Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Dấu ấn thiên chúa giáo trong ông già và biển cả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.24 KB, 33 trang )

Dấu Ấn Thiên Chúa Giáo qua
Ông Già Và Biển Cả


MỤC LỤC

DẪN NHẬP................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.....................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................3
6. Kết cấu tiểu luận................................................................................... 4
NỘI DUNG.................................................................................................... 5
1. Giới thiệu chung................................................................................... 5
1.1. Tác giả Ernest Hemingway..........................................................5
1.1.1. Bối cảnh lịch sử.................................................................5
1.1.2. Xuất thân và hoàn cảnh gia đình.......................................6
1.1.3. Bản thân tác giả.................................................................7
1.1.4. Sự nghiệp và các tác phẩm tiêu biểu..................................9
1.2. Khái quát tác phẩm Ông già và biển cả....................................10
1.2.1. Ý nghĩa nhan đề...............................................................10
1.2.2. Tóm tắt tác phẩm............................................................10
1.2.3. Nội dung và hình thức tác phẩm......................................13
2. Dấu ấn Thiên Chúa giáo trong Ông già và biển cả..............................14


2.1.Nguồn gốc mối liên hệ giữa Thiên Chúa giáo và tác phẩm.........14
2.1.1.Nguồn gốc khách quan.....................................................14
2.1.2. Nguồn gốc chủ quan........................................................15
2.2. Những chi tiết biểu hiện dấu ấn Thiên Chúa trong tác phẩm.....16


2.2.1. Chi tiết bề mặt (phần nổi)................................................16
2.2.2. Chi tiết ẩn dấu.................................................................18
2.3. Liên hệ tương quan giữa kinh thánh và tác phẩm......................19
2.3.1. Các dụ ngôn, câu truyện trong kinh thánh........................19
2.3.2. Niềm tin của nhân vật Xantiagô vào Thiên Chúa.............23
3. Ý nghĩa Tôn giáo thể hiện qua tác phẩm và sự vận dụng vào thực
tiễn nước ta............................................................................................. 24
3.1. Những ý nghĩa đạo Thiên Chúa qua tác phẩm...........................24
3.2. Sự vận dụng ở xã hội Việt Nam.................................................26
3.2.1. Phạm vi người theo Thiên Chúa giáo..............................26
3.2.2. Phạm vi toàn xã hội.........................................................27
KẾT LUẬN.................................................................................................. 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................30


DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Lời đầu tiên, tôi với tư cách một sinh viên Đại học có thể khẳng định rằng, Ông già và
biển cả của Ernest Hemingway được xem là tác phẩm văn học quá đỗi quen thuộc. Bởi vì
ngay ở chương trình phổ thông, thiên tiểu thuyết ngắn này đã được lựa chọn và đưa vào
giảng dạy tương đối phổ biến. Tác phẩm luôn là nguồn cảm hứng để các thầy cô đưa vào
các đề thi, nhất là những cuộc thi tuyển chọn ở bộ môn ngữ văn.
Nhìn lại lịch sử, màu sắc văn học cũng như chế độ chính trị thì một tác phẩm của một
tác giả phương Tây và còn xuất xứ từ nước Mỹ lại được thịnh hành ở Việt Nam là điều vô
cùng đặc biệt. Nguyên nhân khá dễ hiểu, tác phẩm Ông già và biển cả nói riêng và những
trang viết của Ernest Hemingway nói chung luôn tập trung vào những người lao động
nghèo khổ, thấp cổ bé họng. Dù gặp muôn vàn khó khăn nhưng con người mà tác giả
khắc họa không bao giờ bỏ cuộc và có niềm hy vọng về cuộc sống tốt đẹp. Điều đó đã
đánh đúng, đánh trúng vào tâm lý xã hội Việt Nam là đề cao lý tưởng tiến bộ, vì nhân loại
và hạnh phúc của mọi người.

Mặc dù Việt Nam mang chế độ cộng sản (vô thần) nhưng trong quá trình mở cửa, hội
nhập với thế giới vấn đề tự do tôn giáo trở nên khá cởi mở. Đối với đạo Thiên Chúa
(Công giáo), xuất phát từ các nước phương Tây vào nước ta có cơ hội được phát triển
trên nhiều phương diện. Ở phạm vi giáo dục, đặc biệt trong chương trình giảng dạy Đại
học, Cao đẳng... giảng viên và học sinh sẽ có nhiểu điều kiện để bàn luận, nghiên cứu và
khai thác ở nhiều góc cạnh về đề tài đạo Thiên Chúa. Cho nên một tác phẩm xuất sắc như
Ông già và biển cả thì màu sắc Thiên Chúa giáo không thể bỏ qua.
Với một sinh viên có thiện cảm với đạo Công giáo, tôi luôn mong muốn tìm hiểu về
nét đẹp và sự văn minh nơi tôn giáo này. Điều quan trọng, việc đi đến lựa chọn “ Dấu ấn
Thiên Chúa giáo trong Ông già và biển cả của Hemingway” làm đề tài nghiên cứu
cho tiểu luận là để có thể làm sáng tỏ về mối liên hệ giữa màu sắc văn chương và đạo
Thiên Chúa giáo trong nền văn học phương Tây hiện đại.

1


2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Như đã trình bày ở phần trên, tác phẩm Ông già và biển cả đã được đưa vào chương
trình dạy học từ rất sớm ở hệ phổ thông cũng như Đại học, Cao đẳng. Tuy nhiên, cho đến
bây giờ những vấn đề liên quan đến đạo Thiên Chúa thể hiện trong thiên tiểu thuyết còn
hạn chế, chưa nói là rất hiếm được quan tâm đề cập đến. Họa may, nếu có nói đến cũng
chỉ lướt qua và trình bày một cách sơ lược. Thậm chí, nhiều khi việc trình bày vấn đề lại
không đúng với bản chất của tác phẩm cũng như dụng ý mà tác giả Hemingway muốn nói
đến về niềm tin vào Thiên Chúa.
Những cái tên đáng chú ý như Lê Huy Bắc, Đặng Anh Đào, Huy Phương, Lê Đình Cúc,
Bùi Thị Kim Hạnh, Phong Lê, Huy Liên…đã có nhiều công trình nghiên cứu về tiểu
thuyết Ông già và biển cả như sau:
- Lê Huy Bắc, E. Hemingway – Núi băng và hiệp sĩ, NXB Giáo dục, HN,1999.
- Lê Huy Bắc (Tuyển chọn), E. Hemingway – Những phương trời nghệ thuật, NXB Giáo
dục, HN,2001.

- Lê Đình Cúc, Tiểu thuyết của Hemingway, NXB Khoa học Xã hội, HN, 1999.
- Đặng Anh Đào, Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB Giáo dục,
HN, 1999.
- Lê Huy Bắc, Văn học Âu – Mỹ thế kỷ XX, NXB Đại học sư phạm, HN, 2011….
Dẫu việc đề cập đến dấu ấn Thiên Chúa giáo trong Ông già và biển cả quá hạn chế
của những công trình nghiên cứu trên, tuy nhiên đó cũng là một lợi thế để cho người viết
tạo ra sự mới mẻ, đánh dấu bước đột phá khi nghiên cứu đề tài “Dấu ấn Thiên Chúa
giáo trong Ông già và biển cả của Hemingway” ở tiểu luận này.
3. Mục đích nghiên cứu
Có thể nói cả cuộc đời Hemingway cống hiến cho hòa bình thế giới, sẵn sàng lao vào
hiện thực cuộc sống chiến tranh khốc liệt để cho ra những trang viết sống động và chân
thật nhất. Ông không chỉ là biểu tượng lớn của nền văn học Mỹ nói riêng mà của cả văn
học nhân loại nói chung. Các sáng tác của ông không lột tả một cách trần trụi, lời văn tuy
nhẹ nhàng, bịnh dị nhưng lại có sức thẩm thấu rất lớn.

