Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN Một số phương pháp hướng dẫn học sinh viết đoạn văn nghị luận văn học ở lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.32 KB, 22 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài:
Ngữ văn là một mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là mơn học có
vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường THCS góp phần
hình thành những con người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho
các em bước vào cuộc sống mới hoặc tiếp tục học lên bậc trung học phổ thơng.
Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng gia
đình, bè bạn. Có lịng u nước, q trọng truyền thống dân tộc, biết hướng tới
những tư tưởng, tình cảm cao đẹp, tơn trọng lẽ phải, sự cơng bằng, có lịng căm
thù cái ác, cái xấu...
Phương pháp làm văn nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, đoạn
thơ, bài thơ, cịn nhiều hạn chế: Đây là một tiết học mang tính khái quát, trừu
tượng mà thời lượng rất ít, học sinh chưa định hình được các bước tạo lập văn
bản nghị luận văn học. Trong thực tế, thời lượng đòi hỏi phương pháp tạo lập
văn bản nghị luận không nhỏ. Ngay ở lớp 6 đã có một số tác phẩm văn chương
hiện đại. Lên lớp 7 các em còn được học một số tác phẩm văn chương hay và
khó cả ở Văn học Việt Nam và văn học nước ngoài, nhất là một số bài thơ
Đường... Đối với học sinh lớp 6, lớp 7, việc nhận thức về kiến thức tạo lập văn
bản rất mờ nhạt, các em chưa hiểu được khái niệm kiểu bài, thể loại. Và chưa
định hình việc tạo lập văn bản nghị luận văn chương là gì ? Đặc biệt nhiều em
chưa có khả năng tạo lập đoạn văn nên việc tạo lập văn bản lại càng khó hơn.
Chính vì lẽ đó đến lớp 8, 9, kiến thức tạo lập văn bản nghị luận về văn học lại
trở thành vấn đề xa lạ.
Trong q trình giảng dạy mơn Ngữ văn nói chung, mơn Ngữ văn lớp 9
nói riêng, tuy giáo viên đã giúp học sinh nắm các yêu cầu về đoạn văn, cách làm
bài nghị luận ở từng kiểu bài, nhưng kĩ năng viết đoạn, viết bài nghị luận của
học sinh chưa thật thành thạo. Các em còn lúng túng, hành văn chưa mạch lạc,
chặt chẽ, nhất là đối với đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống. Trong quá
trình làm bài kiểm tra ở lớp cũng như ở kiểm tra học kì 1, học kì 2, thi tuyển vào
lớp 10 ở môn Ngữ văn nhiều năm qua, học sinh làm bài văn nghị luận về tác
phẩm văn học còn rất nhiều hạn chế. Bài làm của học sinh thường sơ sài, chung


chung, lan man, các em chưa biết viết các đoạn văn triển khai bằng các luận
điểm, các ý lộn xộn, lời văn vụng về, thậm chí có khi xa đề, lạc đề. Có bài chỉ
viết được 7 đến 8 dòng là hết… Kết quả thi vào lớp 10 môn Ngữ văn của trường
1


THCS chúng tôi nhiều năm qua đều đứng tốp cuối trong huyện: Thi học sinh
giỏi văn lớp 9 học sinh đạt giải cao rất ít, khơng có học sinh tham gia vào đội
tuyển của huyện. Thực trạng ấy làm cho BGH nhà trường phải trăn trở, suy
nghĩ. Là giáo viên dạy Ngữ văn tôi càng buồn, lo lắng về thực trạng này.
Trong năm học vừa qua, tôi được giao trách nhiệm giảng dạy môn Ngữ văn
lớp 9 và trực tiếp dạy đội tuyển học sinh giỏi, ôn thi cho các em vào lớp 10, tôi
luôn mong muốn nâng cao chất lượng dạy và học văn nói chung, phương pháp
tạo lập văn bản nói riêng cho các em. Vì vậy tơi đã thực hiện đề tài “Một số
phương pháp hướng dẫn học sinh viết đoạn văn nghị luận văn học ở lớp 9”.
II. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài được tôi thực hiện tại trường THCS nơi tôi đang công tác trong
năm học: 2014 - 2015 với đối tượng học sinh lớp 9.
- Phạm vi thực hiện: Ứng dụng vào các tiết chương trình chính khóa,
chương trình tự chọn, các buổi học bồi dưỡng, phụ đạo buổi chiều và ôn thi
tuyển sinh vào 10.
III. Mục đích nghiên cứu:
Bản thân tơi nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần củng cố phương pháp
tạo lập văn bản, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của người học và nhằm nâng cao chất
lượng bộ môn Ngữ văn lớp 9, đặc biệt kết quả thi vào 10 và thi học sinh giỏi
môn Ngữ văn của trường THCS Nguyễn Thiếp - Thạch Hà - Hà Tĩnh.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến đoạn văn, cách lập luận, trình
bày nội dung đoạn văn.
- Điều tra, khảo sát, nắm bắt tình hình thực tế.

- Tiến hành thực nghiệm trong các tiết dạy ở lớp 9A, 9B.
B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết, yêu cầu của chương trình Ngữ văn THCS là học sinh
phải tập tạo lập văn bản hồn chỉnh. Văn bản là gì? Văn bản là sản phẩm của
hoạt động giao tiếp bằng ngơn ngữ, nó là một thể thống nhất có tính chất trọn
vẹn về nội dung, hồn chỉnh về hình thức.Muốn tạo lập được một văn bản hồn
chỉnh trước hết địi hỏi mỗi học sinh phải tạo lập được đoạn văn.
2


Vậy đoạn văn là gì? Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu
từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dịng và thường
biểu đạt một ý tương đối hồn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.
Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ
ngữ được dùng làm đề mục hoặc được lặp lại nhiều lần ( thường là chỉ từ, đại từ,
các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung
khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc
cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ
chủ đề của đoạn văn. (SGK Ngữ văn 8 tập I, trang 36).
Có thể thấy về mặt nội dung, đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ
nhất định nào đó về logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ
dàng. Mỗi đoạn văn trong văn bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt
chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản
có một vai trị chức năng riêng và được sắp xếp theo một trình tự nhất định:
+ Đoạn mở đầu văn bản.
+ Các đoạn thân bài của văn bản (các đoạn này triển khai chủ đề của văn
bản thành các khía cạch khác nhau).
+ Đoạn kết thúc văn bản.
Mỗi đoạn văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội

dung của đoạn tương đối hồn chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất
định.
Về mặt hình thức, đoạn văn ln ln hồn chỉnh. Sự hồn chỉnh đó thể
hiện ở những điểm sau: mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu
chấm xuống dịng, có liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép
liên kết; mỗi đoạn văn khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa
và viết lùi vào so với các dịng chữ khác trong đoạn.
Để trình bày một đoạn văn cần phải sử dụng các phương pháp lập luận.
Lập luận là cách trình bày luận cứ dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt
chẽ hợp lí thì đoạn văn, bài văn mới có sức thuyết phục.
Trong văn bản, nhất là văn nghị luận, ta thường gặp những đoạn văn có kết
cấu (cách lập luận) phổ biến: diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp... bên cạnh
đó là cách lập luận suy luận nhân quả, suy luận tương đồng, suy luận tương
phản, đòn bẩy, nêu giả thiết…
3


