Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN KINH NGHIỆM DẠY HỌC SINH CÓ HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN CÔNG NGHỆ LỚP 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.01 KB, 16 trang )

KINH NGHIỆM DẠY HỌC SINH CÓ HỨNG THÚ HỌC TẬP
MÔN CÔNG NGHỆ LỚP 7
PHẦN I : MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài
Học sinh cấp II là độ tuổi phổ thông có nhu cầu tiếp tục học để nâng cao
trình độ văn hóa, nhưng học sinh trong cùng một lớp thường không đồng đều về
trình độ, nhận thức, ý thức tự giác … đa số vì nhiều lí do hoàn cảnh nên tính tích
cực trong tự giác học tập rất hạn chế.
Vào lớp học sinh thường thụ động ngồi im, ngại phát biểu và không coi
trọng môn học. Việc làm thêm bài tập nhà, đào sâu kiến thức nâng cao hiểu biết
thường chỉ được rất ít học sinh thực hiện. Hơn thế nữa bộ môn công nghệ lại
khô khan, nhàm chán HS ít hứng thú và yêu thích .
Vì thế giáo viên phải làm sao để cải tiến phương pháp dạy cho phù hợp,
kích thích tính ham hiểu biết của học sinh và phát huy tính tích cực của học sinh
để nâng cao kết quả giảng dạy của giáo viên và kết quả học tập của học sinh.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài này nghiên cứu ứng dụng ở trường THCS
Được áp dụng ở HS khối Công nghệ lớp 7
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Công nghệ là môn khoa học thực nghiệm có nhiều thành tựu áp dụng trong
khoa học kĩ thuật và đời sống. Giảng dạy bộ môn công nghệ trong nhà trường
không chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến thức lí thuyết mà còn phải rèn luyện cho
học sinh kĩ năng cơ bản cần thiết để nắm chắc nội dung kiến thức cơ bản, có kĩ
năng thực hành, vận dụng vào các trường hợp cụ thể không những trong thời
gian ở nhà trường mà còn tạo điều kiện cho học sinh dễ dàng tham gia vào cuộc
sống lao động sản xuất và kĩ thuật hiện đại sau này.
“Trong nhà trường, điều chủ yếu không phải nhồi nhét cho học trò mớ kiến
thức hỗn độn, tuy rằng kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho học

1



trò phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn
đề”.
(Phạm Văn Đồng – Hãy tiến mạnh trên mặt trận khoa học kĩ thuật – NXB
Sự thật Hà Nội 1969)
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để giúp học sinh có hứng thú với môn học môn Công nghệ 7 tôi đã áp dụng
một số phương pháp sau:
-Quản lí học sinh trong giờ lên lớp
-Giáo viên cần nắm vững mục tiêu, cấu trúc chương trình bộ môn giảng
dạy.
-Phải nắm vững kiến thức
-Bồi dưỡng về công tác chuyên môn
-Có khả năng chủ đạo tổ chức điều khiển lớp học
-Sử dụng phương pháp giảng dạy sinh hoạt đa dạng.
-Sử dụng tranh ảnh, mô hình như một công cụ dạy học
-Sử dụng SGK một cách triệt để và hiệu quả
5. Đóng góp mới về khoa học:
Đề tài này được áp dụng cụ thể vào các bài dạy giúp các em yêu thích và có
hứng thú với bài học.
Các em hang say thảo luận, xây dựng bài làm cho bài dạy trở nên sinh động
Về nhà các em đã chựu khó tìm hiểu bài trước, tìm hiểu thực tế qua người
lớn để các em có thêm kiến thức xây dựng cho bài mới
Các em có hứng thú với bài học là động lực giúp giáo viên hăng say đầu tư
với chuyên môn của mình
PHẦN II: NỘI DUNG
1.Cơ sở khoa hoa học:
a. Cơ sở lý luận:
Công nghệ là nguồn kiến thức là một phương pháp nghiên cứu khoa học.
Công nghệ trong nhà trường là sự phản ánh phương pháp nghiên cứu khoa học

