Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Phân tích diễn biến tâm trạng của thúy kiều trong đoạn trích kiều ở lầu ngưng bích của nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.65 KB, 9 trang )

Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng
Bích của nguyễn du
- Mộng Liên Đường đã từng nói: “Nguyễn Du có con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng
nghĩ suốt cả nghìn đời”. Và với con mắt tinh tế, nhạy cảm nhất, Nguyễn Du đã nhìn thấu
tâm hồn Thúy Kiều để rồi thấu hiểu mọi tâm tư, nỗi lòng của nàng bằng cả trái tim yêu
thương và trân trọng. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã rất thành công trong việc
miêu tả tâm trạng nàng Kiều với những diễn biến tâm lí đặc sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ
cho người đọc.
- Thúy Kiều là một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng nàng phải nếm trải một cuộc đời đầy
sóng gió, chìm nổi. Người con gái giữa tuổi thanh xuân tươi đẹp ấy phải hi sinh mối tình
đầu dang dở để làm tròn chữ hiếu. Khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh đầy cay đắng
và tủi nhục, nàng đã định tự vẫn kết liễu cuộc đời mình nhưng Tú Bà độc ác đã giam lỏng
nàng ở lầu Ngưng Bích. Thúy Kiều đã phải một mình đối chọi với sự cô đơn, trống
trải đến tuyệt vọng giữa không gian mênh mông, hoang vắng ở nơi đây:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya


Nửa tỉnh nửa cảnh như chia tấm lòng.

+ “Khóa xuân” nghĩa là khóa kín tuổi xuân, chôn vùi tuổi thanh xuân tươi đẹp ở nơi đây.
Ở lầu Ngưng Bích lúc này Kiều chỉ có một mình, quạnh hiu và trơ trọi, chỉ biết làm bạn
với ánh “trăng gần” và thiên nhiên quanh lầu Ngưng Bích mà thôi. Nhìn ra xung quanh là
cả một không gian bao la xa vời. “Bốn bề” là “cát vàng”, là “bụi hồng”, không một nếp
nhà, không một bóng người. Dường như cảnh vật bị bao trùm bởi một nỗi buồn nặng trĩu,
u uất. Nỗi buồn đau trong Kiều đang thấm vào cảnh vật, hòa vào cảnh sắc thiên nhiên.
Cuộc sống của Kiều như bị tách khỏi thế giới bên ngoài, không một chỗ đứng, chơ vơ, lơ


lửng trên một tòa lầu cao ngất. Kiều cố đưa ánh mắt nhìn ra xung quanh, mong ngóng tìm
thấy bóng dáng của con người nhưng vô vọng. Trước mắt nàng chỉ là cồn cát hoang vu,
bụi đường gió cuốn mịt mùng. Không gian dường như trải dài vô tận, rất hoang vắng,
quạnh hiu, buồn thương như chính tâm trạng của Kiều vậy!

+ Tháng ngày đằng đẵng trôi qua, trang trải với dòng thời gian tuần hoàn khép kín: sớm
làm bạn với mây trời, đêm đến làm bạn với ánh đèn khuya leo lét...cuộc đời dài cô độc,
mòn mỏi, không sức sống, không một niềm tin hi vọng. Không một ai hiểu được tâm
trạng của nàng, chia sẻ với nỗi buồn đau trong nàng, chỉ có một mình nàng đối diện với
chính bản thân mình. Nỗi buồn vì thế mà ngày càng giằng xé, không khi nào cạn vơi và
dường như mở ra vô cùng với không gian, cảnh vật. Thúy Kiều bỗng thấy mình thật nhỏ


bé, đáng thương, khác chi hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi ngoài kia? Khung cảnh nhuốm màu
tâm trạng càng khắc sâu nỗi cô đơn, buồn tủi của Thúy Kiều. Bốn chữ “như chia tấm
lòng” đặc tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau đớn. Ta như đồng cảm với Thúy
Kiều, buồn chung nỗi buồn trong lòng nàng. Một đời tài sắc, hiếu nghĩa, thủy chung bị
giam hãm, còn gì đáng thương, đáng tiếc hơn thế?
- Không tìm được niềm an ủi nơi cảnh vật, nàng trở về với lòng mình: nỗi nhớ nhà,
nhớ người yêu dày vò tâm can không khi nào nguôi.
+ Nàng nhớ đến chàng Kim – người mà mới đây thôi nàng nặng lòng thề nguyền:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ

Thúy Kiều đang hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc bên người mình yêu thương.
Chén rượu thề nguyền dưới ánh trăng giữa nàng với Kim Trọng vẫn còn đang hiện hữu
mồn một trong tâm trí nàng. Tình yêu đẹp đẽ, trong sáng vừa nảy nở bỗng nhiên bị chia
phôi. Nàng nhớ Kim Trọng, nhớ lại lời thề ước nhưng chính nàng đã phụ lời thề, phụ
chàng Kim. Chữ “tưởng” ở đây có thể xem là một nhãn tự. Nguyễn Du không dùng chữ