- Đoạn diễn dịch là cách trình bày ý đi từ khái quát đến cụ thể. Câu chủ đề
mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai những nội
dung chi tiết cụ thể ý tưởng của chủ đề đó. Các câu triển khai được thực hiện
bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèm
những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.
- Đoạn quy nạp là cách trình bày ý ngược lại với diễn dịch - đi từ các ý chi
tiết, cụ thể đến ý khái quát. Câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được
trình bày bằng thao tác minh họa, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh
giá chung.
- Đoạn tổng - phân - hợp là sự phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở
đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết
đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai
triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận,

nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng
hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề. Khi viết đoạn văn tổng - phân - hợp,
cần biết cách khái quát, nâng cao để tránh sự trùng lặp của hai câu chốt trong
đoạn.
- Đoạn lập luận tương đồng là cách trình bày đoạn văn có sự so sánh tương
tự nhau dựa trên một ý tưởng: so sánh với một tác giả, một đoạn thơ, một đoạn
văn,… có nội dung tương tự nội dung đang nói đến.
- Đoạn so sánh tương phản là đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về
nội dung ý tưởng: những hình ảnh thơ văn, phong cách tác giả, hiện thực cuộc
sống,…tương phản nhau.
- Đoạn lập luận theo suy luận nhân quả: Có 2 cách: Trình bày ngun nhân
trước, chỉ ra kết quả sau. Hoặc ngược lại chỉ ra kết quả trước, trình bày ngun
nhân sau.
- Đoạn lập luận địn bẩy là cách trình bày đoạn văn mở đầu nêu một nhận
định, dẫn một câu chuyện hoặc những đoạn thơ văn có nội dung gần giống hoặc
trái với ý tưởng (chủ đề của đoạn) tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích
sâu sắc ý tưởng đề ra.
Các câu trong đoạn văn cũng như các đoạn trong bài phải có sự liên kết
chặt chẽ với nhau về nội dung cũng như hình thức:
- Về nội dung:
4


+ Các đoạn văn phải phục vụ chủ đề chung của văn bản, các câu phải phục
vụ chủ đề chung của đoạn văn.( Liên kết chủ đề).
+ Các đoạn văn và các câu phải được sắp xếp theo trình tự hợp lí( Liên kết
lơgic).
- Về hình thức: Các câu, các đoạn văn phải được liên kết với nhau bằng
một số biện pháp chính như:
+ Phép lặp: Lặp lại ở đầu câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu trước.

+ Phép thế: Sử dụng ở câu đứng sau từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã
có ở câu trước.
+ Phép nối: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu
trước.
+ Phép đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng: Sử dụng ở câu đứng sau các từ
ngữ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã cho ở câu
trước. ( SGK Ngữ văn 9 tập 2 trang 43).
Tất cả những kiến thức lí thuyết trên là cơ sở để tôi thực hiện đề tài sáng
kiến kinh nghiệm này. Bên cạnh đó tơi cũng khảo sát thực trạng kĩ năng viết
đoạn văn của học sinh lớp 9 ở trường THCS Nguyễn Thiếp để có giải pháp thực
hiện hợp lí, đạt hiệu quả cao.
II. Cơ sở thực tiễn:
Vào đầu các năm học, nhà trường bao giờ cũng khảo sát chất luợng học tập
các mơn Tốn, Ngữ văn để phân loại học sinh, có kế hoạch bồi dưõng học sinh
khá giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém. Kết hợp với kết quả khảo sát chất luợng,
trong các giờ học đầu năm học, tôi thường kiểm tra kĩ năng viết đoạn của học
sinh qua các bài tập nhỏ sau các tiết văn học bằng cách cho học sinh viết đoạn
văn nêu cảm nhận về tác phẩm, nhân vật, chi tiết trong tác phẩm.
Một số bài tập tôi dùng để kiểm tra:
+ Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em sau khi học văn bản?
+ Em hãy viết đoạn văn tổng - phân - hợp trình bày cảm nhận của em về
vẻ đẹp người anh hùng Nguyễn Huệ trong tác phẩm “ Hoàng Lê nhất thống chí”
của Ngơ gia văn phái?
+ Chi tiết chiếc bóng trong tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ là chi tiết rất đặc sắc. Hãy viết đoạn văn khoảng 10 - 12 câu
5


theo lối diễn dịch cảm nhận ý nghĩa của chi tiết đó?
* Kết quả khảo sát đề tài trước khi thực hiên ở lớp 9 năm học 2014 - 2015:

Tổng
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
số học
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
sinh
9A
35
2
5,7%
6
17,1% 16 45,7% 11 31,5%
9B
35
1
2,9%
7
20,1% 17 48,5% 10 28,5%
Qua kết quả khảo sát có thể nhận thấy số học sinh khơng có kĩ năng viết
đoạn cịn nhiều, số học sinh có kĩ năng viết đoạn thành thạo cịn ít. Trên bài làm

của hầu hết các em thể hiện việc nắm khái niệm đoạn văn, từ ngữ chủ đề, câu
chủ đề trong đoạn văn, cách trình bày đoạn văn thiếu tính lơ gíc, khơng biết
trình bày đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về nội dung cũng như hình thức.
Nhiều bài viết lủng củng sơ sài, lập luận không mạch lạc chặt chẽ. Các ý lộn xộn
khơng theo trình tự hợp lí. Đầu đoạn văn khơng viết hoa lùi đầu dịng. Do vậy để
khắc phục hạn chế của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học địi hỏi giáo
viên phải có những giải pháp hợp lí.
Khối
lớp