vì vậy nó mang yếu tố cơ bản của thí nghiệm khoa học, nhờ đó học sinh được
2


làm quen với phương pháp nhận thức trong khoa học công nghệ. Về mặt lí luận
dạy học, công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các kiến thức
và kĩ năng cho học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học là một trong những mối quan tâm hàng đầu
của các cấp, các ngành giáo dục. Đối với bậc THCS, đặc điểm đối tượng là học
sinh cấp II, trong quá trình dạy học phải cung cấp những kiến thức , kĩ năng cơ
bản , tinh giản , thiết thực nhất của bài, việc tiến hành giảng dạy có sử dụng
ĐDDH là một vấn đề rất cần thiết tạo hứng thú cho học sinh , đồng thời đáp ứng
các trọng tâm nêu trên đối với học sinh.
b. Cơ sở thực tiễn :
Công nghệ lớp 7 là một môn khoa học thực nghiệm, tất cả kiến thức phải
rút ra từ thực nghiệm, kiến thức trên lớp luôn gắn liền với thực tiễn cuộc sống,
ứng dụng trong khoa học kĩ thuật… Vì vậy giáo viên cần phải thực hiện các biện
pháp sau:
Giáo viên phải xây dựng từ đầu phương pháp dạy môn Công nghệ 7 thật tốt
để học sinh không học vẹt, học phải hiểu và vận dụng giải thích hiện tượng , ứng
dụng vào cuộc sống.
Giáo viên không chỉ trang bị cho học sinh kiến thức, kĩ năng mà còn phải
coi trọng việc phát triển năng lực hoạt động trong thực tiễn.
Để lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng kĩ thuật và vận dụng được vào thực tế
cần khơi dậy và phát huy triệt để tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học
tập.
2. Đánh giá thực trạng về những vấn đề có liên quan đề tài:
a. Những điểm mạnh :
Giáo viên có đầu tư, sáng tạo nên học sinh có sự chuyển biến tốt về mặt học
tập môn Công nghệ.

Giáo viên truyền đạt kiến thức cơ bản cho học sinh dựa trên hình ảnh, mô
hình, giảm dần việc dạy chay.
Nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên phát huy việc làm và sử dụng
ĐDDH phục vụ cho việc dạy và học.
3


b. Những hạn chế :
- Giáo viên dạy môn Công nghệ còn thiếu
- Chủ yếu giáo viên dạy bộ môn là dạy kèm.
- Nhận thức của phụ huynh và học sinh về bộ môn chưa cao
-ĐDDH chưa đáp ứng đủ.
3. Các giải pháp :
a. Quản lý học sinh trong giờ lên lớp
Quản lý học sinh là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao
đạo đức cho học sinh là cảnh quan sư phạm để giáo viên truyền thụ lượng kiến
thức lớn đến học sinh một cách hiệu quả. Quản lý học sinh giữ vai trò chủ đạo vì
nó định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục hình thành nhân cách của học
sinh, khai thác có chọn lọc những tác động tích cực và ngăn chặn những tác
động tiêu cực ở học sinh. Tạo nên bầu không khí mang tính sư phạm ở mỗi lớp
học, hình thành nên một phong cách giảng dạy riêng, biểu hiện như sau:
-Nề nếp tốt: trật tự, vệ sinh, ngăn nắp, nghiêm túc.
-Có quan hệ tốt giữa thầy với trò, giữa học sinh với nhau. Trong các mối
quan hệ phải thực sự đúng mực, hài hòa; giáo viên thương yêu tôn trọng học
sinh. Học sinh không hỗn xược, không khúm núm sợ sệt, yêu mến và tin tưởng
giáo viên. Học sinh đối với nhau thì đoàn kết, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ,
không thù hằn, bè cánh đánh nhau, không nói tục chửi bậy, không tham gia vào
tệ nạn xã hội.
* Cách thực hiện:
Phong cách – tính cách ở mỗi giáo viên: phải thể hiện rõ khả năng làm việc

của mình đối với học sinh. Đầu năm học giáo viên đề ra những yêu cầu làm việc
của mình để học sinh tham khảo, có ý kiến và thực hiện những yêu cầu đó:
-Lớp học phải sạch sẽ, kỉ luật tốt, trong giờ chuyển tiết không được chạy ra
khỏi chỗ, không la hét, đùa giỡn gây mất trật tự,…
-Trong giờ học, học sinh phải lắng nghe giảng bài để hiểu bài và ghi bài vào
vở vì giáo viên không đọc bài cho học sinh ghi chép