2


Tác phẩm Ông già và biển cả là đỉnh cao trong sự nghiệp của Hemingway. Mọi tinh
túy văn chương, con người nhà văn được thể hiện hết trong tác phẩm. Nó không chỉ là tác
phẩm văn học thuần túy phản ánh hiện thực cuộc sống, về những con người nhỏ bé
đương đầu với thiên nhiên bao la rộng lớn nhưng họ không bao giờ bỏ cuộc và luôn có
một khát vọng và niềm tin vào tương lai tươi sáng. Không dừng lại ở đó, theo nguyên lý
tảng băng trôi, ẩn trong đó còn nhiều lớp ý nghĩa về nhân sinh về văn hóa, niềm tin tôn
giáo mà tác giả muốn gửi gắm.
Bởi vậy, tìm hiểu đề tài để làm rõ tảng băng niềm tin vào Thiên Chúa ẩn dấu trong tác
phẩm Ông già và biển cả. Qua đó cũng giúp ta thêm hiểu biết về con người, cuộc sống và
niềm tin tâm linh của Hemingway. Bên cạch đó, một mục đích khác nữa khi người thực
hiện đề tài này muốn hoàn thiện hơn vốn kiến thức văn học cũng như về lịch sử, màu sắc
văn hóa - tôn giáo phương Tây để phục vụ cho việc học ở thực tại và tương lai sau này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi tập trung vào những chi tiết có
liên quan đến niềm tin vào Thiên Chúa trong tác phẩm Ông già và biển cả. Từ đó đề tài
sẽ mở rộng tìm hiểu mối liên hệ giữa màu sắc văn học và tôn giáo ở phương Tây cũng
như sự vận dụng ở nước ta trước và nay.
Ngoài tiểu thuyết Ông già và biển cả, còn sử dụng nội dung các cuốn sách của đạo
Thiên Chúa giáo như 2 bộ sách kinh điển Tân Ước và Cựu Ước, tập Thánh ca, thư gửi
của các thời Giáo hoàng - các Thánh…
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này tôi áp dụng nhiều phương pháp trong việc nghiên cứu như: Phân
tích, liệt kê, khảo sát, tổng hợp, chứng minh, bình giảng, so sánh, đối chiếu…, nhằm làm
rõ luận điểm bằng những lý lẽ đi kèm dẫn chứng cụ thể để giải quyết những yêu cầu của
đề tài đặt ra.

3


6. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì tiểu luận có nội
dung chính 3 chương.
-

Chương 1: Giới thiệu chung

-

Chương 2: Dấu ấn Thiên Chúa giáo trong Ông già và biển cả

-


Chương 3: Ý nghĩa Tôn giáo thể hiện qua tác phẩm và sự vận dụng vào thực
tiễn nước ta

4


NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung
1.1. Tác giả Ernest Hemingway
1.1.1. Bối cảnh lịch sử
Hemingway trải qua hai cuộc chiến tranh khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại, cuộc
chiến tranh thế giới thứ I (1914 - 1918) và cuộc chiến tranh thế giới thứ II (1937 - 1945).
Có thể nói, đây là giai đoạn biến động kéo dài và có tác động sâu sắc nhất đến con người
cũng như sự nghiệp văn chương của Hemingway.
Mặc dù đang là một nhà báo đầy triển vọng nhưng ông không chịu an phận ngồi salon
để cho ra những trang viết, mà thay vào đó chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết lúc bấy giờ đã
dấn thân vào thực tiễn, khi ông tình nguyện tham gia vào Quân đội Mỹ để chứng kiến
những hoạt động trong Chiến tranh thế giới I. Sau đó, Hemingway rời nước Mỹ đến châu
Âu rồi tham gia chống quân Đức xâm lược trong hàng ngũ quân đội Ý với vai trò là một
chiến sỹ quân y. Năm 1918 ông bị thương khá nặng khi liều mình cứu một chiến binh
người Ý trên chiến trường. Nhưng thật may mắn, Hemingway thoát chết. Trên cơ thể ông
chằng chịt các vết thương lớn nhỏ. Nhà vua Ý đã tặng thưởng ông Kỷ niệm chương “Chữ
thập quân sự” và Huy chương “Vì lòng dũng cảm”. Ông kết thúc quãng đời chiến sĩ tình
nguyện này với gần 250 mảnh đạn đại bác mang trên mình và lưu lại Pháp cho đến năm
1925.
Năm 1936, cuộc nội chiến Tây Ban Nha diễn ra, Hemingway làm phóng viên về nội
chiến Tây Ban Nha cho tờ North American Newspaper Alliance (Liên minh Báo chí Bắc
Mỹ). Giai đoạn này, ông hoạt động báo chí rất tích cực.
Bước ngoặc ở chiến tranh thế giới II khi Hoa Kỳ tham gia vào ngày 8 tháng 12, 1941,
và lần đầu tiên trong cuộc đời mình, Hemingway tham gia chiến đấu với vai trò chiễn sĩ

thực thụ trong hàng ngũ một lính hải quân.
Hình ảnh Hemingway được phát họa cụ thể qua các cây viết bình luận phương Tây là
một nhà văn kì dị, ưa mạo hiểm và sẵn sàng dấn thân cho lý tưởng nhân văn của nhân
5


loại, “con người với nước da rám nắng và bộ râu trắng bạc, từng đi khắp năm châu
mang bên mình một khẩu sung Carabin nhiều hơn là một cây bút máy hoặc một cái máy
đánh chữ”. Sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động với chiến tranh xảy ra liên
tục, Hemingway đã chứng kiến biết bao số phận đau khổ, những số phận bi đát những
cuộc đời bị chiến tranh tàn phá đến kiệt quệ, thậm chí cướp mất tính mạng trắng trợn.
Ông tìm được sự đồng cảm với những số phận con người nhỏ bé, yếu thế và chọn họ làm
hình mẫu sáng tác của mình. Đi nhiều, viết nhiều nên những sáng tác của Hemingway
thường ngắn gọn, súc tích, ông viết về những con người khắc kỉ và ông ca ngợi sự mạnh
mẽ, khát khao cháy bỏng không hề yếu đuối trước số phận nghiệt ngã của họ.
Tóm lại, những gì Hemingway đi qua, nhìn thấy và nếm trải… đã tạo nên những chất
liệu vô cùng quý giá cho sự nghiệp sáng tác đồ sộ của ông. Bởi vậy, sự thành công của
văn chương chính là hiện thực xã hội được phản ánh chân thật nhất trên các trang viết, và
Hemingway đã làm điều đó quá xuất chúng. Ông không chỉ là nhà văn lớn mà còn là cái
tên không thể nào quên của những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
1.1.2. Xuất thân và hoàn cảnh gia đình
Hemingway là người con trai đầu tiên và là người con thứ hai trong số 6 người con
của bác sĩ làng Clarence Edmonds Hemingway và bà Grace Hall Hemingway đã sinh ra.
Cha của Hemingway rất mong chờ sự ra đời của Ernest, cho nên đã thổi tù và mở tiệc
linh đình ngay tại hành lang trước nhà để thông báo cho những người hàng xóm rằng vợ
ông vừa sinh ra một cậu con trai.
Gia đình Hemingway sống trong một ngôi nhà sáu phòng ngủ theo lối Victoria được
xây dựng bởi người ông ngoại góa vợ của Ernest, Ernest Miller Hall, một người Anh
nhập cư, từng là quân nhân trong cuộc Nội chiến Mỹ (American Civil War) và đã chung
sống với gia đình khi còn sống. Hemingway có tên trùng với người ông ngoại này của

mình.
Mẹ của Hemingway trước kia mong muốn được trở thành nghệ sĩ opera và đã kiếm
tiền để đi học thanh nhạc. Bà là người độc đoán và rất sùng đạo, phản ánh cho quan niệm
đạo đức mang tính nghiêm ngặt của người theo đạo Tin lành tại Oak Park, mà
6


