Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Cảm quan lịch sử trong tiểu thuyết hồ quý ly của nguyễn xuân khánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.47 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ NGỌC LINH

CẢM QUAN LỊCH SỬ
TRONG TIỂU THUYẾT HỒ QUÝ LY
CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học

Người hướng dẫn khoa học

PGS. TS. PHÙNG GIA THẾ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phùng
Gia Thế, người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. Đồng thời tôi cũng xin gửi lời
cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô trong khoa Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Lí luận văn học cùng với
bạn bè và người thân đã tạo điều kiện để tôi có thể hoàn thành khóa
luận “Cảm quan lịch sử trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân
Khánh”.


Để hoàn thành khóa luận này, người viết cũng đã cố gắng tìm tòi và
nghiên cứu. Tuy nhiên bài viết cũng không thể tránh được những thiếu sót. Vì
vậy tôi rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của thầy cô và các bạn để
khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Ngọc Linh


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy giáo, PGS.TS.
Phùng Gia Thế. Tôi xin cam đoan:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm hiểu của bản thân tôi
- Những kết quả từ những tác giả trước mà tôi sử dụng trong khóa luận
đều được trích dẫn rõ ràng, cụ thể.
- Không có bất kì sự không trung thực nào trong kết quả nghiên cứu.
Nếu có sai trái tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Ngọc Linh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................... 5
3.1. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................... 5
4.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 6
6. Bố cục của khóa luận........................................................................................6
NỘI DUNG........................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ............................... 7
VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH.....................7
1.1. Khái quát về tiểu thuyết lịch sử..................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm lịch sử........................................................................................7
1.1.2. Khái niệm tiểu thuyết..................................................................................8
1.1.3. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử......................................................................9


1.2. Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh............................................... 9
1.3. Tiểu thuyết Hồ Quý Ly trong hành trình sáng tạo.......................................12
của Nguyễn Xuân Khánh....................................................................................12
CHƯƠNG 2. CẢM QUAN VĂN HÓA............................................................. 15
VÀ CON NGƯỜI THỜI ĐẠI TRONG HỒ QUÝ LY........................................15
2.1. Cảm quan văn hóa trong Hồ Quý Ly........................................................... 15
2.1.1. Tôn giáo.................................................................................................... 15
2.1.2. Phong tục.................................................................................................. 16
2.1.3. Giáo dục.................................................................................................... 17
2.2. Con người thời đại trong Hồ Quý Ly.......................................................... 18
2.2.1. Hồ Quý Ly- anh hùng và bi kịch..............................................................18
2.2.2. Vua chúa nhà Trần trong Hồ Quý Ly.......................................................21

2.2.3. Các vị danh tướng- sẵn sàng hy sinh vì nghiệp lớn................................. 22
2.2.4. Kẻ sĩ tài hoa- không thỏa hiệp với thời cuộc........................................... 23
2.2.5. Nhân vật nữ mang thiên tính nữ Việt Nam.............................................. 25
2.2.5.1. Vẻ đẹp đài các, dịu dàng, mong manh nhưng mạnh mẽ và quyết liệt..26
2.2.5.2. Vẻ đẹp đậm chất tự nhiên với tình yêu tha thiết, thủy chung............... 29
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG......................................................32
NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT HỒ QUÝ LY.......................32
3.1. Không gian – thời gian nghệ thuật.............................................................. 32
3.1.1. Không gian nghệ thuật..............................................................................32
3.1.1.1. Không gian văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Việt................................ 32


3.1.1.2. Không gian đời sống..............................................................................34
3.1.1.3. Không gian lịch sử, địa lý......................................................................37
3.1.2. Thời gian nghệ thuật................................................................................. 38
3.1.2.1. Thời gian đồng hiện: Đan xen giữa quá khứ và hiện tại.......................38
3.1.2.2. Thời gian lịch sử, sự kiện được tái hiện chân thực............................... 40
3.1.2.3. Sự dồn nén và trì hoãn về thời gian.......................................................40
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật................................................................................... 42
3.2.1. Ngôn ngữ mang màu sắc quan phương, cổ kính......................................42
3.2.2. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống...................................................43
3.2.3. Ngôn ngữ giàu tính triết lí........................................................................ 44
KẾT LUẬN.........................................................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vấn đề cảm quan lịch sử nói chung, cảm quan lịch sử trong văn