4


-Đầu giờ, cho bài kiểm tra giấy khoảng 5-10 phút (không kể thời gian chép
đề), với câu hỏi và đáp án ngắn gọn….
-Khi học sinh vi phạm với những yêu cầu trên: Ban cán sự lớp phải ghi tên
bạn vi phạm để giáo viên xử lí (giáo viên phải xử lí kịp thời, đúng cách), hình
phạt: giáo viên kiểm tra tập, kiểm tra miệng 2 đến 3 HS trở lên và kiểm tra kiến
thức ngoài thực tế. Những học sinh còn lại, không vi phạm sẽ không bị trả bài và
không cần làm bài kiểm tra giấy, nhưng vẫn được điểm tốt vào sổ.
Qua đó, tôi nhận thấy các lớp 7 tôi phụ trách môn công nghệ trong giờ
chuyển tiết không gây mất trật tự ở lớp cũng như dãy lớp học, ban cán sự lớp
làm việc rất tích cực và có ý thức.
b. Giáo viên cần nắm vững mục tiêu, cấu trúc chương trình
Xây dựng trọng tâm bài, chuẩn bị ĐDDH, kiểm tra lại dụng cụ thí nghiệm,
hệ thống câu hỏi, chuẩn bị nội dung.
VD1: “Tác dụng của phân bón trong trồng trọt?”
Bài có hai phần:

I. Phân bón là gì ?
II. Tác dụng của phân bón

Trong đó trọng tâm là phần I :

-Chuẩn bị nội dung: Ngoài SGK, giáo viên cần tham khảo thêm tài liệu vì
đây là môn Công nghệ khoa học kĩ thuật thực nghiệm, về phân bón trong trồng
trọt, chúng ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sinh thái , ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm nông nghiệp, do đó giáo viên phải chuẩn bị những kiến thức
ngoài thực tiễn nhiều hơn.
-Chuẩn bị ĐDDH: Để bài giảng sinh động học sinh hứng thú học, học sinh
dễ nhìn, mau thuộc bài, giáo viên có thể cho học sinh xem mẫu thật. Ví dụ: Phân
bón đạm (N) dạng viên màu trắng, phân bón lân (P) dạng bột màu xám tro, phân
bón kali (K) dạng bột màu muối ớt.
-Chuẩn bị hệ thống các câu hỏi định hướng cho bài và trả lời, dự kiến các
tình huống có thể xảy ra. Câu hỏi đặt ra phải:
+Gây được sự hứng thú cho học sinh.

5


+Phù hợp với từng đối tượng, phát huy tính tích cực của từng học sinh,
nâng cao sự hiểu biết của học sinh.
+Đối với bài giảng: Câu hỏi phải logic hợp với sơ đồ, tính thực tiễn gắn liền
với cuộc sống sản xuất và khoa học kĩ thuật:
Trong thực tế, khi sử dụng phân hữu cơ để bón cho cây, người ta thường sử
dụng loại phân nào? Vì sao?
Xu thế hiện nay người ta sử dụng loại phân nào bón cho cây? Vì sao?
c. Nắm vững và nâng cao kiến thức:
Trong quá trình hình thành kiến thức mới cho học sinh giáo viên không
những vừa cung cấp lượng kiến thức trong SGK vừa cung cấp những kiến thức
thực tiễn vào đời sống hằng ngày, ứng dụng vào khoa học kĩ thuật.
Thông thường Công nghệ vận dụng kiến thức Sinh, Địa, Hoá, dinh dưỡng
phục vụ rất nhiều và bất ngờ mà học sinh khó nghĩ ra thì giáo viên phải cung cấp
và nhắc lại kiến thức cơ bản đó, hướng cho học sinh vận dụng và quyết vấn đề.

Ví dụ: Bài “Vai trò của thức ăn đối với vật nuôi”
Bài này có liên quan đến các môn học khác rất nhiều:
Dựa vào kiến thức đã học ở môn Công nghệ phục vụ em hãy cho biết trong
thức ăn gồm những thành phần dinh dưỡng nào?
Qua bảng 5: “SỰ TIÊU HOÁ VÀ HẤP THỤ THỨC ĂN” trang 102 SGK
Công nghệ 7 và dựa vào kiến thức môn Sinh lớp 8 giáo viên giải thích cho học
sinh hiểu: 3 thành phần dinh dưỡng: protein, lipid, glucid, qua đường tiêu hoá
vật nuôi bị biến đổi, nhưng chúng không tự biến đổi được, phải nhờ vào men
tiêu hoá enzim, mỗi thành phần dinh dưỡng do một enzim đảm nhiệm:
enzim
Protein