Hemingway sau này đã nhận định rằng có "những bãi cỏ rộng và những tư tưởng hẹp
hòi". Hemingway sau đó đi đến kết luận rằng mẹ ông đã chi phối bố ông tồi tệ đến mức
bà đã hủy hoại ông. Những người khác cho rằng bà bị rối loạn thần kinh chức năng. Nhà
thơ nổi tiếng Wallace Stevens đã đề cập đến trong một bức thư rằng Hemingway là người
duy nhất mà ông từng gặp "thực sự ghét mẹ của mình".
Dựa theo Trung tâm Tài Nguyên Hemingway, trong khi mẹ ông hi vọng rằng con trai
của bà sẽ bộc lộ sự hứng thú đối với âm nhạc thì Hemingway lại thừa hưởng từ cha mình
những sở thích như đi săn, câu cá và cắm trại trong những khu rừng và hồ vùng Bắc
Michigan. Gia đình ông sở hữu một ngôi nhà có tên Windemere trên Walloon Lake, gần
Petoskey, Michigan và thường nghỉ hè tại đó. Những trải nghiệm đầu đời khi sống gần
gũi với thiên nhiên này đã truyền cho Hemingway một niềm đam mê suốt đời đối với
những cuộc phiêu lưu ngoài trời và với cuộc sống trong những khu vực xa xôi, hẻo lánh.
Hemingway trải qua 4 đời vợ. Năm 1921, ở tuổi 22 tràn đầy sức lực và ham muốn tìm
tòi những cái mới của cuộc đời, ông cưới người vợ đầu tiên của mình, đó chính là Hadley
Richardson. Năm 1927 ông li dị với người vợ đầu tiên để cưới Polina Pleifer - một cô gái
người Mỹ xinh đẹp và giàu có. Năm 1940 ông li dị Polina và cưới nữ nhà báo Martha
Gelihorn. Và theo ông thì, ở Martha, ông đã tìm thấy được cái mà Polina không thể có
được. Cả hai đều là nhà báo và nhà văn. Martha cũng đã có cuốn tiểu thuyết “Điều đau
khổ tôi đã nhìn thấy” được đánh giá cao. Nhưng tình cảm say đắm và mãnh liệt đó của
ông với nữ nhà báo Martha cũng tan biến khi ông bất chợt bắt gặp một nữ phóng viên
khác là Mary Welsh. Trái tim ông đã bị chinh phục từ cái nhìn đầu tiên của nàng. Và nàng
cũng thích ông. Sau một tuần ông ngỏ lời cầu hôn Mary Welsh. Và ông chăm sóc cho
Mary rất chu đáo. Ông viết thư và làm thơ tặng nàng. Đây cũng chính là người vợ đã

sống với ông cho đến những ngày ông đi vào thế giới vĩnh hằng.
1.1.3. Bản thân tác giả
Ngày 21 tháng 7 năm 1899, thị trấn nhỏ bé Oak Pak Illinois, một vùng ngoại ô của
Chicago đón chào tiếng khóc đầu đời của một cậu bé mà sau này sẽ làm rạng danh cho
nền văn học Mỹ. Cậu bé đó là Ernest Hemingway. Sinh ra trong một gia đình trung lưu,
7


Hemingway chịu ảnh hưởng của cả cha lẫn mẹ. Nhưng về sau thì ông càng thoát xa ảnh
hưởng của cha mẹ ông. Nếu những giai điệu tiết tấu từ những bản nhạc của người mẹ đã
tạo ảnh hưởng đến tiết điệu ngôn từ của nhà văn Hemingway sau này, thì người cha lại
khơi dậy trong chú bé Hemingway lòng yêu thiên nhiên, thú vui săn bắn nhưng không
đam mê giết chóc và một lòng quả cảm tuyệt vời. Hemingway còn chịu nhiều ảnh hưởng
từ người cha cách giải thích sự vật, hiện tượng một cách cực kỳ đơn giản và hấp dẫn.
Điều này tạo nên dấu ấn riêng trong phong cách tự sự Hemingway.
Ngay từ khi còn học ở trường trung học, ông đã bắt đầu viết văn và tham gia vào các
hoạt động báo chí của trường. Năm 1917, ông rời trường trung học và thay vì đi học đại
học ông tới thành phố Kansas làm phóng viên cho tờ báo Star. Nhưng nghề phóng viên
không hấp dẫn ông được lâu, do ưa thích mạo hiểm Hemingway đã tình nguyện đăng ký
vào Hội đồng thập tự Hoa Kỳ và qua miền bắc nước Ý là tài xế xe cứu thương. Đến năm
1919, Hemingway trở về Hoa Kỳ, ông được đón tiếp như một vị anh hùng song ông cảm
thấy không thể nào hoà nhập vào không khí nơi đây. Vào năm 1920, ông đến Chicago và
cộng tác với tờ báo nổi tiếng “Diễn đàn Chicago”. Tháng 12 – 1921, ông sang Pháp và có
dịp tiếp xúc với nhiều văn nghệ sĩ Paris như Anderson, Getrrudestein…và chịu nhiều ảnh
hưởng của họ khá rõ nét khi mới bắt đầu sáng tác.
Từ 1922, chủ nghĩa phát xít Mussolini thắng thế ở Ý, Hemingway là một trong những
nhà văn sớm nhận ra tai họa của chủ nghĩa phát xít. Lúc bấy giờ có nhiều phóng viên Âu
- Mỹ xem Mussolini là chính khách lớn. Nhưng ngược lại, Hemingway miêu tả Mussolini
là tên mị dân, gian xảo đến mức độc ác khi đã che dấu những âm mưu xấu xa bằng chủ
nghĩa yêu nước giả dối và thực sự là ngốc cho những ai đem so sánh “hắn ta” với

Napoleon. Mặt khác, ông cũng không đồng ý với những ai đánh giá thấp “hắn ta”. Năm
1936, Hemingway tới Tây Ban Nha làm phóng viên về nội chiến Tây Ban Nha cho tờ
North American Newspaper Alliance (Liên Minh Báo chí Bắc Mỹ). Đại chiến thế giới lần
thứ II bùng nổ, ông sang Pháp xung phong vào một đội du kích và được vinh dự là một
trong những chiến sĩ đầu tiên trở về thành phố Paris giải phóng. Sau chiến tranh ông sang
sống một thời gian dài ở Cuba. Ông đón chào cách mạng Cuba với nhiệt tình của một nhà

8


văn yêu chuộng chính nghĩa và một người bạn thân thiết của người dân Cuba. Đây cũng
chính là mãnh đất để Hemingway sáng tạo ra tác phẩm Ông già và biển cả này.
Ngày 2 tháng 7 năm 1961, cả thế giới bàng hoàng, tiếc nuối trước tin Hemingway “một con người có thể bị huỷ diệt nhưng không thể bị khuất phục” đã tự sát bằng khẩu
súng săn của mình. Trong suốt 62 năm tồn tại, nhà văn, nhà báo đồng thời cũng là người
chiến sĩ Hemingway đã gióng lên hồi chuông ngợi ca lòng dũng cảm phê phán cái xấu
trong cuộc đời. Giữa những làn khói đạn ngất trời của 2 cuộc chiến tranh khốc liệt,
Hemingway đã làm đẹp con người và không bao giờ quên đi việc tôn vinh giá trị con
người. Có thể nói, Hemingway như ngôi sao chổi vụt sáng rực rỡ qua thế kỷ XX, qua đó
in đậm vào lịch sử văn học như một huyền thoại giữa cuộc đời thường.
1.1.4. Sự nghiệp và các tác phẩm tiêu biểu
Hơn 40 năm sáng tác, Hemingway đã để lại một số lượng lớn các tác phẩm có giá trị
mang tính thời đại. Có thể kể đến tập truyện ngắn Trong thời đại của chúng ta của ông
được xuất bản năm 1925, Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Kẻ thắng
chẳng được gì (1933), Có và không có (1937) …
Mặt trời vẫn mọc (1927) là quyển tiểu thuyết quan trọng đầu tiên của Hemingway.
Nó được xuất bản vào năm 1926, nội dung tập trung vào một nhóm kiều bào người Mĩ và
người Anh sống tha hương tại lục địa Âu Châu trong thập niên 1920. Câu chuyện đi theo
nhóm này từ Paris đến lễ hội đấu bò tại Pamploma.
Chuông nguyện hồn ai được xuất bản vào năm 1940, kể về câu chuyện của Robert
Jordan, một thanh niên Hoa Kỳ trẻ trong đội quân của những người tình nguyện chống lại