III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
1. Giải pháp 1: Củng cố kiến thức về đoạn văn cho học sinh:
1.1. Khái niệm:
- Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi
đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương
đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.
- Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ
ngữ được dùng làm đề mục hoặc được lặp lại nhiều lần ( thường là chỉ từ, đại từ,
các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung
khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đúng ở đầu hoặc
cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ
chủ đề của đoạn.
(SGK Ngữ văn 8 tập I, trang 36).
1.2. Các cách trình bày nội dung trong đoạn văn.
- Cách diễn dịch: là cách trình bày ý đi từ khái quát đến cụ thể. Câu chủ đề
mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai những nội
dung chi tiết cụ thể ý tưởng của chủ đề đó. Các câu triển khai được thực hiện
6



bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèm
những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.
Sơ đồ:

(1) (câu chủ đề nêu luận điểm)

(2)

(3)

(4) … (câu nêu các ý chi tiết, cụ thể )

- Cách qui nạp: là cách trình bày ý ngược lại với diễn dịch đi từ các ý chi
tiết, cụ thể đến ý khái quát. Câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được
trình bày bằng thao tác minh hoạ, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh
giá chung.
Sơ đồ:

(1)

(2)

(3)...(câu nêu các ý chi tiết, cụ thể )

( Câu cuối - câu chủ đề nêu luận điểm)
- Cách tổng phân hợp: là sự phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở
đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết
đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai
triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận,
nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng

hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề.
Sơ đồ:

(1) (câu chủ đề nêu luận điểm khái quát)

(2)

(3)

(4) … (câu nêu các ý chi tiết, cụ thể )

( Câu cuối - câu nêu ý khái quát nâng cao, mở
rộng)
7


Đó là những kiến thức cơ bản học sinh đã học từ lớp 8. Tôi đã củng cố
ngay cho học sinh sau khi vào đầu năm học lớp 9 qua các buổi học buổi chiều,
học tự chọn. Ngồi ra, tơi cũng mở rộng hơn một số cách trình bày đoạn khác
cho học sinh khá giỏi qua các giờ bồi dưỡng học sinh giỏi như cách suy luận
nhân quả, tương đồng, tương phản, đòn bẩy...
2. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn:
Để viết đoạn văn thành công, cần chú ý tuân thủ các bước:
Bước 1: Xác định yêu cầu của đề:
Căn cứ vào yêu cầu của đề bài, xác định rõ nội dung cần trình bày trong
đoạn là gì? ( Nội dung đó sẽ được “gói” trong câu chủ đề. Và cũng là định
hướng để viết các câu cịn lại). Nội dung đó được trình bày theo cách nào, có
u cầu nào khác về hình thức, ngữ pháp.
- Ví dụ: Viết một đoạn văn ngắn cảm nhận của em về khổ thơ:
“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
(Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải)
* Yêu cầu của đề:
- Nội dung: Đoạn thơ thể hiện khát vọng chân thành, tha thiết của tác giả
muốn làm một mùa xuân nho nhỏ đẻ dâng hiến cho cuộc đời hoà cùng mùa xuân
của dân tộc. Lí tưởng ấy là ước nguyện của nhiều người, ở mọi lứa tuổi...
- Hình thức: Viết đoạn văn ngắn.
- Yêu cầu ngữ pháp: Phép nối, phép lặp...
Bước 2: Xác định câu chủ đề cho đoạn văn:
Câu chủ đề là câu nêu ý của cả đoạn văn, vì vậy đó là câu đặc biệt quan
trọng. Khi viết đoạn cần chú ý đọc kĩ đề, xác định yêu cầu của đề, từ đó xác
định câu chủ đề.
Có những đề khơng cho sẵn câu chủ đề, có đề cho sẵn câu chủ đề, có
những đề yêu cầu sửa một câu có lỗi thành câu đúng và dùng câu đó làm câu
chủ đề, có đề lại có phần dẫn ý, dựa vào đó ta có thể xác định được câu chủ đề.
8


Ví dụ 1: Nêu ở bước 1 trên là đề không cho câu chủ đề. Để viết được câu
chủ đề, ta phải nắm vững nội dung của đoạn ở đề ra, từ đó xác định câu chủ đề.
Ví dụ 2: Đề cho sẵn câu chủ đề:
Cho câu chủ đề: “ Người đồng mình sống vất vả, cực nhọc, đói nghèo mà
vẫn bền bỉ, khống đạt, giàu chí khí, niềm tin, bất chấp vượt qua những thử
thách, gian nan bằng tình yêu và lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê
hương”. Hãy viết một đoạn văn diễn dịch teình bày luận điểm đó.
Bước 3: Tìm ý cho đoạn ( Triển khai ý):
Khi đã xác định được câu chủ đề của đoạn văn, cần vận dụng các kiến thức
đã học có liên quan để phát triển chủ đề đó thành các ý cụ thể, chi tiết. Nếu bỏ

qua thao tác này, đoạn văn dễ rơi vào tình trạng lủng củng, quẩn ý.
Ví dụ: Với đề bài: Viết đoạn văn diễn dịch từ 8 đến 10 câu, phân tích 6 câu
thơ cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.
Cần xác định các ý: Sáu câu thơ cuối miêu tả cảnh chị em Thuý Kiều
du xuân trở về.
- Cảnh vẫn mang cái nét thanh tao, trong trẻo của mùa xuân, rất êm dịu:
ánh nắng nhạt, khe nước nhỏ, nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang. Mọi cử động đều rất
nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước
uốn quanh. Một bức tranh thật đẹp, thanh khiết.
- Cảnh đã có sự thay đổi về thời gian và khơng gian. Khơng cịn bát ngát,
trong sáng, khơng cịn cái khơng khí đơng vui náo nhiệt của lễ hội, tất cả đang
nhạt dần, lặng dần.
- Cảnh được cảm nhận qua tâm trạng. Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”,
“nao nao” khơng chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà cịn bộc lộ tâm trạng con
người. Đặc biệt, hai chữ “nao nao” đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Hai
chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn, chị em Kiều ra về trong sự bần thần nuối tiếc,
lặng buồn. “Dan tay” tưởng là vui nhưng thực ra là chia sẻ cái buồn khơng thể
nói hết. Cảm giác bâng khng, xao xuyến về một ngày vui xuân đã hé mở vẻ
đẹp của một tâm hồn thiếu nữ tha thiết với niềm vui cuộc sống, nhạy cảm và sâu
lắng.
Bước 4: Viết các ý thành đoạn văn:

9


Trên cơ sở các ý vừa tìm, viết thành đoạn văn. Căn cứ vào yêu cầu về kiểu
diễn đạt để xác định vị trí câu chủ đề và cách lập luận trong đoạn văn. Ngồi ra
cịn đảm bảo các u cầu về ngữ pháp (nếu có).
Ví dụ:
Với đề trên ( bước 3) cần đặt câu chủ đề ở đầu đoạn văn, sắp xếp các ý viết

thành đoạn văn đủ số câu, đánh thứ tự các câu trong đoạn, trình bày thành đoạn
văn đảm bảo sự liên kết cả nội dung lẫn hình thức.
Sáu câu thơ cuối đoạn trích “Cảnh ngày xuân”đã miêu tả cảnh chị em Thuý
Kiều du xuân trở về.(1) Cảnh vẫn mang cái nét thanh tao, trong trẻo của mùa
xuân, rất êm dịu: ánh nắng nhạt, khe nước nhỏ, nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang. (2)
Mọi cử động đều rất nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người
thơ thẩn, dòng nước uốn quanh.(3) Một bức tranh thật đẹp, thanh khiết.(4)Cảnh
đã có sự thay đổi về thời gian và khơng gian: Khơng cịn bát ngát, trong sáng,
khơng cịn cái khơng khí đơng vui náo nhiệt của lễ hội, tất cả đang nhạt dần,
lặng dần.(5)Cảnh được cảm nhận qua tâm trạng.(6)Những từ láy “tà tà”, “thanh
thanh”, “nao nao” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng
con người.(7)Đặc biệt, hai chữ “nao nao” đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật.
(8)Hai chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn, chị em Kiều ra về trong sự bần thần
nuối tiếc, lặng buồn, “dan tay” tưởng là vui nhưng thực ra là chia sẻ cái buồn
khơng thể nói hết.(9) Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân
đã hé mở vẻ đẹp của một tâm hồn thiếu nữ tha thiết với niềm vui cuộc sống,
nhạy cảm và sâu lắng.(10)
Trong đoạn trên Câu 1 là câu mở đoạn, nêu ý chủ đề của cả đoạn văn. Các
câu còn lại( từ câu 2 đến câu 10), nêu các ý cụ thể, phân tích nội dung, nghệ
thuật của sáu câu thơ.
Các bước trên là những thao tác cần có để viết được một đoạn văn hồn
chỉnh cả nội dung lẫn hình thức, đáp ứng yêu cầu của đề. Tuy nhiên không phải
học sinh nào cũng thực hiện đủ các thao tác trên khi làm bài. Điều này giáo viên
phải thường xuyên nhắc nhở để tạo thành thói quen cho học sinh. Đặc biệt để
hình thành kĩ năng cho học sinh một cách thành thạo cần tăng cường rèn luyện
qua việc thực hành viết đoạn văn cho các em một cách có hệ thống từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp.
3. Giải pháp 3: Rèn luyện kĩ năng dựng đoạn cho học sinh bằng các dạng
bài tập.
10



3.1.Dạng bài tập nhận biết:
- Mục đích của bài tập là cung cấp cho học sinh các dạng đoạn văn cụ thể,
trên cơ sơ đó các em nhận biết được mơ hình cấu trúc đoạn, từ ngữ chủ đề, câu
chủ đề. Và cao hơn là cách trình bày các luận cứ để dẫn đến luận điểm. Tuỳ từng
đối tượng học sinh mà ra bài tập với những yêu cầu nhận biết các đoạn văn trình
bày theo cách phổ biến thơng dụng hay cách mở rộng, nâng cao.
Ví dụ các bài tập 1, 2, 3 dưới đây tôi dùng để triển khai cho học sinh đại
trà, các bài tập 4,5,6, 7 dùng cho học sinh khá giỏi.
Bài tập 1:
Đoạn văn sau là đoạn phân tích tâm trạng của Kiều khi ở Lầu Ngưng Bích.
Hãy xác định câu chủ đề, các từ ngữ chủ đề của đoạn văn? Nội dung đoạn văn
được triển khai như thế nào?
Sáu câu thơ đầu gợi tả hồn cảnh cơ đơn, tội nghiệp của Kiều khi bị giam ở
lầu Ngưng Bích.(1) Hai chữ "khóa xn" cho thấy đây thực chất là bị giam
lỏng. (2) Nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. (3) Câu thơ
sáu chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: "Bốn bề bát ngát xa
trông".(4) Cảnh "non xa", "trăng gần" như gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích
chơi vơi giữa mênh mang trời nước. (5) Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy
những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. (6) Cái lầu chơi vơi ấy
giam một thân phận trơ trọi, khơng một bóng người, khơng sự giao lưu giữa
người với người. (7) Hình ảnh "non xa", "trăng gần", "cát vàng", "bụi hồng" có
thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh
mơng, rợn ngợp của khơng gian, qua đó diễn tả tâm trạng cơ đơn của Kiều. (8)
Cụm từ "mây sớm đèn khuya" gợi thời gian tuần hồn, khép kín. (9) Thời gian
cũng như không gian giam hãm con người. (10) Sớm và khuya, ngày và đêm,
Kiều "thui thủi quê người một thân". Nàng chỉ biết làm bạn với "mây sớm, đèn
khuya". (11) Nàng đó rơi vào hồn cảnh cơ đơn tuyệt đối.
Mơ hình đoạn văn: Câu 1 là câu mở đoạn, mang ý chính của đoạn gọi là

câu chủ đề, 10 câu cịn lại là những câu triển khai làm rõ ý của câu chủ đề. Đây
là đoạn văn phân tích có kết cấu diễn dịch. Từ ngữ chủ đề: Kiều, nàng, Ngưng
Bích, hồn cảnh, tâm trạng, cảnh, hình ảnh...
2. Bài tập 2:

11


Đoạn văn sau trình bày nội dung theo cách nào? Chỉ rõ cách trình bày nội
dung đoạn văn?
“Chính Hữu khép lại bài thơ bằng một hình tượng thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo(1).
Đêm khuya chờ giặc tới, trăng đã xế ngang tầm súng(2). Bất chợt chiến sĩ
ta có một phát hiện thú vị: Đầu súng trăng treo(3). Câu thơ như một tiếng reo
vui hồn nhiên mà chứa đựng đầy ý nghĩa(4). Trong sự tương phản giữa súng và
trăng, người đọc vẫn tìm ra được sự gắn bó gần gũi(5). Súng tượng trưng cho
tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược(6). Trăng tượng trưng cho
cuộc sống thanh bình, yên vui(7). Khẩu súng và vầng trăng là hình tượng sóng
đơi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam bất khuất và hào
hoa muôn thuở(8). Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạng bay bổng đã hoà
quyện lẫn nhau tạo nên hình tượng thơ tuyệt tác để đời(9).”
Mơ hình đoạn văn: Tám câu đầu triển khai phân tích hình tượng thơ trong
đoạn cuối bài thơ “Đồng chí”, từ đó khái quát vấn đề trong câu cuối – câu chủ
đề, thể hiện ý chính của đoạn: đánh giá về hình tượng thơ. Đây là đoạn văn phân
tích thơ có kết cấu quy nạp. Nội dung phân tích đoạn kết bài thơ “Đồng chí” của
Chính Hữu..
3.Bài tập 3:
Đoạn văn dưới đây lập luận theo cách tổng - phân - hợp phân tích khổ thơ

đầu bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Chỉ rõ cách lập luận trong đoạn văn?
“ Ngay từ khổ thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những tín
hiệu riêng của mùa thu.(1) Khơng phải là những rừng phong sắc đỏ, giậu cúc
vàng, lá ngô đồng rơi hay ao sen tàn lạnh... như trong thơ cổ. (2) Cũng không
phải là màu trời xanh ngắt hay làn nước biếc trong như trong thơ thu Nguyễn
Khuyến...(3)Tín hiệu của mùa thu này là làn hương ổi “ phả vào trong gió se”.
(4) Phải có “gió se”thì mới có hương thơm nồng đậm thế.(5) Làn gió heo may
trong mát với thoáng chớm lạnh đầu mùa như biết thanh lọc, chắt chiu để có
được mùi hương ấy.(6) Gió đưa làn hương đi theo khắp nẻo, như để “thông
báo” với đất trời, với hồn người một tín hiệu vui: mùa thu đang tới!(7) Chỉ bằng
12


vài nét vẽ, nhà thơ đã nắm bắt, tái hiện được vẻ đẹp mơ hồ, tinh tế của khoảnh
khắc giao mùa.(8)”
Mơ hình đoạn văn: Đoạn văn gốm tám câu:
- Câu đầu (tổng): Nêu lên nhận định khái quát về khổ đầu bài “ Sang thu”
của Hữu Thỉnh mang đến cho người đọc những tín hiệu riêng của mùa thu.
- Năm câu tiếp ( phân): Phân tích để chứng minh những tín hiệu riêng đó.
- Câu cuối (hợp): Khẳng định, nâng cao: chỉ bằng vài nét vẽ, nhà thơ đã
nắm bắt, tái hiện được vẻ đẹp mơ hồ, tinh tế của khoảnh khắc giao mùa.
3.2. Dạng bài tập vận dụng:
3.2.1. Viết câu chủ đề cho đoạn văn.
Trong văn nghị luận, câu chủ đề là câu đặc biệt quan trọng. Khi phân tích
đoạn trích hay tác phẩm, câu chủ đề phải nêu được nội dung chính cần phân
tích. Viết được câu chủ đề có thể coi là có được chìa khố để mở vấn đề. Vì vậy,
đây là dạng đề theo tơi không kém phần quan trọng trong việc rèn kĩ năng viết
đoạn cho học sinh.
Với dạng bài này, có thể có một số bài tập cụ thể sau:
3.2.1.1. Cho câu chủ đề viết còn mắc lỗi về ngữ pháp, diễn đạt, yêu cầu

học sinh sửa lại cho chuẩn:
Ví dụ: bài tập 1:
Khi viết đoạn văn phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm: “ Chuyện
người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, một bạn học sinh đã viết câu mở
đọan như sau:
“Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm: “ Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ vừa là người phụ nữ thuỳ mị nết na, tư dung tốt đẹp lại
là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, là người vợ thuỷ chung với chồng, là
người mẹ hiền của con chồng”.
Chỉ ra các lỗi trong câu văn trên? Hãy viết câu văn sau khi đã sửa lại cho
đúng?
Yêu cầu với bài tập:
- Chỉ ra các lỗi trong câu văn:
+ Câu chủ đề cịn dài, ý rườm rà, có ý khơng lơ gíc: là người mẹ hiền của
con chồng”.
13


+ Cấu trúc câu khơng hợp lí: Phụ từ “vừa” khơng bao giờ đi một mình mà
phải đi thành cặp: ...vừa...vừa...
- Viết lại câu chủ đề: Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm: “ Chuyện người
con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là người phụ nữ thuỳ mị nết na, tư dung
tốt đẹp, người con hiếu thảo, người vợ thuỷ chung, người mẹ yêu con tha thiết”.
Bài tập 2:
a.Chép lại câu viết dưới đây, sau khi đã sửa hết các lỗi chính tả, ngữ pháp:
"Trong truyện "Những ngơi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê bằng những nét
đặc xắc trong cách miêu tả nhân vật và cách kể truyện đã làm nổi bật tâm hồn
trong sáng, dũng cảm vượt khó khăn gian khổ, hi sinh lạc quan trong cuộc sống
chiến đấu của những cô gái thanh niên sung phong trên tuyến đường Trường
Sơn".

b. Dùng câu văn đă sửa trên làm phần mở đoạn viết tiếp 8 - 10 câu, phần
kết đoạn là một câu cảm.
Yêu cầu của bài tập:
a.Sửa lỗi chính tả và lỗi ngữ pháp:
Trong truyện "Những ngơi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê, bằng những nét
đặc sắc trong cách miêu tả nhân vật và cách kể chuyện, tác giả đã làm nổi bật
tâm hồn trong sáng, dũng cảm vượt khó khăn gian khổ, hi sinh, lạc quan trong
cuộc sống, chiến đấu của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn.
b. Viết đoạn: Các câu phát triển:
Họ là những cô gái thanh niên xung phong có tâm hồn trong sáng, hay mơ
mộng dễ vui nhưng cũng dễ trầm tư. Họ rất nữ tính, thích làm đẹp ngay nơi
chiến trường khói lửa. Nho thích thêu thùa. Thao chăm chép bài hát, hay làm
dáng. Phương Định thích ngắm mình trong gương, bó gối mơ mộng và thích hát.
Đặc biệt họ rất dũng cảm vượt khó khăn, gian khổ, hi sinh, lạc quan trong cuộc
sống, chiến đấu. Công việc của họ rất nguy hiểm, đối mặt với thần chết hàng
ngày, hàng giờ nhưng họ sẵn sàng nhận việc phá bom mà không cần sự trợ giúp
của đơn vị, dám đối mặt với thần chết mà không hề run sợ. Họ ln có tinh thần
trách nhiệm cao với nhiệm vụ, ln đặt nhiệm vụ lên trên cả tính mạng. Có lúc
họ nghĩ đến cái chết khi nguy hiểm kề bên nhưng điều ấy chỉ thoáng qua rất mờ
14


