữa, lối sống buông thả là luận điệu tự do, dân
chủ không ranh giới. Tất cả những cái đó nếu không kịp thời ngăn chặn, đến
một lúc, an ninh quốc gia, thậm chí độc lập dân tộc sẽ là cái bia bắn phá, lối
sống dân tộc, văn hoá dân tộc sẽ bị coi là lạc hậu, lạc lõng.
Rõ ràng, làm thế nào để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa mà vẫn
giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc đang là vấn đề bức xúc đặt ra cho toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta hiện nay. Điều đầu tiên phải thấy rằng, một
trong những biện pháp để công nghiệp hoá - hiện đại hoá không chỉ đơn giản
là nhập nội khoa học - kỹ thuật - công nghệ tiên tiến từ bên ngoài, mà là biết

kết hợp các yếu tố nội sinh và ngoại sinh, trong đó, yếu tố nội sinh là gốc, là
nền tảng. Bởi Đảng và Nhà nước ta chủ trương mục đích của hiện đại hoá
không chỉ vì một cuộc sống tiện nghi, mà là phát triển con người và dân tộc
Việt Nam, làm cho nền văn hoá Việt Nam ngày càng tiên tiến, hiện đại và
ngày càng đậm đà bản sắc. Như Bác Hồ mong muốn “các ngài trong giới văn
hoá nhận thấy rõ nhiệm vụ các ngài trong lúc này là củng cố nền độc lập của
Việt Nam , sửa soạn gây dựng cho đất nước Việt Nam một nền văn hoá mới...
Cái văn hoá mới này cần phải có tính khoa học, tính cách đại chúng thì mới
thuận với trào lưu văn hoá của tư tưởng hiện đại.”
Như vậy, mục tiêu cho cả của công nghiệp hoá - hiện đại hoá là đạt đến
một nền văn hoá nhân văn - nền văn hoá người nhất: nền văn hoá tất cả vì con
người, con người ở đây được phát triển toàn diện, hài hòa mang tâm hồn, lý
tưởng, sắc thái Việt Nam.
Theo phương châm đó, CNH - HĐH ở Việt Nam phải lấy văn hóa truyền
thống làm nền tảng và động lực, lấy việc làm đậm dà bản sắc văn hóa làm mục
tiêu.
15


Suốt 4000 năm lịch sử, những đặc trưng dân tộc Việt Nam đã kết tụ nên
những nét văn hóa riêng và rất đậm. Nó riêng với những đặc trưng chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa anh hùng, tinh thần nhân ái, nhân văn, tinh thần đoàn
kết, cộng đồng, tình yêu lao động, cần cù chịu khó, tinh thần lạc quan yêu đời,
óc thông minh sáng tạo, lòng cởi mở, hoà hợp, tế nhị, linh hoạt và tình cảm…
Nó đậm bởi suốt hàng nghìn năm bị ngoại bang đô hộ, suất hàng trăm năm bị
xâm lăng bởi nhiều thế lực mạnh, nhiều khi nước mất, nhưng những nét đặc
trưng tinh thần cao đẹp đó không bao giờ mất.
Trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá, một mặt, để hoà vào được trình độ
phát triển thế giời, mặt khác, giữ gìn được bản sắc văn hoá của mình, chúng ta
cần phát huy các giá trị truyền thống để tiếp thu những thành quả khoa học công nghệ - tin học hiện đại, lấy yếu tố nội sinh làm chủ thể nghĩa là yếu tố

nội sinh phải đóng vai trò quyết định trong việc định hướng các mối quan hệ
của chúng với các yếu tố ngoại sinh, còn các yếu tố ngoại sinh phải trở thành
tố chất kích thích sự tiến hoá của các yếu tố nội sinh.
Hội nhập trên cơ sở định hướng với sự lựa chọn tối ưu là làm sao tích
hợp được nhiều tinh hoa đặc sắc của nhiều nền khoa học - kỹ thuật - công
nghệ và cách điều tiết nền kinh tế - xã hội của nhiều nước một cách hợp lý,
phù hợp với đặc điểm và điều kiện dân tộc mình. Nếu nhân danh sự tiếp thu
mà bê nguyên xi những cái bên ngoài thì văn hoá sẽ bị mất gốc, bị đồng hoá.
Mất nước, chúng ta còn giành lại được nước, nhưng mất bản sắc văn hoá dân
tộc thì lịch sử thế giới đã cho thấy, sẽ mất tất cả!
Tiếp thu trên tư thế chủ động là điều kiện của việc xử lý mối quan hệ
biện chứng nội sinh, ngoại sinh. Điều đó có nghĩa, chủ thể tiếp nhận phải có
đủ kiến thức và trình độ đối thoại với đối tác một cách tự tin. Nguyên tắc tiếp
thu là lấy bản sắc văn hoá của mình làm gốc, lấy tiêu chí văn hoá dân tộc làm
bộ lọc, tiếp thu các giá trị khoa học công nghệ - văn hoá hiện đại của thế giới,
lấy cái tiến bộ bổ sung cho những thiếu hụt trong văn hoá truyền thống, tạo