chủ nghĩa Phát xít và sự gắn bó của anh với một toán quân du kích Cộng hòa trong cuộc
nội chiến Tây Ban Nha. Là một chuyên gia thuốc nổ, anh được giao nhiệm vụ làm nổ một
cây cầu trong một cuộc tấn công thành phố Segovia. Đây được xem là cuốn tiểu thuyết
xuất sắc nhất của Hemingway.
Năm 1954 ông được viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải thưởng Nobel văn học vì
thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ, và thể hiện gần đây nhất qua
tác phẩm Ông già và biển cả với văn phong kinh điển Nguyên lý tảng băng trôi.
9


1.2. Khái quát tác phẩm Ông già và biển cả
1.2.1. Ý nghĩa nhan đề
Xuất phát điểm là một nhà báo, văn phong của Hemingway luôn ngắn gọn và súc tích.
Nhan đề hay còn gọi là tít trong ngôn ngữ báo chí thì Ông già và biển cả đã bao quát hết
toàn bộ nội dung tác phẩm. Đây là một nhan đề có sức khơi gợi sâu xa. Nó không chỉ
biểu thị về hành trình đi biển chinh phục con cá Kiếm của một ông lão mà còn muốn nói
đến ước mơ, khát vọng của con người trong cuộc đời rộng lớn. Trước biển đời, con người
ta như một lữ khách cô đơn, già nua, phải vắt kiệt sức để chống chọi với bão tố cuộc đời,
để tự đứng lên, khẳng định vị thế của mình trong xã hội.
Bên cạnh đó, tự nhan đề tác phẩm đã nói lên sự đối lập khá lớn: Một ông lão già yếu,
cô độc còn biển cả thì mêng mông, hung dữ, rộng lớn vô bờ. Con người đối lập với biển
khơi bởi một bên quá ư bé nhỏ còn một bên lại rộng lớn khôn cùng. Tuy nhiên tác giả đặt
tít Ông già và biển cả, tức là muốn đem con người đặt cân bằng, ngang hàng với thiên
nhiên bao la ấy. Mặc dù trước thiên nhiên và trước cuộc đời đầy khó khăn, phức tạp, biến
hóa khôn lường nhưng con người luôn khẳng định thế chủ động của bản thân. Để có được
điều đó họ luôn mang trong mình một khát vọng và một niềm tin không bao giờ bỏ cuộc.
1.2.2. Tóm tắt tác phẩm
Tác phẩm Ông già và biển cả là một tiểu thuyết ngắn được nhà văn Hemingway sáng
tác ở Cuba năm 1951 và xuất bản năm 1952. Thiên tiểu thuyết là tác phẩm quan trọng
cuối cùng trong loạt truyện ngắn viễn tưởng – hư cấu được sáng tác bởi Hemingway

thuộc thể loại bi kịch. Đây được đánh giá là tác phẩm nổi tiếng và là một trong những
đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Thiên tiểu thuyết này đoạt giải Pulitzer
cho tác phẩm hư cấu năm 1953. Tác phẩm còn góp phần quan trọng để nhà văn nhận Giải
Nobel văn học năm 1954.
Trong tác phẩm này tác giả đã sử dụng nguyên lý mà ông gọi là "tảng băng trôi", hiểu
đơn giản là mô tả ba phần nổi còn lại bảy phần chìm, khi thể hiện sức mạnh của con cá
Kình khổng lồ, sự chênh lệch về lực lượng, về cuộc chiến đấu không cân sức giữa con cá
10


hung dữ với ông già. Tác phẩm phác họa rất sâu sắc và cảm động về sức mạnh và lòng
quyết tâm không bỏ cuộc của con người bé nhỏ khi đương đầu với thiên nhiên bao la
rộng lớn. Đặc biệt, qua tác phẩm người đọc dễ dàng cảm nhận được một niềm tin tôn giáo
vô cùng mãnh liệt mà tác giả gửi gắm vào nhân vật trung tâm.
Ông già và biển cả tập trung kể về ông lão người Cu-ba tên là Xantiagô, 74 tuổi, làm
nghề chài lưới (đánh cá) trên biển. Ở tuổi “xế chiều” ông luôn mơ ước đánh được một mẻ
cá lớn hay câu một con cá khổng lồ làm phần thưởng xứng đáng cho sự nghiệp bao năm
của ông trước khi giải nghệ. Để thực hiện mong ước đó, ông hằng ngày một mình một
con thuyền miệt mài ra khơi quyết lập một chiến công rạng rỡ cuối cùng. Thế nhưng, đã
đi biển nhiều ngày mà ông chẳng kiếm được con cá lớn nào - nói chính xác là trong suốt
84 ngày liên tục ông chưa thể thực hiện được mơ ước của riêng mình.
Những ngày đầu của cuộc hành trình Xantiagô còn có cậu bé láng giềng Manôlin đồng
hành cùng nhưng vì thấy ông lão thường kém may mắn nên bố mẹ Manôlin buộc cậu đi
theo thuyền khác. Chỉ còn một mình nhưng Xantiagô vẫn không chịu bỏ cuộc mà càng
quyết tâm ra khơi hơn nữa, giữa biển cả, ông thả dây câu chờ đợi rất lâu, có lúc tưởng
chừng hoàn toàn thất vọng. Đêm ngủ, lão mơ về thời trai trẻ với tiếng sóng gào, hương vị
biển, những con tàu và đàn sư tử.
Đến ngày thứ 85 “nếm mật nằm gai”, cuối cùng một con cá Kiếm khổng lồ chưa từng
thấy trong sự nghiệp đánh bắt của ông cũng đã mắc câu, và lôi thuyền ra rất xa. Có được
thành quả nhưng lại là khởi đầu của bao sóng gió và khó khăn bao vây với Xantiagô. Cụ

thể, đã qua một ngày mà con cá chưa nổi lên, ông phải cắt bớt dây câu nối vào một con cá
khác mắc mồi để giữ con “quái thú” biển Giếng Lớn. Nhiều lần ông ước có cậu bé
Manôlin giúp một tay thu phục sức mạnh ghê gớm của “quái thú” này. Có lần nó quẫy
mạnh kéo giật ông lão ngã dập xuống sàn thuyền làm toạc da phía đuôi mắt và lấy đi của
Xantiagô không biết bao nhiêu máu, mồ hôi và sức lực của một ông già. Hai bàn tay ứa
máu vì sợi dây cứa mạnh, mồ hôi tuôn ra liên tục trên trán ông lão như mưa phả vào mặt,
thậm chí mồ hôi quyện vào nước biển chảy xuống mắt khiến mắt ông đỏ hoe và vô cùng
khó chịu.