nhạt nhường chỗ cho ý nghĩ liệu bom có nổ? Làm thế nào để những quả bom kia
phải nổ?
Câu kết đoạn là câu cảm thán:
Họ chính là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng
chiến oai hùng của dân tộc!
Trong các bài tập trên, bài tập 1 là dạng bài đơn giản được thực hiện ở đầu
năm học, cịn bài tập 2 có nhiều u cầu phức tạp hơn, không chỉ viết câu chủ đề

mà là viết cả các câu phát triển, và không phải chỉ có u cầu viết đoạn mà cịn
có cả u cầu ngữ pháp kèm theo, vì đây là bài tập được thực hiện vào cuối năm
học khi các kĩ năng viết đoạn của học sinh đã cơ bản được củng cố, thành thạo
và cần rèn luyện thêm các yêu cầu khác cho quen với dạng đề thi vào 10.
3.2.1.2. Cho đoạn thơ hoặc đoạn văn cần phân tích, yêu cầu học sinh
xác định câu chủ đề cho đọan đó.
Ví dụ: Bài tập 1:
Cho đoạn thơ sau: “ Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bơng hoa”.
( Trích “Cảnh ngày xn”- Truyện Kiều – Nguyễn Du).
Hãy viết câu chủ đề cho đoạn văn phân tích đoạn thơ trên?
Bài tập 2:
Khi phân tích sáu câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, em sẽ viết
câu chủ đề như thế nào?
Thực chất yêu cầu viết câu chủ đề cũng chính là yêu cầu xác định nội dung
cần viết trong đoạn văn. Muốn viết được câu chủ đề, học sinh phải nắm được
nội dung của đoạn thơ, đoạn văn mà đề yêu cầu phân tích. Điều này các em phải
tích hợp kiến thức ở cả ba phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn.
Với bài tập 1, ta có thể viết câu chủ đề:
“Bốn câu thơ đầu đoạn trích“Cảnh ngày xuân”( Trích trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du) là bức họa tuyệt đẹp về khung cảnh thiên nhiên mùa xuân.

15


Hoặc: Chỉ bằng vài nét chấm phá, Nguyễn Du đã vẽ nên bức hoạ tuyệt đẹp
về khung cảnh thiên nhiên mùa xuân.
Với bài tập 2, ta có thể viết câu chủ đề:

“Sáu câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, là bức tranh tả cảnh
ngụ tình thật đặc sắc”.
Hoặc: “Sáu câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, là đỉnh cao của
bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”.
3.2.2. Viết đoạn văn dựa vào câu chủ đề cho sẵn.
Bài tập 1: Từ câu chủ đề sau: “Khác với Thúy Vân, Thuý Kiều có vẻ đẹp
sắc sảo, mặn mà cả tài lẫn sắc”. Hãy viết tiếp khoảng 10 câu văn để hoàn thành
một đoạn văn theo cách Tổng hợp – Phân tích - Tổng hợp.
Gợi ý
- Dùng câu chủ đề trên làm câu mở đoạn.
- Viết nối tiếp bằng những câu sau:
Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những hình tượng nghệ thuật ước
lệ “thu thuỷ” (nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân), hoa, liễu. Nét vẽ của
thi nhân thiên về gợi, tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt
thế. Vẻ đẹp ấy được gợi tả qua đôi mắt Kiều, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần
tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Đó là một đơi mắt biết nói và có sức rung cảm
lịng người. Hình ảnh ước lệ “làn thu thuỷ” – làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên
thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. Cịn hình ảnh
ước lệ “nét xn sơn” – nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi lông mày thanh tú trên
gương mặt trẻ trung. “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” – Vẻ đẹp quá
hoàn mĩ và sắc sảo của Kiều có sức quyến rũ lạ lùng khiến thiên nhiên không
thể dễ dàng chịu thua, chịu nhường mà phải nảy sinh lòng đố kỵ, ghen ghét, báo
hiệu lành ít, dữ nhiều. Khơng chỉ mang một vẻ đẹp “nghiêng nước, nghiêng
thành”, Kiều cịn là một cơ gái thông minh và rất mực tài hoa.Tài của Kiều đạt
tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, gồm đủ cả cầm (đàn), kỳ
(cờ), thi (thơ), hoạ (vẽ). Đặc biệt nhất vẫn là tài đàn của nàng, đã là sở trường,
năng khiếu (nghề riêng), vượt lên trên mọi người (ăn đứt). Đặc tả cái tài của
Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng: Cung đàn “bạc mệnh” mà
Kiều tự sáng tác nghe thật da diết buồn thương, ghi lại tiếng lòng của một trái
tim đa sầu, đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của cả sắc – tài – tình. Tác

16


giả dùng thành ngữ “nghiêng nước, nghiêng thành” để cực tả giai nhân, đồng
thời là lời ngợi ca nhân vật. Chân dung của Thuý Kiều cũng là chân dung mang
tính cách số phận. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hoá phải ghen ghét, phải đố kị
“hoa ghen, liễu hờn”. Điều này dự báo tương lai số phận nàng sẽ éo le, đau khổ.
- Câu chốt đoạn:
Như vậy, chỉ bằng mấy câu thơ trong đoạn trích, Nguyễn Du đã khơng chỉ
miêu tả được nhân vật mà còn dự báo được trước số phận của nhân vật; không
những truyền cho người đọc tình cảm u mến nhân vật mà cịn truyền cả nỗi lo
âu phấp phỏng về tương lai số phận nhân vật.
Bài tập 2:
Cho câu chủ đề: So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn
Nam Cao trước cách mạng tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có những điểm
tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm hồn, tình cảm và tính cách.
Hãy viết đoạn văn có sử dụng câu trên làm câu chủ đề, trong đoạn có sử
dụng cách lập luận so sánh tương đồng hoặc tương phản, suy luận nhân quả...
So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao trước
cách mạng tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có những điểm tiến bộ vượt bậc
trong nhận thức, tâm hồn, tình cảm và tính cách. Đó chính là nhờ vào đường lối
giác ngộ cách mạng của Đảng, Bác Hồ với họ. Lão Hạc và ơng Hai có những
điểm tính cách khác nhau nhưng họ vẫn có những phẩm chất của những người
nông dân giống nhau, đều hiền lành, chất phác, lương thiện. Cách mạng tháng
Tám thành công đã đem đến sự đổi đời cho mỗi người nông dân. Từ một thân
phận nô lệ phụ thuộc họ trở thành một người tự do làm chủ cuộc đời, làm chủ
đất nước. Từ đó đã củng cố và làm nền tảng vững chắc cho tình yêu quê hương,
đất nước, trở thành một tình cảm vững bền, thiêng liêng sâu nặng, nồng cháy
trong họ. Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống
Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình

u cá nhân của mình với làng chợ Dầu, ơng dành tất cả tình cảm, tâm hồn mình
cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người ơng Hai nói riêng và người
nơng dân Việt Nam nói chung. Văn hào I li a, E ren bua có nói: …” Lịng u
nhà, u làng xóm, u đồng q trở nên lịng u tổ quốc. Ơng Hai đúng là một
con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó với làng. Lịng u
làng của ơng chính là cội nguồn của lòng yêu nước.
17


- Đoạn văn trình bày theo cách diễn dịch.
- Cách lập luận nhân quả: So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của
nhà văn Nam Cao trước cách mạng tháng Tám, rõ ràng ta thấy ơng Hai có
những điểm tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm hồn, tình cảm và tính cách.
Đó chính là nhờ vào đường lối giác ngộ cách mạng của Đảng, Bác Hồ với họ.
- Cách lâp luận so sánh tương đồng:
- Lão Hạc và ơng Hai có những điểm tính cách khác nhau nhưng họ vẫn có
những phẩm chất của những người nơng dân giống nhau, đều hiền lành, chất
phác, lương thiện.
- Văn hào I li a, E ren bua có nói: …” Lịng u nhà, u làng xóm, u
đồng q trở nên lịng yêu tổ quốc. Ông Hai đúng là một con người như thế.
Niềm vui, nỗi buồn của ơng đều gắn bó với làng. Lịng u làng của ơng chính
là cội nguồn của lịng u nước.
3.2.3. Viết đoạn văn khơng cho sẵn câu chủ đề.
Với dạng bài tập này yêu cầu học sinh có kĩ năng tổng hợp hơn. Khơng chỉ
biết xác định câu chủ đề mà cịn biết trình bày đoạn văn theo cách lập luận mà
đề yêu cầu.
Ví dụ: Bài tập 1:
Viết đoạn văn diễn dịch phân tích 6 câu thơ cuối trong đoạn trích “Cảnh
ngày xuân”.
Yêu cầu của bài tập:

- Hình thức: Viết đoạn văn diễn dịch.
- Nội dung: Phân tích sáu câu thơ cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.
Sáu câu thơ cuối miêu tả cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về. Cảnh vẫn
mang cái nét thanh tao, trong trẻo của mùa xuân, rất êm dịu: ánh nắng nhạt, khe
nước nhỏ, nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang. Mọi cử động đều rất nhẹ nhàng: mặt trời
từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Một bức
tranh thật đẹp, thanh khiết. Cảnh đã có sự thay đổi về thời gian và khơng gian:
Khơng cịn bát ngát, trong sáng, khơng cịn cái khơng khí đơng vui náo nhiệt của
lễ hội, tất cả đang nhạt dần, lặng dần. Cảnh được cảm nhận qua tâm trạng.
Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” khơng chỉ biểu đạt sắc thái cảnh
vật mà cịn bộc lộ tâm trạng con người. Đặc biệt, hai chữ “nao nao” đã nhuốm
18


màu tâm trạng lên cảnh vật. Hai chữ “thơ thẩn” có sức gợi rất lớn, chị em Kiều
ra về trong sự bần thần nuối tiếc, lặng buồn. “dan tay” tưởng là vui nhưng thực
ra là chia sẻ cái buồn không thể nói hết. Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về
một ngày vui xuân đã hé mở vẻ đẹp của một tâm hồn thiếu nữ tha thiết với niềm
vui cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng. Đoạn thơ hay bởi đã sử dụng các bút pháp
cổ điển: tả cảnh gắn với tả tình, tả cảnh ngụ tình.
3.2.4. Viết đoạn văn, với yêu cầu cụ thể về hình thức, kèm theo các yêu
cầu về liên kết câu, ngữ pháp.
Ví dụ:
Bài tập 1: Cho ba câu thơ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Viết một đoạn văn ngắn từ 10 đến 12 câu theo phép luận luận Tổng hợp Phân tích - Tổng hợp để phân tích cái hay mà em cảm nhận được từ ba câu thơ
trên. Chỉ ra các phép liên kết em đã sử dụng trong đoạn văn.
Gợi ý

Ba câu thơ kết thúc bài thơ “Đồng chí” là bức tranh đẹp về tình đồng chí,
là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Trong cảnh “rừng hoang sương muối” nhưng những người lính vẫn đứng
cạnh bên nhau, im lặng, phục kích chờ giặc tới. Từ “chờ” gợi lên tư thế chủ
động của người lính. Hai câu thơ đối nhau thật chỉnh và gợi cảm giữa khung
cảnh và toàn cảnh. Khung cảnh lạnh lẽo, buốt giá. Tồn cảnh là tình cảm ấm
nồng của người lính với đồng đội của các anh. Sức mạnh của tình đồng đội đã
giúp người lính vượt lên tất cả sự khắc nghiệt của thời tiết. Tình đồng đội đã
sưởi ấm lịng các anh giữa rừng hoang mùa đơng và sương muối buốt giá. Hình
ảnh“ Đầu súng trăng treo”là có thật trong cảm giác, được nhận ra từ những đêm
hành quân, phục kích chờ giặc.Nhưng đây là hình ảnh đẹp nhất, gợi bao liên
tưởng phong phú: Súng và trăng là gần và xa, là chiến sĩ và thi sĩ, là thực tại và
19


mơ mộng. Tất cả đã hòa quyện, bổ sung cho nhau trong cuộc đời người lính
cách mạng. Câu thơ như nhãn tự của cả bài, vừa mang tính hiện thực, vừa mang
sắc thái lãng mạn, là một biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí thân thiết. Ba câu
thơ là bức tranh đẹp, là biểu tượng đẹp giàu chất thơ về tình đồng chí, đồng đội
của người lính trong kháng chiến chống Pháp.
Bài tập 2:
Viết một đoạn văn ngắn để nêu lên suy nghĩ của em về những điều người
cha nói với con qua khổ thơ sau:
“Người đồng mình thơ sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao q hương
Cịn q hương thì làm phong tục.”