“nhớ” mà dùng chữ “tưởng”. Tưởng vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người
mình yêu. Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu mình cũng đang
hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng. Nhưng chàng đâu có hay biết,


Thúy Kiều đã thuộc về người khác, tự bán thân vào nơi hang hùm, miệng rắn, đang một
mình bơ vơ nơi góc bể chân trời ngày ngày ngóng trông:
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

“Tấm son” ở đây là tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng đối với Kim Trọng. Nhưng
giờ đây đâu còn nguyên vẹn như trước nữa!Tình yêu mà nàng danh cho chàng Kim sẽ
mãi mãi không thay đổi, không bao giờ phôi pa, mờ nhạt, thế nhưng...tấm lòng son sắt
trong trắng đã bị vùi dập, hoan ố, không biết bao giờ gột rửa cho sạch. Đó chính là điều
khiến nàng đau đớn, xót xa nhất, trái tim nàng đã nát tan. Nàng thấy mình không còn
xứng đáng với Kim Trọng nữa, không xứng đáng với tình yêu bấy lâu chàng dành cho
mình. Nỗi ân hận, đắng cay đang trào dâng trong nàng, dày vò, cắt rứt lương tâm người
con gái...Các động từ “tưởng”,”trông”,”chờ”,”bơ vơ”,”gột rửa”,”phai” đã liên kết thành
một hệ thống ngôn ngữ độc thoại đặc sắc cực tả tâm trạng Thúy Kiều. Cái tình trong ngòi
bút của Nguyễn Du đã chạm tới cái hồn sâu thẳm trong Kiều...
+ Nhớ chàng Kim rồi Kiều xót thương cha mẹ nơi quê nhà:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm


Chữ “xót” diễn tả tấm lòng Kiều dành cho đấng sinh thành. Nàng xót xa vô hạn nghĩ đến
hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con, hay
mong chờ con đến đỡ đần. Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người “quạt nồng ấp


lạnh” chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay. Tác giả đã sử dụng các thành ngữ “rày trông
mai chờ”, “quạt nồng ấp lạnh”, “cách mấy nắng mưa” và các điển tích, điển cố “sân
Lai,gốc Tử” để nói lên tâm trạng nhớ thương, lo lắng và tấm lòng hiếu thảo của Kiều
dành cho cha mẹ. Thúy Kiều vô cùng day dứt, ân hận vì đã phụ công dưỡng dục, sinh
thành của cha mẹ. Những lúc cha mẹ cần chăm sóc, cần đỡ đần nhất thì mình lại không
có ở bên để phụng dưỡng. Điều đó khiến nàng cắt rứt biết bao nhiêu.
+ Lưu lạc, bơ vơ, trăm cay nghìn đắng, nhưng Kiều vẫn nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ,
cho người mình yêu. Tình cảm ấy thật thiết tha, nhân hậu, đáng quý, đáng trọng biết
nhường nào! Tại sao Nguyễn Du lại để nàng Kiều nhớ đến người yêu trước chứ không
phải là nhớ đến cha mẹ trước tiên? Bởi vì, Thúy Kiều cho rằng, việc nàng bán mình
chuộc cha và em cũng là một phần đáp đền chữ hiếu cho cha mẹ. Nhưng đối với chàng
Kim, nàng chưa đáp đền được tình cảm cho nàng mà còn phụ lời ước nguyện, phụ tình
yêu đầu đẹp đẽ. Như vậy, Thúy Kiều là một người con gái thấu tình đạt lí, hiểu tường tận
lí lẽ ở đời. Nàng vừa là người con hiếu thảo, vừa là người tình thủy chung. Nguyễn Du đã
sử dụng những ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và nét riêng


độc đáo trong miêu tả tâm trạng nhân vật tạo nên những vần thơ biểu cảm, thấm thía
nghĩa tình mà tràn ngập niềm xót thương vô hạn.
- Sau nỗi nhớ thương là nỗi buồn đau tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên... Nỗi
buồn đau như giằng xé tâm can, cứ xiết chặt lấy tâm hồn nàng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiêng sóng kêu quanh ghế ngồi.


Bức tranh phong cảnh nhuốm màu buồn tê tái. Nguyễn Du đã lấy khung cảnh thiên nhiên
làm nền cho sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Cảnh vật đượm buồn một vẻ thê
lương, chia lìa tan tác bởi nó được nhìn qua tâm trạng của Thúy Kiều. Nỗi buồn mỗi lúc
một thấm thía, nỗi buồn vời vợi mênh mông giờ đã đọng thành khối trong lòng Kiều.
“Buồn trông” là buồn mà nhìn xa, buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm
thay đổi cuộc sống hiện tại. Nhưng trông mà vô vọng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm


Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?