11


Chiều hôm sau con cá bỗng ngoi lên mặt nước rồi lặn xuống liên tục kéo ông lão về
hướng đông. Chưa bao giờ Xantiagô thấy một con cá Kiếm to như vậy, một con cá hùng
dũng mà ông hằng mơ ước và nó chính là liều doping tiếp thêm sức mạnh cho ông trong
cuộc chinh phục đầy nguy hiểm. Tuy vậy, đứng trước thiên nhiên hùng vĩ thì sức lực của
con người là quá nhỏ bé, bởi thế ông lão cần đến niềm tin tôn giáo, niềm tin vào Đức
Chúa để khơi dậy tinh thần, giữ vững ý chí không từ bỏ dù đã quá mệt.
Để khuất phục “quái thú” khổng lồ, đến khi gần như kiệt lực, tưởng bắt được rồi lại
vùng ra, Xantiagô cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ Maria bằng cách đọc một trăm kinh
Lạy Cha và một trăm kinh kính Mừng – kinh mừng Đức Mẹ (hình thức lần hạt vòng
chuỗi mân côi) để nhờ các Ngài đồng hành và giúp sức. Dù không đọc trọn vẹn nhưng
với một lòng tín thác đã giúp ông vượt qua khó khăn đó.
Với tâm niệm “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” của người Thiên Chúa giáo,
Xantiagô hứa đọc kinh nhưng ông không “ngồi há miệng chờ sung” mà thay vào đó ông
thể hiện niềm tin bằng việc bắt tay vào hành động cụ thể.
Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Bằng tất cả kinh nghiệm và sự khéo
léo lão thận trọng thu dây câu nhưng lão biết vòng tròn còn khá lớn, con cá hãy còn xa
tầm tay của lão. Từng tí một lão cố gắng thu hẹp vòng lượn của con cá và phát hiện rằng
con cá đã thấm mệt nên liên tục ngoi lên trong lúc bơi. Sau cú quật đột ngột và cú nảy

mạnh ở sợi dây, lão sợ con cá nhảy lên có thể làm văng mất lưỡi câu. Nhưng con cá
không nhảy lên mà bắt đầu lượn vòng chầm chậm. Lão cho đó là cơ hội lí tưởng để mình
nghỉ ngơi dưỡng sức .Đến vòng lượn thứ ba, lần đầu tiên lão thấy con cá như một cái
bóng đen lướt qua dưới con thuyền, rồi trông thấy rõ hơn khi nó mấp mé mặt nước. Đến
vòng lượn tiếp theo, lão trông thấy lưng cá nhưng nó vẫn còn ở xa thuyền. Lão chuẩn bị
lao, và thu dần dây câu.Đến mấy vòng lượn sau con cá tiến gần mạn thuyền . Dù đã kiệt
sức, lão vẫn giẫm chân giữ dây câu, rồi dốc toàn lực phóng lao đâm vào chỗ hiểm giết
chết được con cá. Máu cá loang ra nhuộm sẫm cả vùng nước chung quanh. Con cá chết
thẳng đơ, trắng bạc và bồng bềnh theo sóng. Không thể đưa con cá lên thuyền vì nó quá
lớn, lão cẩn thận buộc nó dọc theo mạn thuyền, giương buồm về bến. Lão thật sự hài lòng
và tự hào với thành quả lao động của mình
12


Mặc dù khuất phục được con “quái thú” nhưng khó khăn vẫn rình rập phía trước với
lão già Xantiagô. Trên đường về, đánh mùi được mùi máu của con cá Kình khổng lồ hết
đàn cá mập này đến bầy cá mập hung dữ khác đuổi theo rỉa thịt chiến lợi phẩm của ông
lão. Dù phải đơn độc chiến đấu đến kiệt sức với lũ cá mập, ông lão vẫn nghĩ “không một
ai cô đơn nơi biển cả”. Khi ông già mệt mỏi rã rời vào đến bờ, thì con cá Kiếm “dài hơn
chiếc thuyền có tới sáu bảy tấc kia” chỉ còn trơ bộ xương… Đêm hôm thứ ba, lão vác cột
buồm trên vai trở về lều, nằm vật xuống giường, chìm vào giấc ngủ rồi mơ về những con
sư tử. Bên chiếc thuyền xương sống của con cá Kiếm kẻ thành một đường thẳng trơ
trụi…
1.2.3. Nội dung và hình thức tác phẩm

 Nội dụng
Tác phẩm sáng tác theo nguyên lý “tảng băng trôi” trong nghệ thuật viết tiểu thuyết
của Hemingway. Ông già và biển cả như một tảng băng trôi, tuy phần nổi của ngôn từ
hạn chế nhưng phần chìm của nó rất lớn, gợi lên nhiều tầng ý nghĩa mà người đọc sẽ rút
ra được tùy theo thể nghiệm và cảm hứng trước hình tượng.

Ông già và biển cả vẽ lên hình ảnh ông lão đánh cá Xantiagô dù đơn độc nhưng dũng
cảm chinh phục bằng được con cá lớn nhất đời mình. Điều đó được chứng minh qua cuộc
giao tranh 3 ngày 2 đêm của ông lão để thu phục được con cá Kiếm khổng lồ. Để bảo vệ
chiến lợi phẩm ông lão còn đấu tranh ác liệt với lũ cá mập hung hãn, cuối cùng thành quả
chỉ còn bộ xương cá Kiếm. Tất cả đã tạo nên một biểu tượng về vẻ đẹp của ước mơ và
hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực.

 Hình thức nghệ thuật
- Hình tượng nhân vật của tiểu thuyết là một con người hết sức bình thường, nhỏ bé và
già nua với một công việc lao động nguy hiểm cực khổ, nghề đánh cá. Tác giả không cần
“đao to búa lớn” để xây dựng hình tượng ông lão đánh cá Xantiagô. Chỉ thông qua hành
trình 3 ngày đêm với những hành động cụ thể của một người đi đánh cá bình thường hay
thông qua những hồi ức, những giấc mơ và chính yếu nhất là những lời độc thoại nội tâm

13


nhân vật tự nhiên xuất hiện với đầy đủ dáng vẻ, tính cách, cuộc đời và tài năng một cách
chân thực và chi tiết nhất.
- Đúng với phong cách báo chí, ngôn từ tác phẩm ngắn gọn, súc tích, giản dị và đặc biệt
là mang nhiều tầng ý nghĩa. Ông già và biển cả có lối kể chuyện độc đáo, kết hợp nhuần
nhuyễn giữa văn kể và lời văn miêu tả nhân vật, miêu tả đối thoại, độc thoại nội tâm. Viết
theo nguyên lí tảng băng trôi, chân dung nhân vật được khắc họa qua cảm giác, sử dụng
ngôn ngữ kể và ngôn ngữ của nhân vật.
- Cái đặc biệt của Ông già và biển cả là gần như không có cốt truyện của nó. Cả cuốn
truyện dày hơn trăm trang chỉ đơn giản là câu chuyện dài ba ngày đêm của ông lão đánh
cá Xantiagô. Điểm nhìn của tác phẩm được di động vào bên trong, bởi vì hành động bên
ngoài rất đơn giản, dường như toàn bộ hành động diễn ra ở bên trong nhân vật. Nói đúng
hơn, khi mà điểm nhìn đã di động vào bên trong thì cốt truyện lấy tình tiết làm điểm
nhấn.