16


thuận lợi cho văn hoá dân tộc phát triển. Vì “VănhoáVIệt Nam làảnh hưởng
lẫn nhau của văn hoá Đông phương và Tây phương chung đúc lại...
...Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một
nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá xưa và văn
hoá nay, trau dồi cho văn hoá Việt Nam thật có tinh thần thuần tuý Việt Nam
để hợp với tinh thần dân chủ.”
Chúng ta học tập kinh nghiệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá của các
nước nhưng không bê nguyên xi các mô hình của họ, mà phải cải biến, sáng
tạo chúng thành các giá trị văn hoá mới của Việt Nam, sắp xếp lại các thang
giá trị cho thích hợp, cải biến, sáng tạo ra các hình thức mới để biểu đạt sâu

sắc nội dung giá trị văn hoá Việt Nam, tạo ra thế và lực phát triển văn hoá dân
tộc Việt Nam.
Tiến tới hiện đại hoá mọi lĩnh vực đất nước trong đó có văn hoá theo
hướng toàn cầu hoá. Điều đó không có nghĩa là đồng nhất hoá các giá trị và
các tiêu chí văn hoá dân tộc với mọi nền văn hoá khác. Điều này đã được
Tổng thư ký UNESCO cảnh báo: “Xu hướng toàn cầu hoá có thể gây phương
hại tới tính sáng tạo và đa văn hoá của thế giới, tạo ra sự đồng nhất nghèo nàn
về văn hóa".
Chúng ta thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nhằm làm phong
phú và hiện đai hoá văn hoá Việt Nam, làm đậm đà và bền vững thêm bản sắc
văn hoá của mình, chứ không để cho nó bị hoà tan, làm sao dân tộc Việt Nam,
con người Việt Nam được sống trong một xã hội hiện đại với nền văn hoá đặc
sắc của chính mình
2.2. Phát triển văn hoá, bồi dưỡng con người mới xã hội chủ nghĩa.
- Xuất phát từ quan điểm “Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được
với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến nhân tố con người trong cách
mạng, nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của con người trong việc cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Vì vậy đi đôi với việc xây dựng kinh tế,
17


ChủtịchHồCHí Minh hếtsức chăm lo đến sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo
dục, y tế... bồi dưỡng con người cả về thể chất lẫn tinh thần, coi việc hoàn
thiện con người vừa là mục tiêu, vừa là nhân tố tạo ra động lực cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục. Trong
nhiều lần đi nói chuyện tại các trường, Người chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo
ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà... đó là trách nhiệm nặng
nề, nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ”.

Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ văn hoá, Người nhận xét: “Cả về mặt
chính trị, tư tưởng, tinh thần trách nhiệm cũng như cả về các mặt nghiệp vụ,
nghệ thuật, kỹ thuật, văn hoá, chúng ta vẫn còn thấp. Cho nên mọi người phải
ra sức học tập thêm”. Người yêu cầu “văn hoá phải phục vụ đại đa số nhân
dân, muốn thế văn hoá phải đi sâu vào trong đời sống của quần chúng, phải
đến với đồng bào Mèo, đống bào Mán ở rẻo cao, chứ không phải chỉ loanh
quanh trong thành phố”.
Trong thư gửi Hội nghị cán bộ thể dục thể thao, Người căn dặn: “Muốn
lao động sản xuất tốt, công tác và học tập tốt thì cần có sức khoẻ. Muốn giữ
sức khoẻ thì nên thường xuyên tập thể dục thể thao.Vì vậy chúng ta phải phát
triển phong trào thể dục thể thao rộng khắp”.
Quan tâm xây dựng con người một cách toàn diện, nhưng
ChủtịchHồCHí Minh chútrọng hàng đầu việc giáo dục tư tưởng và đạo đức
cách mạng. Người đã nhiều lần khẳng định một luận điểm nổi tiếng: “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa” ... “Muốn
thành người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phải chống
chủ nghĩa cá nhân, phải có tinh thần làm chủ đất nước, chống tư tưởng làm
thuê, làm mướn ngày trước”
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người mới xã hội nghĩa trước hết phải
là người có ý thức làm chủ đất nước, có tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa,
“mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Giác ngộ xã hội chủ nghĩa tức là
18


trên bất kỳ lĩnh vực nào cũng phải hiểu rõ nghĩa vụ vẻ vang của mình là lao
động cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Con người mới xã hội chủ nghĩa là con người không chỉ biết lo cho bản thân
mình mà đồng thời còn biết chăm lo cho lợi ích mọi người, một lòng một dạ
phục vụ chủ nghĩa xã hội.
Con người mới xã hội chủ nghĩa không những có giác ngộ chính trị cao