(Nói với con – Y Phương)
Trong đoạn có sử dụng:
+ Lời dẫn trực tiếp.
+ Phép lặp.
(Có gạch chân hoặc chú thích)
Gợi ý :

“Người đồng mình thơ sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao q hương
Cịn q hương thì làm phong tục.”
Những câu thơ là lời người cha nói với con về đức tính của “người đồng
mình” . Người cha ca ngợi đức tính cao đẹp của “người đồng mình” bằng
những hình ảnh đầy ấn tượng : “Người đồng mình thơ sơ da thịt/ Chẳng mấy
ai nhỏ bé đâu con”. Đó là những con người chân chất, khoẻ khoắn. Họ mộc
mạc mà không nhỏ bé về tâm hồn. Họ giàu ý chí và niềm tin. Họ tự chủ trong
cuộc sống, biết “tự đục đá kê cao quê hương” bằng tinh thần cần cù lao động,
bằng ý chí và nghị lực. Họ muốn giữ lấy bản sắc văn hoá duy trì những tập quán
tốt đẹp của người đồng mình. Họ tha thiết yêu quê hương, lấy quê hương làm
chỗ dựa vững chắc cho tâm hồn. Nói với con những điều đó, người cha mong
con biết tự hào về truyền thống quê hương, tự hào về dân tộc để tự tin hơn
trong cuộc sống của mình.
20


- Các từ in đậm, nghiêng: phép lặp.
- Câu gạch chân in đậm, nghiêng: lời dẫn trực tiếp.
IV. KẾT QUẢ SAU KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
Qua hai năm thực hiện đề tài, tôi nhận thấy kĩ năng dựng đoạn của học sinh

tăng lên rõ rệt sau từng năm học. Nhiều em đã có kĩ năng viết đoạn thành thạo,
đảm bảo sự liên kết cả về nội dung cũng như hình thức. Cuối năm học tôi đã
khảo sát, kiểm chứng kết quả thực hiện đề tài qua việc khảo sát kĩ năng viết
đoạn của học sinh hai lớp 9 để đối chứng so với đầu năm chưa triển khai thực
hiện đề tài.
Đề bài dùng để khảo sát:
Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Phương Định
trong truyện ngắn: “ Những ngôi sao xa xôi ” của Lê Minh Khuê.
* Kết quả khảo sát tại lớp 9A,9B Trường THCS Nguyễn Thiếp sau khi áp
dụng đề tài:

Khối lớp

Đầu
năm
Cuối
năm

Tổn
g số
học
sinh

KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi

Trung
bình

Khá


Yếu

T
S

%

T
S

%

T
S

%

TS

%

9A

35

2

5,7%


6

17,1%

16

45,7

11

31,5%

9B

35

1

2,9%

7

20,1%

17

48,5%

10


28,5%

9A

35

9

26,3%

12

31,8%

12

36,8%

2

5,3%

9B
35
7 20,0% 13 37,1% 12 36,8% 3
8,6%
So với kết quả khi chưa thực hiện đề tài, kết quả có thay đổi rõ rệt, tỉ lệ
khá giỏi tăng, tỉ lệ trung bình, yếu giảm.
Kết quả này cũng được khẳng định một cách khách quan qua các kì thi
tuyển học sinh giỏi Ngữ văn 9 và thi vào 10 môn Ngữ văn của trường THCS

Nguyễn Thiếp trong năm học 2014 - 2015. Thông qua tiết dạy chuyên đề ở
trường bản thân tôi được bạn bè đồng nghiệp, tổ chuyên môn và ban giám hiệu
nhà trường đánh giá cao.
C: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
21


Sáng kiến kinh nghiệm được rút từ thực tế giảng dạy, qua quá trình hướng
dẫn học sinh kĩ năng viết đoạn văn nghị luận. Những giải pháp thực hiện đã giúp
học sinh nhất là đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống có kĩ năng viết đoạn
văn, bài văn nghị luận. Như chúng ta đã biết, trên thực tế, đoạn văn là một phần
của văn bản. Khi các em có kĩ năng viết đoạn thành thạo thì cũng nâng cao kĩ
năng viết bài tập làm văn. Các kĩ năng dựng đoạn trong phạm vi đề tài này đều
là những kĩ năng có thể sử dụng hiệu quả khi viết các đoạn thân bài của bài nghị
luận về tác phẩm truyện, đoạn trích, đoạn thơ, bài thơ.
Mặc dù, khi viết bài văn, đoạn văn nghị luận văn học cần phải có kĩ năng
phân tích tác phẩm theo từng thể loại (Trong phạm vi đề tài này tôi không đề
cập đến). Nhưng các kĩ năng dựng đoạn đã thực hiện trong đề tài cũng đã góp
phần nâng cao kĩ năng làm văn nghị luận, nhất là nghị luận văn học cho học
sinh, từng bước nâng cao chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn Ngữ văn
trong nhà trường cũng như khả năng tạo lập văn bản khi bước vào cuộc sống.
Tạo cho các em ln có khả năng lập luận mạch lạc, chặt chẽ, thuyết phục khi
trình bày một vấn đề, một ý tưởng. Một số bài học rút ra của tôi sau khi thực
hiện đề tài là:
- Giáo viên cần cho học sinh nắm vững kiến thức về đoạn văn: Khái niệm,
cách trình bày nội dung trong đoạn văn.
- Giáo viên phải có điều tra khảo sát thực tế, và tuỳ theo đối tượng học sinh
khá, giỏi hay trung bình, yếu mà vận dụng lựa chọn các dạng bài tập phù hợp.
Qua đó mà củng cố hoặc nâng cao kiến thức về đoạn văn, rèn luyện kĩ năng
dựng đoạn văn cho học sinh.

- Đặc biệt là phải cho học sinh nắm vững kiến thức về các tác phẩm văn
học ( qua các giờ học phân môn Văn) để có nội dung thực hành khi viết đoạn.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi qua việc thực hiện đề tài ở trường
THCS Nguyễn Thiếp. Tuy nhiên, đây chỉ là kinh nghiệm mang tính chủ quan
của bản thân và mới áp dụng trong phạm vi hẹp. Rất mong sự đóng góp ý kiến,
trao đổi, bổ sung của bạn bè đồng nghiệp và sự phổ biến nhân rộng của đề tài để
kết quả giáo dục nói chung, dạy và học văn nói riêng của học sinh ngày càng
được nâng cao.
Xin chân thành cảm ơn!
Thạch Hà, ngày 10 tháng 10 năm 2016
22



×