2. Dấu ấn Thiên Chúa giáo trong Ông già và biển cả
2.1.Nguồn gốc mối liên hệ giữa Thiên Chúa giáo và tác phẩm
2.1.1.Nguồn gốc khách quan
Mặc dù mẹ của Hemingway là người theo đạo tin Lành (tách rời khỏi giáo hội đạo
Công giáo từ cải cách Luther thế kỷ 16) và rất sùng đạo, tuy vậy trước khi lấy vợ thứ 2
Pauline Pfeiffer, ông vẫn là người ngoại giáo – không tin vào một tôn giáo nào. Ngay từ
khi còn nhỏ khái niệm về Chúa và niềm tin tôn giáo vẫn còn mơ hồ trong Hemingway.
Lúc bấy giờ Hemingway đa phần thừa hưởng từ bố ông sở thích vui thú cùng thiên nhiên
như săn bắn, câu cá, cắm trại…Tuy đức tin của Hemingway vào Chúa chưa lớn nhưng đã
tồn tại gốc rễ và chỉ chờ cơ hội để nhen nhóm rồi đến một giai đoạn nhất định sẽ phát
triển và trở thành hệ tư tưởng chính.
Theo Wikipedia, bước ngoặt để Hemingway trở thành con chiên của Chúa là khi ông
chung sống với người vợ thứ hai Pauline Pfeiffer. Hemingway đã chuyển sang theo Thiên
Chúa giáo và tôn giáo trở thành một hệ tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời và sự nghiệp
14


của ông. Chính vì ảnh hưởng của Thiên chúa giáo, sự tin tưởng tuyệt đối về lời Chúa dạy
nên các tác phẩm sau này của ông nói chung và Ông già và biển cả nói riêng đều mang
đậm dấu ấn Thiên Chúa giáo.
Ở xã hội phương Tây, mặc dù đạo Thiên Chúa có nhiều hội nhóm tách rời (trong đó có
tin Lành…) nhưng giáo hội Thiên Chúa vẫn tồn tại và có sức ảnh hưởng rất lớn. Chúa
luôn là biểu tượng niềm tin cho con người trong mọi hoàn cảnh. Đặc biệt là trong giai
đoạn chiến tranh đầy biến động.
2.1.2. Nguồn gốc chủ quan
Những năm tháng trải qua khói đạn của chiến tranh và cuộc sống bay nhảy nay đây
mai đó đã giúp Hemingway có cái nhìn đa dạng và đa chiều hơn. Với tư cách là một
chiến sĩ quân y, việc chứng kiến cảnh tang thương, sự mất mát đến bất thình lình của một
số phận con người đã làm trái tim tác giả đau xót đến nghẹt thở.
Đứng trước thực tại bi thương, với tính cách của một con người yêu chuộng hòa bình,

sống nhân văn, nhân đạo và có cái nhìn tiến bộ Hemingway nhận thấy rằng, con người
quá nhỏ bé, tầm thường trước vũ trụ bao la, cụ thể là trước súng đạn thời loạn chiến. Con
người nói chung và bản thân tác nói riêng không thể dựa vào sức mạnh của chính mình
để giải thoát và cần một đấng cứu thế nào đó bảo vệ. Bởi vậy, Thiên Chúa được xem là
cứu cánh là niềm tin mà Hemingway có thể nương tựa vào trước biến cố của thời đại.
Nói tóm lại, một nhà văn thiên tài như Hemingway hay các nhà khoa học uyên bác
vẫn tin vào quyền năng của Chúa – một thế giới siêu hình tồn tại song hành với thực tại.
Niềm tin vào Chúa của Hemingway đã trở thành hành động khi ông vận dụng vào các
trang viết của mình. Có thể nói, khát vọng, sức mạnh của nhân vật Xantiago để chống
chọi vượt qua thiên nhiên rộng lớn hung tàn chính là hình ảnh của tác giả. Hemingway
viết Ông già và biển cả chính là viết và khắc họa về bản thân ông. Tác phẩm như lời
tuyên bố về niềm tin vào Chúa của chính ông với thế giới.

15


2.2. Những chi tiết biểu hiện dấu ấn Thiên Chúa trong tác phẩm
2.2.1. Chi tiết bề mặt (phần nổi)

Biểu hiện qua câu chữ
Dấu ấn Thiên Chúa trong tác phẩm thể hiện dễ nhận thấy nhất là qua từ chữ ngắn gọn
và súc tích của tác giả. Cụ thể qua diễn biến về cuộc chiến vô cùng gay cấn giữa
Xantiagô với cá Kiếm. Để khuất phục con cá khổng lồ, Xantiagô vừa dụng cả kinh
nghiệm đi biển bao nhiêu năm và vừa dựa vào sức mạnh tinh thần, niềm tin vào Chúa. Cụ
thể:
- Thu dây để khiến con cá quay vòng.
- Cầu con cá đừng nhảy bởi sợ mất nó: “Đừng nhảy, cá”. Lão nói. “Đừng nhảy”.
- Cầu Chúa giúp bằng cách hứa đọc kinh: “Chúa giúp ta chịu đựng. Ta sẽ đọc một trăm
lần kinh Lạy Cha và một trăm lần kinh mừng Đức Mẹ”.
Từ niềm tin hư vô ông lão Xantiago đã chuyển thành sức mạnh tinh thần. Đầu suy

nghĩ, chân tay hành động ngay lập tức.
- Ông lão nhủ thầm: “Mình phải giữ cho nó đừng đau quá, lão nghĩ. Nỗi đau của ta thì
không thành vấn đề. Ta có thể chế ngự. Nhưng nỗi đau của con cá thì có thể khiến nó
cuồng lên”.
- Di chuyển được con cá: “Ta đã di chuyển được nó”.
- Động viên bản thân: “Kéo đi, tay ơi, lão thầm giục. Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh
táo vì tao, đầu à”.
- Tập trung sức lực: “Dồn hết mọi đớn đau và những gì còn lại của sức lực và lòng kiêu
hãnh đã rời bỏ từ lâu, lão mang ra đương đầu với cơn hấp hối của con cá”.
- Phóng lao giết chết con cá.
Trong quá trình chiến đấu sức lực Xantiago đã bị suy giảm. Tuy vậy, niềm tin vào
Chúa của ông lão vẫn nguyên vẹn. Bằng chứng, Xantiago không chịu bỏ cuộc dù không
còn chút sức lực nào để chiến đấu. Thậm chí, máu và nước mắt đã đổ trên con người “lão
già” đánh cá.

16


- Khi con cá bắt đầu lượn vòng, lão hãy còn đủ sức để kéo: “Lão chỉ cảm nhận áp lực
của sợi dây hơi chùng lại và dùng tay phải, lão bắt đầu nhẹ nhàng kéo vào. Sợi dây
chững lại, như mọi khi, nhưng ngay lúc lão kéo đến điểm sắp đứt thì sợi dây bắt đầu thu
vào. Lão lách vai và đầu ra khỏi sợi dây và bắt đầu liên tục kéo nhẹ nhàng”.
- Nhưng rồi cứ phải ra sức níu sợi dây để buộc con cá phải quay vòng, sức lực lão suy
kiệt nhanh chóng: “hai giờ sau, mồ hôi ướt đẫm người ông lão và lão mệt thấu xương”,
“ông lão thấy hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, mồ hôi xát muối vào mắt lão và xát muối
lên vết cắt phía trên mắt và trán”, ...
- Tiếp đó ông lão “lại cảm thấy choáng váng”, “toát mồ hôi đầm đìa nhưng không phải vì
mặt trời mà vì một nguyên nhân khác”, “lão lại thấy xây xẩm mặt mày”, “miệng lão khô
khốc không thể nói nổi, nhưng lúc này lão không thể với lấy cái chai”.
Niềm tin vào Thiên Chúa của Xantiago bị thử thách tột cùng. Theo như trong kinh

thánh thì ông lão đang bị cám dỗ phải bỏ cuộc. Nhưng Xantiago không phải con người dễ
buông xuôi, dễ dàng từ bỏ. Điều đó có thể khẳng định đức tin của ông lão đánh cá vào
Thiên Chúa là rất lớn, thậm chí không có kẻ thù nào có thể xóa bỏ được.
- Đỉnh điểm của sự kiệt sức là “lú lẫn đầu óc”. Ông lão bước vào trạng thái chênh vênh
giữa sống và chết khi “lão nói bằng giọng mà bản thân hầu như không còn nghe nổi”.
- Tại thời khắc đó, ông lão đã biết tự động viên kịp thời: “Hãy giữ đầu óc tỉnh táo và biết
cách chịu đựng như một con người”, lão nghĩ. Rồi lão kêu gọi:“Đầu ơi, hãy tỉnh táo”.
Bằng cách đó, từng phút giây, lão trở nên mạnh hơn con cá