Acid amin
Pepsin
enzim

Lipid

Glycerin + acid béo
Pepsin
enzim

Glucid

Đường đơn
6


amilaza
Muối khoáng được cơ thể tiếp thu dưới dạng ion khoáng – giáo viên dựa

vào kiến thức môn Hoá lớp 8 để giải thích:
Na+ / Cl-

NaCl
d. Bồi dưỡng về công tác chuyên môn

Đặt ra những yêu cầu đối với Giáo viên và Học sinh: Giáo viên phải thay
đổi cách dạy cũ, học sinh phải có kĩ luật thì mới dạy tốt & học tốt “ thầy ra thầytrò ra trò”.
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa các họat động dạy học,
khuyến khích giáo viên chủ động, sáng tạo, dạy học tập trung vào học sinh tạo
điều kiện cá thể hóa người học để phát triển mọi năng lực của học sinh, tổ chức
hướng dẫn học sinh học tập bằng cách tự phát hiện khả năng của mình tự tin và
có niềm vui trong lao động học tập chủ động sáng tạo.
Với những hiểu biết của bản thân về đổi mới phương pháp giảng dạy tôi đã
đặt ra những yêu cầu cho GV khi tổ chức một tiết dạy:
* Đối với GV:
Nghiên cứu kĩ bài và phân tích sư phạm bài dạy cụ thể là:
Soạn kế hoạch lên lớp, xác định trọng tâm kiến thức, kĩ năng bài học và các
hình thức tổ chức hoạt động trong tiết dạy.
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi: những nội dung khó, mục đích giải quyết ở lớp,
ở nhà chú ý phát triển kiến thức bồi dưỡng học sinh giỏi, khá, năng khiếu bộ
môn. Dự kiến những sai lầm của học sinh (nếu có) và cách khắc phục.
Khai thác nội dung giáo dục tư tưởng tình cảm thẩm mĩ, dân số, môi
trường….
Chuẩn bị phiếu giao việc: Việc dùng phiếu trong tiết dạy hạn chế bớt bệnh
nói nhiều, giảng nhiều, lấn át phần luyện tập của học sinh, phiếu giao việc là bản
thiết kế hành động học tập của học sinh theo ý định sư phạm của giáo viên trong
tiết dạy nhằm tạo ra sự phối hợp việc làm của thầy và trò theo cùng một nhịp
điệu. Giúp học sinh làm những gì có thể làm được nhờ sự giúp đỡ của giáo viên,
7



đó là một cách để các em tự làm được những công việc khó hơn, tự khẳng định
mình. Giảm bớt thời gian chép đề. Tuy nhiên nếu làm dụng phiếu giao việc thì
học sinh sẽ mất dần kỉ năng trình bày sáng tạo, chữ viết,…
Căn cứ vào những hướng dẫn trong phiếu giao việc , GV tổ chức cho học
sinh làm việc cá nhân với SGK, với phương tiện sẵn có hoặc trao đổi nhóm hay
học tập toàn lớp.
Chọn hình thức tổ chức tiết học phù hợp với điều kiện CSVC của trường ,
phù hợp với nội dung bài dạy và môn dạy.
Để tổ chức tốt một tiết dạy phải tùy nội dung và mục đích cụ thể của bài
dạy để xác nhận cách tổ chức học tập cho học sinh làm thế nào để có kết quả cao
nhất.
Ví dụ: Nếu mục đích của bài dạy chủ yếu để rèn luyện kỉ năng hoặc kiểm
tra kiến thức đã học thì coi trọng cách học cá nhân của học sinh. Nếu đối tượng
nhận thức quá mới mẽ với học sinh cần vai trò chủ đạo của giáo viên trong việc
thông báo, giải thích thì nên tổ chức cho các em học tập theo lớp.Còn đối với
những bài có đối tượng nhận thức mà bản thân học sinh ít nhiều có kinh nghiệm
hoặc chứa đựng các hiểu biết khác nhau, dễ phân hóa thành các nhóm ý kiến để
tranh luận, bàn cải… chúng ta tổ chức cho học sinh học nhóm để kích thích họat
động từng cá nhân. Nhờ việc thảo luận trong nhóm nhỏ, kiến thức các em sẽ lướt
phần chủ quan, phiến diện làm tăng thêm tính khách quan khoa học. Việc học
tập theo nhóm càng chứng tỏ quan điểm “học thầy không tày học bạn” qua việc
trao đổi, hợp tác với bạn mà trí thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ
nhanh hơn. Khi mỗi nhóm trình bày xong để khắc sâu kiến thức, GV bao giờ
cũng phải kết luận ngắn gọn ý kiến nào đúng, sai, vì sao và đưa ra bài học. Chú
ý tuyên dương, khen thưởng, động viên, các em kịp thời.
* Đối với học sinh
-Học sinh phải có kĩ luật tốt, lễ phép.
-Học sinh phải có đầy đủ sách giáo khoa.