mà còn phải có văn hoá, có kiến thức khoa học và nghiệp vụ giỏi. Người nói:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức”. “Thế giới
ngày nay đang tiến những bước khổng lồ về mặt kiến thức của con người.
Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội không ngừng mở rộng ra chân
trời mới, con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên, cũng như làm chủ
được vận mệnh của xã hội và của bản thân mình”. Vì vậy, Người đòi hỏi cán
bộ, đảng viên phải thạo về chính trị, giỏi về chuyên môn, tức là “trước hồng
sau chuyên” mà “hồng” thì phải đến nơi và “chuyên” thì phải đến chốn”
Con người mới xã hội chủ nghĩa phải có đạo đức. Người làm cách mạng
phải có đạo đức cách mạng, đó là một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được Người sớm nêu lên từ trang đầu của tác phẩm Đường cách mệnh. Tháng
2/1958 dưới bút danh Trần Lực, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài đạo đức
cách mạng, một tác phẩm quan trọng, xuất hiện kịp thời vào bước chuyển từ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tác
phẩm đề cập đến những nội dung cơ bản của đạo đức mới, đạo đức xã hội chủ
nghĩa, thể hiện sự kết hợp những giá trị truyền thống dân tộc với những
nguyên lý của chủ nghĩaMác – Lêninvềđạođức.
Người khẳng định “đạo đức là cái gốc của người cách mạng”.Vì cách
mạng là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, gian khổ, “sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi xa.Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới
hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang”.
- Về nội dung đạo đức cách mạng, Ngưòi chỉ rõ: “Nói tóm tắt, thì đạo
đức cách mạng là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho đảng, cho cách mạng. Đó
19


là điều chủ chốt nhất”.“Đặt lợi ích của đảng và của nhân dân lao động lên
trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình.Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.Vì
đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên mình, gươngmẫutrngmọicôngviệc”.
Đảng ta là một đảng có tính chất quần chúng.Vì vậy đạo đức cách mạng là

hoà mình với quần chúng thành một khối, tin tưởng, hiểu quần chúng, lắng nghe
ý kiến của quần chúng. Do lời nói việc làm của đảng viên, đoàn viên và cán bộ
làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chung quanh đảng, tổ
chức, tuyên truyền và cổ động quần chúng găng hái thực hiện chính sách và nghị
quyết của đảng”
Để tu dưỡng đạo đức cách mạng, người cán bộ, đảng viên phải chống lại
ba thứ kẻ thù: “Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ thù rất nguy hiểm”.
“Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to”. “Loại địch thứ ba là
chủ nghĩa cá nhân... Nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia”, là một trở ngại
lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội”, vì “chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng
trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô,
lãng phí...”. Vì vậy người kết luận: “Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung
ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”
Tuy nhiên người cũng phân biệt rõ “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân.Mỗi người đều có tính cách riêng,
sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình mình.Nếu những lợi
ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu”. Vả lại
“không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá
nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”. Cần nhớ rằng, trong xã hội ta, “lợi ích cá nhân
là nằm trong lợi ích tập thể... lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi
ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn”
- Về phương pháp tu dưỡng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Không phải chỉ ở tại nhà trường, có lên lớp mới có học tập, tu dưỡng rèn
luyệnvàtựcỉatạođược”mà phải đi vào rèn luyện trong thực tiễn hoạt động cách
20


mạng, bởi vì đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó đấu tranh
rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố “cũng như ngọc càng mài

càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Không chỉ giáo dục về mặt đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự mình
nêu cao tấm gương tuyệt vời trong sáng về đạo đức cách mạng cho toàn Đảng
toàn dân noi theo, đúng như Người đã viết: “Có gì sung sướng, vẻ vang hơn
là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”.
KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng thế giới đang diễn ra sự chuyển đổi mô hình phát triển
trong ý tưởng về bản chất của sự tăng trưởng và sự phát triển, hướng đến một
nhận thức về vai trò của văn hoá trong việc tác động đến các hoạt động kinh
tế ở các cộng đồng nhỏ và các cộng đồng lớn và đặc biệt nhấn mạnh các quá
trình tăng trưởng và sự thay đổi ở các nước đang phát triển. Trung tâm của sự
chuyển đổi này là việc định hướng lại tư duy phát triển từ một mô hình phát
triển lấy hàng hoá vật chất làm trung tâm sang mô hình lấy con người làm
trung tâm. Sự chuyển đổi trong tư duy phát triển này ngày càng hiện hữu
trong chính sách của nhiều quốc gia trên thế giới. Khẳng định điều đó cho
chúng ta nhận thức rõ hơn cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn của chiến lược
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mà Đảng ta đã đề ra: văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là
mục tiêu, là động lực cho sự phát triển của đất nước.

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

PGS, TS Đinh Xuân Dũng: Mấy cảm nhận về văn hoá. Nxb

CTQG. HàNội – 2004

2.

PGS.TS Hoàng Đình Cúc, “Chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị-Hành chính,
Hà Nội - 2009.
3. PGS.TS Phạm Duy Đức, “Thành tựu trong xây dựng và phát triển văn
hóa Việt Nam 25 năm đổi mới (1986-2010), Nhà xuất bản Chính trị Quốc
Gia, Hà Nội - 2010.
4.

PGS.TS Trần Thị Anh Đào, “Lãnh đạo và quản lý văn hóa”, Học

Viện Báo chí và tuyên truyền, Hà Nội - 2011.

22



×