Biểu hiện qua hình ảnh
Trước tiên là hình ảnh nhân vật trung tâm Xantiago gầy gò, nhỏ bé. Trước biển cả
rộng lớn bao la, con cá Kiếm khổng lồ, đàn cá mập thì sự bé nhỏ của ông lão còn chênh
lệch hơn rất nhiều. Nhân vật Xantiago luôn mấp mé khuôn miệng đọc kinh với Chúa để
được tiếp thêm sức mạnh. Hình ảnh này với người theo đạo Kito là rất quen thuộc. Đó là
biểu hiện của người tín hữu cầu nguyện với Chúa, đọc kinh với Chúa. Cụ thể là đọc kinh,
lần chuỗi hạt mân côi (100 kinh Lạy Cha và 100 kinh Kính Mừng – kinh mừng Đức Mẹ).
Những hành động của một người đánh cá được khắc họa đầy đủ và chi tiết qua
Xantiago. Đúng với hình ảnh của Chúa Giesu khi Người còn ở trần gian cùng các môn đệ
17


đi thả lưới bắt cá. Mồ hôi, nước mắt và máu ứa ra từ bàn tay khi giằng co với con cá
Kiếm hay chiến đấu với đàn cá mập thể hiện khát vọng, ý chí không chịu bỏ cuộc của con
người khi được Thiên Chúa tiếp sức.

Cách thức biểu đạt nghệ thuật
Ông già và biển cả kể về cuộc đấu tranh của con người với thiên nhiên như một tất
yếu của sinh tồn, thông qua hình ảnh ông lão Xantiago quật cường và giàu ý chí, nghị lực
trong cuộc chinh phục con cá Kiếm và bầy cá mập, tác phẩm nói lên cuộc hành trình đơn
độc, nhọc nhằn của con người vì một khát vọng lớn lao đã thể hiện được lời dạy của

Chúa không nản lòng trước khó khăn và thử thách của cuộc đời. Từ đó nhà văn
Hemingway muốn gửi gắm thông điệp: Ở bất kỳ hoàn cảnh nào con người bị vùi dập bị
tàn phá nhưng không bao giờ bị đánh bại.
Nghệ thuật biểu đạt trung tâm của tác phẩm chính là độc thoại nội tâm. Xuyên suốt
thiên tiểu thuyết ông lão liên tiếp độc thoại, có lúc “lão nói”, có lúc “lão nghĩ” – với
chính mình, với con cá, để chinh phục con cá, Xantiago nhờ cậy vào Chúa để tiếp thêm
sức mạnh, nghị lực để không bao giờ từ bỏ trước số phận nghiệt ngã.
2.2.2. Chi tiết ẩn dấu
Như ta đã biết tác phẩm Ông già và biển cả được xây dựng theo nguyên lý tảng băng
trôi. Những chi tiết ẩn dấu về Thiên Chúa trong tác phẩm nằm dưới phần chìm, dưới tảng
băng rất khó để phát hiện. Thực chất, nếu chỉ tìm hiểu về tác phẩm mà không nắm bắt
bản chất đạo Công giáo thì rất khó để nhìn nhận được các chi tiết ẩn dấu đó.
Bởi thế, qua quá trình khảo sát có một số trang web dạy văn hay các bài viết về tác
phẩm Ông già và biển cả mang dấu ấn Thiên Chúa hiểu sai bản chất ý nghĩa của tác giả
muốn gửi gắm. Cụ thể, có quan điểm cho rằng, ông lão Xantiago không dựa vào Chúa,
ông chỉ hứa suông và không có thời gian đọc 100 kinh Lạy Cha và 100 kinh Kính Mừng.
Điều đó là không đúng, nếu là người Kito hữu bạn sẽ hiểu rằng khi xác tín vào Chúa và
nghĩ về Chúa là đủ. Trong suy nghĩ luôn tồn tại Chúa là bạn đã cầu nguyện đã xin Chúa
ban cho sức mạnh. Đặt trong hoàn cảnh cấp bách 100 kinh chỉ cần đọc 1 kinh cũng đã
quá đủ. Theo dụ ngôn: “Chúa cần lòng nhân chứ không cần lễ tế”.
18


Một chi tiết rất quan trọng và vô cùng ý nghĩa nữa đó là việc Xantiago dựa vào bản
thân để chinh phục con cá Kiếm cũng như chiến đấu chống lại đàn cá mập để bảo vệ
chiến lợi phẩm. Đây không phải là gạt bỏ Chúa sang một bên mà như dụ ngôn: “Đức tin
không có việc làm là đức tin chết”. Ông lão không chứng tỏ niềm tin suông mà thay vào
đó ông đã hành động dùng kinh nghiệm của mình để thu phục con cá khổng lồ.
2.3. Liên hệ tương quan giữa kinh thánh và tác phẩm
2.3.1. Các dụ ngôn, câu chuyện trong kinh Thánh


 Kinh Cựu Ước
Theo Wiki kinh Cựu Ước là phần đầu của toàn bộ Kinh Thánh Kito giáo. Cựu Ước
được sắp xếp thành các phần khác nhau như luật pháp, lịch sử, thi ca (hay các sách về sự
khôn ngoan) và tiên tri. Tất cả các sách này đều được viết trước thời điểm sinh ra của
Chúa Giêsu người Nazareth, người mà cuộc đời và tư tưởng là trọng tâm của Tân Ước.
Với đạo Thiên Chúa (Công giáo) thì các Kitô hữu gọi là Cựu Ước vì họ tin rằng nay
đã có một giao ước mới được thiết lập giữa Thiên Chúa và loài người, sau khi Giêsu
người Nazareth đến thế gian.
Cựu ước cho chúng ta biết về buổi sang thế, về nguồn gốc của tội lỗi, về chương trình
cứu rỗi của Thiên Chúa dành cho loài người.
Xin đưa ra 2 câu chuyện của kinh Cựu Ước để đặt vào mối tương quan với tác phẩm
Ông già và biển cả mang dấu ấn Thiên Chúa. Đầu tiên là câu chuyện Lụt hồng thủy thời
Nô-ê. Con người thời ấy ăn chơi sa đọa, coi thường Thiên Chúa. Thậm chí họ bỏ ngoài
tai những lời cảnh cáo của các tiên tri. Một tiên tri ở giữa họ lên tiếng nhưng họ bỏ ngoài
tai là Nô -ê, không những thế họ còn chửi mắng, cho ông là người hâm khi trời nắng đẹp
làm sao có lũ lụt. Không những thế, gia đình Nô-ê còn bị cô lập bị khinh bỉ cho là thần
kinh khi đóng một chiếc thuyền to. Cuối cùng Chúa đã cho nước xuống nhấn chìm hết
mọi thứ trừ gia đình và những thú vật mỗi thứ một cặp ở trên thuyền nhà ông Nô-ê.
Cuộc đời nhân vật Xantiago cũng như ông Nô-ê bị người đời xa lánh và coi thường.
Họ không tin ông lão già nua có thể bắt được con cá Kiếm khổng lồ. Nhưng họ đã sai,

19


dưới sự dẫn dắt và bảo vệ của Thiên Chúa Xantiago cũng như Nô-ê đã làm được những
việc phi thường.
Câu chuyện thứ 2 là Qua biển đỏ cũng vậy, Ông Mô-sê bị nghi ngờ bị của trách vì dân
Do Thái nghĩ ông đưa họ đến chỗ chết khi rời bỏ Ai Cập, rời bỏ vua Pharaon. Nhưng
không gì là Chúa không thể làm, dưới niềm tin tuyệt đối vào Chúa, ông Mô-sê vung cây

gậy rẽ biển làm đôi để dân Do Thái qua rồi nhấn chìm đoàn chiến mã hung mạnh của vua
Pharaon.
Từ câu 2 câu chuyện trên cũng như cuộc chinh phục biển cả của Xantiago cho ta thấy,
con người sẽ làm được mọi chuyện nếu đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. Chúng ta
không được sợ hãi, nghi ngờ về tình yêu sự bảo hộ của Chúa.