-Chuẩn bị tốt bài học ở nhà, đưa ra những suy nghĩ nhận xét của mình khi
quan sát để ra lớp thảo luận, trao đổi cùng các bạn.
8


-Tập trả lời câu hỏi theo SGK.
-Tự đặt câu hỏi sau khi đã đọc trước bài.
e. Có khả năng chỉ đạo tổ chức điều khiển lớp học:
Vì là độ tuổi cấp II nên học sinh chưa có ý thức tự giác học, lười học. Mặt
khác sự tiếp thu kiến thức nhận thức và giải quyết vấn đề cho bài giảng của mỗi
học sinh chênh lệch rõ rệt. Do đó giáo viên phải quản lí tổ chức điều khiển lớp
học.
Cải tiến hình thức kiểm tra bài cũ: Không hoàn toàn gọi học sinh lên trả bài
như thông thường, tuỳ vào tình hình từng lớp có thể dùng nhiều hình thức khác
nhau, nhất là Công nghệ là một môn khoa học thực nghiệm. Tôi thường cho các
em tình nguyện trong kiểm tra bài cũ, kiến thức cũ được hỏi trọng tâm và được
ghi lên bảng cho các em chuẩn bị, thông qua hỏi miệng, áp dụng bài tập, làm mô
tả thí nghiệm, điền từ hay kết quả điền vào ô trống hay viết lên giấy . . . Học
sinh có thể đứng tại chỗ hay lên bảng làm sao tránh tâm lí lo sợ hồi hộp quá
đáng trong thời gian ôn bài cũ.
Hướng dẫn học sinh tự ghi bài: học sinh thường có thói quen nhờ giáo viên
đọc bài chép hoặc giáo viên ghi lên bảng học sinh chụm vào nhau nói chuyện,
không chú ý ghi bài, làm chuyện riêng và để khắc phục thói quen này tôi vừa
giảng vừa ghi bài nhưng phần ghi trên bảng là phần hướng dẫn ghi bài không
phải là nội dung để học sinh ghi, học sinh nào không chú ý nghe giảng không
thể ghi bài được. Qua phương pháp hướng dẫn tự ghi bài đa số 100% học sinh
đều thực hiện được kể cả những học sinh yếu kém, thông qua đó học sinh dễ học
bài và mau thuộc bài, lớp học nghiêm túc.
Ví dụ:
TIẾT 5: Bài 7: TÁC DỤNG CỦA PHÂN BÓN TRONG TRỒNG TRỌT

I. Mục tiêu cần đạt:
1. Kiến thức: Nhận biết các loại phân bón thường dùng và tác dụng của phân
bón đối với đất và cây trồng.
2. Kỹ năng: Phân biệt được các loại phân bón sử dụng cho từng loại cây trồng
khác nhau.
3. Thái độ: Có ý thức tận dụng các sản phẩm phụ (thân, cành, lá) cây hoang dại
để làm phân bón.
9


II. Chuẩn bị của GV- HS :
- GV: Một số loại phân hoá học (đựng trong túi nilon có ghi chú), Hình 6 SGK
phóng to.
- HS: Tìm hiểu bài trước khi đến lớp.
III. Các hoạt động dạy học:
1.Ổn định tổ chức: (1’)
2.Khởi động / mở bài: (2’)
Mở bài: Ngay từ xa xưa cha ông ta đã nói “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ
giống”.Câu tục ngữ này phần nào nói lên tầm quan trọng của phân bón...phân
bón có tác dụng gì?Muốn trả lời được câu hỏi đó chúng ta vào bài học “Tác
dụng của phân bón trong trồng trọt”
3. Bài mới(37’)
*Hoạt động 1:
Tìm hiểu khái niệm về phân bón
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung
- GV: Yêu cầu HS đọc mục I.
I. Phân bón là gì?
(?): Phân bón là gì?
- HS: Là thức ăn do con người bổ sung