Thúy Kiều trông về “cửa bể chiều hôm”. Bầu trời đã dần tối, tối như chính cuộc đời nàng
Kiều – tối tăm, u ám, không lối thoát. Trên cái nền trống vắng ấy xuất hiện một chiếc
thuyền “thấp thoáng”, “xa xa” lạc lõng, cô đơn. Cánh buồm mờ mờ, ảo ảo, chợt ẩn, chợt
hiện không rõ, mơ hồ như ảo ảnh ở phía cuối chân trời. Con thuyền ấy cũng cô đơn, cũng
lưu lạc một mình, lạc lõng giữa đất trời mênh mông. Con thuyền ấy có khác chi cuộc đời
Kiều đơn độc, vô định, lặng lẽ trôi giữa dòng đời trôi nổi...
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Trước mắt Kiều là dòng nước chảy trôi vô định. Nước chảy làm cánh hoa “trôi man
mác”, bồng bềnh, lặng lẽ, buồn bã, không phương hướng... Cuộc đời Kiều nào có khác
thế? Cuộc đời Kiều giờ đây cũng mỏng manh tan tác, vô định như cánh hoa kia, không

biết phiêu dạt đến phương trời xa xăm nào nữa...Lòng đã buồn, cảnh lại quá đỗi buồn
thương...

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh



Lại một cảnh mênh mông hoang vắng... “nội cỏ rầu rầu” dàn trải típ tắp tới tận chân trời
xa. Vẫn không có một bóng cây, chẳng một bóng nhà để phá bớt cái màu xanh đơn điệu
ấy. Màu cỏ không phải là màu xanh tươi tốt mà “rầu rầu” buồn bã, héo hắt không chút
sức sống. Ấy thế mà màu xanh ấy cứ trải rộng ra mãi, nối tiếp với vùng trời mênh mang
mờ mịt. Màu xanh ấy nhợt nhạt,xa xôi làm gợi lên một nỗi niềm ngao ngán tẻ nhạt vô
cùng. Và có lẽ, màu xanh ấy là màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau
của Thúy Kiều. Tương lai của nàng cũng mờ mịt, ủ ê như chính sắc cỏ vậy...không sức
sống, không niềm tin, vô vọng và đầy ngao ngán...
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiêng sóng kêu quanh ghế ngồi

Dường như đến đây, nỗi buồn đã dâng cao đến đỉnh điểm, đang trào dâng mạnh mẽ như
vỡ ra trong lòng Kiều. Gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn, trắng xóa một
màu. Sóng gào thét “ầm ầm” như chực cuốn phăng đi tất cả mọi thứ hiện hữu, kể cả Kiều.
Nàng cảm nhận thấy tiếng sóng đang bủa vây xung quanh, như bao bọc lấy nàng, xiết
chặt, gào thét trong tâm hồn nàng. Thúy Kiều dường như không còn lối thoát. Từng lớp
sóng như muốn nhấn chìm nàng xuống vực thẳm đáng sợ! Chi tiết này đã dự báo trước
cuộc đời nàng sẽ vẫn còn nhiều sóng gió, hiểm họa phía trước. Kiều đã phải gánh chịu
quá nhiều thương đau, mất mát vậy mà vẫn chưa đủ, dòng đời vẫn cuốn nàng đi, xô đẩy,


vùi dập số phận mong manh nhỏ bé của nàng...
Một lần nữa, Nguyễn Du đã chạm ngòi bút đến đáy sâu tâm hồn Thúy Kiều. Mỗi câu thơ,
mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả ngoại cảnh đều mang ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ,
một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và bất hạnh của một người con gái tài sắc. Nguyễn
Du đã sử dụng hàng loạt những từ láy “thấp thoáng”,”xa xa”, “man mác”,”rầu rầu”,”xanh
xanh”,”ầm ầm” tạo nên âm điệu trầm buồn ghê sợ. “Buồn trông” được lặp lại bốn lần ở
đầu câu như cất lên tiếng kêu ai oán, đau thương não nề. Tám câu thơ khổ cuối như một

bài ca buồn cất lên thổn thức khiến người đọc rưng rưng xúc động. Nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật của Nguyễn Du vô cùng đặc sắc và tinh tế đã khắc họa lên bức tranh tâm
trạng Thúy Kiều vừa có màu sắc, vừa có âm thanh. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của
Nguyễn Du rất điêu luyện. Cảnh mang hồn người, cảnh và tình hòa hợp, sống động, giàu
trị biểu cảm. Tám câu thơ cuối là linh hồn của cả đoạn thơ, để lại trong lòng người đọc
những âm vang mạnh mẽ nhất!
=> Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện được tài năng miêu tả, phân
tích tâm lí nhân vật bậc thầy của Nguyễn Du. Đoạn trích cũng thể hiện được tư
tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du, nhà thơ đã bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với
số phận bất hạnh của những con người tài hoa, bạc mệnh.



×