Kinh Tân Ước
Tân Ước, còn gọi là Tân Ước Hi văn hoặc Kinh Thánh Hi văn, là phần cuối của Kinh
Thánh Kitô giáo, được viết bằng tiếng Hy Lạp bởi nhiều tác giả vô danh trong khoảng từ
sau năm 45 sau công nguyên tới trước năm 140 sau công nguyên (sau Cựu Ước). Thuật
ngữ "Tân Ước" lúc đầu được Kitô hữu dùng để miêu tả mối tương giao giữa họ và Thiên
Chúa, về sau được dùng để chỉ một tuyển tập gồm 27 sách (theo Wiki).
Tân Ước cho chúng ta biết về cuộc đời Chúa Giêsu, là Đức Chúa Trời mang hình hài của
con người để chịu chết trên thập tự giá để đền tội cho nhân loại. Người sẽ sống lại sau 3
ngày chịu chết và cầm quyền xét xử khi ngày tận thế.
Tân Ước được viết bởi các tác giả khác nhau, vào các thời điểm khác nhau và tại các
nơi chốn khác nhau. Khác với Cựu Ước, Tân Ước được sáng tác trong một quãng thời
gian tương đối ngắn, khoảng chừng một thế kỷ hoặc hơn. Dưới đây là danh mục các sách
của Tân Ước:
* Các sách Phúc âm (Tin mừng): Trọng tâm là cuộc đời, sự chết và sự phục sinh của
Chúa Giê-su:
- Tin mừng theo thánh Mátthêu (hoặc Ma-thi-ơ), người thu thuế trở nên sứ đồ.
- Tin mừng theo thánh Máccô (hoặc Mác), môn đệ của Phê-rô và sau đó trở thành người
rao giảng tin mừng.

20


- Tin mừng theo thánh Luca, một thầy thuốc. Người đã viết Phúc Âm theo Luca và sách
Công Vụ Tông Đồ, ông cũng là bạn thân của Paul (Phao Lô)

- Tin mừng theo thánh Gioan (hoặc Giăng), ngư dân trở nên tông đồ.
* Sách lịch sử: Lịch sử hội Thánh tiên khởi, sau khi Chúa Giê-su không còn hiện diện
cùng với các Tông đồ, được ký thuật trong sách Công vụ các Sứ đồ (Công vụ Tông đồ).
* Các Thư Tín: Bao gồm nhiều bức thư được viết để gửi các cá nhân hoặc các giáo đoàn
(cô-gen-tô). Trong nhiều thư tín, các tác giả trình bày những luận điểm thần học quan
trọng cũng như cung cấp một cái nhìn thấu suốt nhằm lý giải sự phát triển của hội Thánh
tiên khởi.
* Các thư tín của Phao-lô: Đây là những thư được tin là do thánh Phao-lô viết gửi các cá
nhân hoặc các nhóm tín hữu khác nhau. Tên của chúng được gọi theo tên người nhận.
* Các Thư Tín Chung: Là những thư được viết cho toàn thể hội Thánh. Các thư này được
gọi theo tên tác giả.
* Tiên tri: Sách Khải Huyền – Gioan "nhà tiên tri", được cho là trước tác bởi Sứ đồ
Gioan.
Với đề tài này xin lấy các dụ ngôn ở các sách Phúc âm làm dẫn chứng và cũng chỉ đưa
ra những dụ ngôn chính. Trước tiên xin đưa ra dụ ngôn “Ai xin thì sẽ nhận được”: Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp,
hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ
mở cho. Nào ai trong các con thấy con mình xin bánh, mà lại đưa cho nó hòn đá ư? Hay
là nó xin con cá mà lại trao cho nó con rắn ư? Vậy nếu các con, dù là kẻ xấu, còn biết
lấy của tốt mà cho con cái, thì huống chi Cha các con, Ðấng ở trên trời, sẽ ban những sự
lành biết bao cho kẻ cầu khẩn Người! “Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm
cho mình, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế: Ðấy là điều mà Lề luật và các
tiên tri dạy” (Mt 7, 7-12).
Liên hệ dụ ngôn này với nhân vật Xantiago ta thấy được rằng, Chúa luôn mở rộng
vòng tay chào đón mỗi người, hãy mở lời cầu xin với Chúa sẽ sẽ ban cho. Ông lão đánh
cá đã cầu nguyện, mở lời xin Chúa ban cho sức mạnh để chinh phục con cá Kiếm và ông
đã thành công. Đối với người đời, việc khuất phục được con cá khổng lồ và đấu tranh với
21



đàn cá mập hung dữ của một lão già là việc bất khả thi, nhưng với Thiên Chúa không gì
là không thể.
Câu chuyện “Hãy ra chỗ nước sâu và thả lưới” ( Lc 5,4). Ngày Đức Giêsu gặp ông
Phêrô lần đầu tiên ở biển hồ Ghenexaret, Ngài đã mượn chiếc thuyền của ông và xin ông
chở Ngài ra xa một tí để Ngài có thể giảng dạy cho dân chúng đang đứng trên bờ. Phêrô
đã làm theo lời Chúa. Sau khi giảng dạy xong, Đức Giêsu bảo Phêrô “Hãy ra chỗ nước
sâu và thả lưới”. Phêrô có phần chần chừ, vì đã suốt một đêm vất vả nhưng chẳng bắt
được con nào. Nay lưới đang rách, sức khỏe cũng có phần tiêu hao, lại là ban ngày, chèo
ra chỗ nước sâu liệu có được gì không? Kinh nghiệm của Phêrô cho thấy những đòi hỏi
của Giêsu hoàn toàn ngược với khoa học, với những gì ông biết. Nhưng vì yêu mến và nể
trọng Thầy, Phêrô làm theo. Kết quả đạt được đã khiến cho Phêrô vô cùng kinh ngạc.
Chắc chắn chỉ có phép lạ mới làm được như thế!
Sau một đêm vất vả, Phêrô muốn nghỉ ngơi, Giêsu muốn ông tiếp tục lao động. Phêrô
đang chìm trong chán nản vì thất bại, Giêsu ban cho ông thành công. Phêrô muốn chèo
thuyền vào bờ, Giêsu lại muốn ông đi ra xa hơn nữa. Phêrô đang muốn ngồi im để nghỉ
ngơi, Giêsu muốn ông phải đứng dậy để thả lưới. Những đòi hỏi của Giêsu dành cho
Phêrô hoàn toàn khác với những gì ông mong đợi. Nơi Giêsu luôn bừng dậy những lời
mời gọi. Giêsu không bao giờ muốn ở yên. Giêsu luôn thôi thúc người ta vượt qua thái độ
thụ động và thậm chí còn muốn đẩy người ta đến những chỗ có nhiều thử thách, lắm
hiểm nguy, những “chỗ nước sâu”.
Qua câu chuyện trên ta thấy bóng dáng Phêrô nơi Xantiago. Một con người yếu đuối,
mỏng dòn nhưng có một niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa. Chính niềm tin đã giúp ông
thành công như chính Phêrô đã gặt hái được mẻ lưới đầy ắp cá.

 Thánh ca
Thánh ca là một thể loại ca khúc tôn giáo được sáng tác cho mục đích tôn vinh, chúc
tụng (do đó còn gọi là tán ca hay tụng ca) hay nguyện cầu hướng về một thần linh.
Thánh ca Kitô giáo, khởi nguồn cảm hứng từ Thánh Vịnh (Thi thiên) của Vua David,
được dùng để chúc tụng và tôn thờ Thiên Chúa. Cũng có nhiều bài Thánh ca được sáng
tác để tôn vinh Giêsu.

22


×