- Là “thức ăn” do con người bổ
cho cây trồng.
sung cho cây trồng.
GV giải thích cho HS hiểu từ “thức ăn”
(?): Phân bón được chia làm mấy nhóm?
- Phân bón gồm 3 nhóm chính.
Kể tên các nhóm?
+ Phân hữu cơ: Phân chuồng, phân
- Gồm 3 nhóm: Phân hữu cơ, phân hoá
bắc, phân rác, than bùn…
học, vi sinh.
+ Phân hoá học: Phân đạm, lân,
-GV có thể cho HS xem mẫu thật. Ví dụ: Kali, phân vi lượng…
+ Phân vi sinh: chứa vi sinh vật
Phân bón đạm (N) dạng viên màu trắng,
chuyển hoá đạm, lân…
phân bón lân (P) dạng bột màu xám tro,
phân bón kali (K) dạng bột màu muối ớt.
- GV: Yêu cầu HS quan sát sơ đồ 2 và trả
lời câu hỏi
(?): Nhóm phân hữu cơ (hoá học, vi sinh)
gồm những loại phân nào?
- HS: Quan sát sơ đồ 2 và trả lời
+ Phân hữu cơ: Phân chuồng, phân bắc,
phân rác, phân xanh, than bùn, khô dầu.
+ Phân h2: Đạm, lân, kali, đa nguyên tố vi
lượng.
+ Phân vi sinh: Chuyển hoá đạm, chuyển
hoá lân.
- GV: Yêu cầu HS thảo luận nhóm .

Dựa vào sơ đồ 2 hãy sắp xếp các loại
phân bón theo mẫu bảng (phụ lục).
- HS: Kẻ bảng và hoạt động nhóm sắp xếp
10


các nhóm phân vào bảng.
- GV: KL theo bảng phụ lục
*Hoạt động 2 :
Tìm hiểu tác dụng của phân bón
- GV: Yêu cầu HS quan sát H.6 để thấy
II. Tác dụng của phân bón:
được mối quan hệ giữa phân bón, đất, năng
suất.
- HS: Quan sát H.6 theo sự hướng dẫn của - Làm tăng độ phì nhiêu của đất,
GV.
tăng năng suất và tăng chất lượng
(?): Phân bón có ảnh hưởng như thế nào
nông sản.
đến đất, năng suất và chất lượng nông sản?
- HS thảo luận nhóm và trả lời: Làm tăng
độ phì nhiêu của đất, tăng năng suất và
tăng sản lượng nông sản.
- GV: Giảng giải: Phân bón tác dụng gián
tiếp thông qua độ phì nhiêu của đất. Nhờ
phân bón đất phì nhiêu hơn, có nhiều chất * Chú ý: Phải bón phân đúng liều
dinh dưỡng nên cây trồng sinh trưởng phát lượng, bón phân phải phù hợp với
triển tốt cho năng suất cao và chất lượng
từng loại trong cây trồng.
tốt.

(?): Khi bón phân ta thường chú ý tới
những điều gì?
- HS: Không quá liều lượng. Sai chủng
loại.
GV phân tích kỹ những điều cần chú ý
trong khi sử dụng phân bón
4.Tổng kết và hướng dẫn học tập ở nhà (5’)
*Tổng kết
- GV: + Gọi 1 – 2 HS đọc phần “ghi nhớ”.
+ Hệ thống nội dung bài học và nêu câu hỏi củng cố bài:
1. Phân bón là gì? Phân bón có tác dụng như thế nào đối với cây trồng?
2. Phân hữu cơ, hoá học gồm những loại nào?
+ Gọi HS đọc mục “có thể em chưa biết”.
* Hướng dẫn học tập ở nhà: + HS học bài và trả lời các câu hỏi cuối bài.
+ Chuẩn bị bài “Cách sử dụng các loại phân bón
thông thường”
Động viên học sinh làm bài tập và chuẩn bị bài ở nhà: thường xuyên xem
vở ghi bài, làm bài của các em để uốn nắn sai sót trong ghi chép, trình bày bài và
chuẩn bị bài ở nhà. Tiết bài tập chú ý chấm điểm cộng thêm cho những em tích
cực chuẩn bị bài, làm bài tập ở nhà. Dĩ nhiên sẽ có những em chép bài của bạn
điều này ta lưu ý nhưng cũng cho điểm cộng khuyến khích vì dù sao trong quá
trình tích cực chép bài học sinh cũng đã có hình thành khái niệm, khi làm bài tập
11


lại trên lớp sẽ hiểu sâu hơn. Vừa cho điểm cộng vừa nhắc nhở học sinh lần sau
không nên chép bài của bạn.
f. Sử dụng phương pháp giảng dạy linh hoạt, đa dạng:
Để lớp học không bị nhàm chán, đơn điệu, học sinh không thụ động, giáo
viên phải biết kết hợp hài hoà giữa các phương pháp dạy học với nhau sao cho

phù hợp với từng bài học, trong đó cần chú ý các phương pháp nêu vấn đề, thực
hành , trực quan, đàm thoại…Môn Công nghệ là môn chưa được coi trọng mấy,
kiến thức nội dung cô đọng, sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy thay vào đó
giáo viên nên kể một vài thành tựu khoa học trong thực tế vào bài giảng, lúc này
bài giảng khá sinh động, học sinh chú ý bài và kích thích hứng thú học bộ môn
Công nghệ. Đa số giáo viên chúng ta đều kết hợp nhuần nhuyễn các phương dạy
học trên nhưng khó khăn nhất vẫn là thái độ tích cực trong học tập và kích thích
hứng thú yêu môn Công nghệ của học sinh. Do vậy:
Phải kiên trì trong giảng dạy: kiến thức phải đi từ dễ đến khó, cô đọng kiến
thức trọng tâm, tốt nhất là phải sử dụng dụng cụ trực quan, câu hỏi gắn với thực
tiễn và cả bài tập cũng vậy, bài tập làm sao ngay đến các em chậm hiểu của lớp
cũng có thể tham gia. Phải động viên các em kiên trì lao động học tập thì mới
đạt kết quả.
Đặt hệ thống câu hỏi rõ ràng, mạch lạc gắn với thực tiễn và liên quan chặt
chẽ đến kiến thức đang học để học sinh theo dõi và dễ dàng tiếp thu và như thế
mới dám phát biểu suy nghĩ của mình vào vấn đề giáo viên đặt ra.
Trong quá trình tiết học giáo viên luôn luôn quan sát công việc học tập của
học sinh hỏi han học sinh xem chúng hiểu bài như thế nào, uốn nắn những phát
biểu suy luận sai, lưu tâm khuyến khích học sinh yếu phát biểu, đặt những vấn
đề phát triển hơn cho những học sinh khá giỏi tập trung suy nghĩ, tìm tòi phát
biểu ý kiến. Động viên các em luôn tự đặt ra các câu hỏi liên quan đến đời sống
khoa học kĩ thuật và tự vận dụng kiến thức đã học để giải thích, nếu sai sót giáo
viên hướng dẫn lại.
g. Sử dụng tranh ảnh, mô hình như một công cụ dạy học:

12


Để khai thác chỗ mạnh của bài giảng nhằm hỗ trợ cho quá trình dạy học. Từ
trực quan sinh động học sinh sẽ nhận thức thế giới hiện thực dưới sự điều khiển

của thầy theo hướng tích cực, có định hướng nhằm mục đích học tập.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học: Nắm được đặc điểm tâm lí của học
sinh THCS là tư duy còn rất cụ thể do đó trong tiết dạy việc sử dụng đồ dùng
dạy học đã thực sự góp phần nâng cao chất lượng tiết dạy , giúp các em nắm
vững kiến thức một cách kĩ lưỡng hơn cũng như gây hứng thú học tập cho HS
trong tiết dạy. Chú ý bố trí bàn ghế phù hợp với hình thức tiết dạy.
- Chọn phương pháp đặc trưng của bộ môn: Vận dụng và phối hợp
các phương pháp truyền thống với phương pháp “ Lấy HS làm trung tâm “ luôn
phải hết sức linh hoạt , uyển chuyển, nhẹ nhàng để nâng cao chất lượng dạy và
học, nâng cao hiệu quả đào tạo học sinh.
h. Sử dụng SGK một cách hiệu quả:
Để chuẩn bị tốt cho môn học Công Nghệ đạt hiệu quả, học sinh phải đọc
thông tin trong SGK, tham khảo tài liệu và lượng thông tin đại chúng. Đây là
phần cũng khá quan trọng vì sau khi đọc phần thông tin học sinh phải trả lời
những câu gợi ý trong thông tin, phần lớn học sinh chưa đạt hiẹu quả, vì vậy,
giáo viên phải hướng dẫn học sinh soạn thông tin và nắm được kiến thức trong
bài. Tham khảo tài liệu, sách báo, truyền thanh, truyền hình cũng rất quan trọng
vì nó làm phong phú bài học, thêm linh động và sinh động
4. Kết quả đạt được
Trong những năm qua mặc dù điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn, trình
độ nhận thức và hiểu biết của học sinh chênh lệch, một số học sinh lười học. . .
nhưng với sự cố gáng, kiên trì trong giảng dạy trong nhiều năm, tôi nhận thấy
mình thu được kết quả tương đối tốt:
Đa số học sinh tích cực hơn trong học tập môn Công nghệ, thái độ thụ động
giảm, việc ghi bài thực hiện tốt 100%, học sinh tích cực hơn trong tham gia xây
dựng bài và làm bài tập ở nhà, chịu khó suy nghĩ liên hệ kiến thức với thực tế.
Sau nhiều năm giảng dạy, tôi có được sự so sánh như sau:
*Kết quả cho thấy:
13



Lớp không áp dụng các phương pháp
trên
Trong giờ học, giờ chuyển tiết, học Học sinh không có ý thức giữ trật tự
Lớp áp dụng các phương pháp trên

sinh không làm ồn, không ra khỏi lớp
gây mất trật tự các lớp bên cạnh
Học sinh chăm chú nghe giảng, tiếp Một số học sinh thường làm việc riêng
thu bài tốt
trong giờ học
Cuối năm, khoảng 80 – 90% học sinh Cuối năm, khoảng 70-75% đạt kết quả
đạt kết quả tốt
khá trở xuống
→ Đối với bản thân, tôi thấy trình độ chuyên môn của mình ngày càng được
nâng cao, bài giảng càng phong phú, ngắn gọn, súc tích, ví dụ sinh động
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ :
1. Những bài học kinh nghiệm rút ra khi thực hiện sáng kiến
Phương pháp giảng dạy là bộ môn gắn liền với thực tế cho nên trong tiết
dạy có tranh ảnh, mô hình sinh động hơn, xen kẽ vào bài giảng giáo viên kể một
số thành tựu khoa học đã đạt được ở nước ta cũng như trên các nước để học sinh
mở rộng kiến thức, vì vậy đã có sự lôi cuốn thuyết phục học sinh.
Nâng cao chất lượng dạy học môn Công nghệ, kích thích được sự sáng tạo
năng động và tự suy luận của học sinh, áp dụng vào thực tiễn là biểu hiện của
phương pháp dạy tốt môn Công nghệ.
Kinh nghiệm dạy học sinh có hứng thú môn công nghệ 7 trong trường trung
học cơ sở trình bày định hướng về một số phương pháp dạy học đổi mới trong
môn công nghệ. Nhằm đem lại cho việc giảng dạy có hiệu quả hơn, đồng thời
kích thích học sinh tích cực xây dựng nội dung bài học tốt hơn.
2. Kiến nghị:

* Đối với nhà trường và cấp trên:
- Cần bổ sung đồ dùng dạy học đầy đủ hơn.
- Xin cấp trên biên chế thêm giáo viên Công nghệ về trường.
* Đối với phụ huynh và học sinh:
- Phụ huynh phải nhận thức cao về việc học của con em đối với bộ môn này
- Đốc thúc con em học tập.
14


- Học sinh phải chuẩn bị bài, đặc biệt giờ thực hành phải có đồ dùng đầy đủ
Trên đây một số kinh nghiệm BDHS mà tôi đã đúc rút trong những năm
qua ít nhiều đã làm tôi tâm đắc và mang lại một số thành công trong công tác
giảng dạy, mặc dù vậy đề tài vẫn đang còn nhiều hạn chế. Rất mong được sự
góp ý của đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

15


16



×