chương nói riêng từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy
nhiên, do tính phức tạp của vấn đề nên chủ đề trên thường gây ra những cuộc
tranh luận và những gợi mở đòi hỏi cần tiếp tục đi sâu tìm hiểu. Nghiên cứu
cảm quan lịch sử trong văn chương, do đó, vừa giúp người nghiên cứu tìm
hiểu diễn ngôn lịch sử trong văn chương vừa thấy được hàm lượng văn hóa và
năng lực sáng tạo của mỗi nhà văn.
1.2. Nguyễn Xuân Khánh có những tác phẩm từ những năm năm mươi
của thế kỉ trước nhưng trước một số lí do, ông đã ngừng sáng tác trong một
thời gian dài. Những năm gần đây, với các phẩm xuất sắc như Hồ Quý Ly
(2000), Mẫu thượng ngàn (2006) và Đội gạo lên chùa (2012), Nguyễn Xuân
Khánh đã xuất hiện trở lại nền văn học Việt Nam trong sự chào đón nồng
nhiệt của độc giả nói chung và giới văn nghệ sĩ nói riêng.
Trong ba tác phẩm trên, Hồ Quý Ly là tiểu thuyết mà cảm hứng lịch sử
của Nguyễn Xuân Khánh được thể hiện đậm nét nhất. Tham gia vào dòng
chảy văn học Việt Nam cách đây không lâu nhưng tiểu thuyết Hồ Quý Ly của
Nguyễn Xuân Khánh đã được tái bản lần thứ 11, điều đó chứng tỏ sức hấp
dẫn của tác phẩm đồng thời cho thấy sự quan tâm của độc giả đối với Hồ Quý
Ly. Trong Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đã đặt ra những vấn đề quan
trọng ở nhiều lĩnh vực dựa trên sự hiểu biết, cảm nhận và lí giải của bản thân.
Chính điều đó đã góp phần làm nên cái riêng cho tiểu thuyết lịch sử của ông.
Và đây cũng là tác phẩm còn nhiều vấn đề tranh cãi và chưa rõ ràng. Vì vậy,
chúng tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn đóng góp một cách nhìn về một
khía cạnh của tác phẩm để từ đó có thể góp phần giúp độc giả có cái nhìn toàn
diện hơn về tác phầm Hồ Quý Ly.
1.3. Nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh, tác giả khóa luận
mong muốn khắc phục một phần sự chia cắt giữa văn học nhà trường, cái

1



tương đối ổn định với đời sống văn học đương đại, cái luôn đặt ra những vấn
đề mới mẻ và phức tạp đối với người nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ khi xuất bản vào năm 2000 đến nay, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu và bài viết về nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và tiểu thuyết Hồ Quý
Ly. Nội dung chủ yếu là bàn về tư tưởng nghệ thuật và bút lực của nhà văn.
Trong bài viết Vạn Xuân, Hồ Quý Ly trên nền tiểu thuyết lịch sử, in
trong sách “Nhìn lại Văn học Việt Nam thế kỉ XX” (Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, năm 2002), tác giả Lại Văn Hùng cho rằng, vài năm gần đây, vẫn
thấy xuất hiện những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, hơn nữa chúng lại được sự
hoan nghênh của đông đảo công chúng, sự công nhận của giới phê bình văn
học. Theo tác giả bài viết, tiểu thuyết Hồ Quý Ly (2002) của Nguyễn Xuân
Khánh đề cập đến nhiều vấn đề trong nội dung của tác phẩm: như vấn đề khoa
cử, chiến tranh, tình yêu, hôn nhân, tình dục, phong tục tập quán, dân trí, lịch
sử cương thổ địa lý,… Tập trung phân tích những thành công trong xây dựng
nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, tác giả bài viết cho rằng, Hồ Quý Ly là
một nhân vật đa tình cách, cả thiện và ác, nhiều tâm trạng và cả sự biến dạng
lý tưởng mà nhân vật theo đuổi.
Tiếp đó, theo bài: “Những nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh” nhà văn Trần Thị Trường đưa ra ý kiến xác đáng về cách xây
dựng nhân vật nữ của Nguyễn Xuân Khánh: “Mười bốn người phụ nữ, mười
bốn tích cách, mười bốn số phận, mười bốn cách ứng xử để rồi có mười bốn
kết cục”. Theo tác giả thì Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng thành công các
nhân vật bởi ông đã: “chiêm ngẫm cả những ý nghĩ trong cõi thẳm sâu tâm
hồn người khác”.
Viết về Hồ Quý Ly còn có bài “Thân phận kẻ sĩ trong tiểu thuyết Hồ Quý
Ly” của Hoàng Tiến. Trong bài viết này, tác giả đi sâu phân tích các nhân vật
như Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, Sử Văn Hoa,… Các nhân vật có cái nhìn
mẫn tiệp trước thời thế, song lại là nạn nhân của chính thời thế ấy. Trong đó
phải đặc biệt lưu ý đến Hồ Quý Ly- nhân vật chính của tác phẩm, để lại cho ta

nhiều bài học quý giá. Hồ Quý Ly để lại bài học về cải cách đất nước, Hồ

2


Nguyên Trừng và Sử Văn Hoa để lại bài học về vấn đề trọng dụng kẻ sĩ trong
thời loạn. Tác giả tỏ ra ngậm ngùi trước bi kịch của nhân vật và có ý so sánh
với hình ảnh kẻ sĩ trong chính cuộc sống hiện tại. Từ đó bài viết trở thành nỗi
niềm “ôn cố tri ân” của những người trí thức “đồng bệnh tương liên” của hiện
tại.
Đề cập tới một khía cạnh khác trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân
Khánh, bài viết “Tư cách nhà văn trong Nguyễn Xuân Khánh” của Châu Diên
đã có những nhận xét xác đáng. Ở đây, tác giả không đi sâu vào nội dung của
tác phẩm mà khai thác phong cách viết văn của nhà văn. Châu Diên cũng đề
cập tới một loạt các tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Xuân Khánh, phân tích
cách tiếp cận, tư tưởng mới lạ của ông, từ đó làm rõ sự khác biệt giữa tác giả
văn học và tác giả lịch sử. Tư cách nhà văn là dù đứng ở lịch sử, khai thác yếu
tố lịch sử, song vẫn phải có hơi thở của cuộc sống hiện nay, vẫn phải có cái
hồn của từng số phận, từng suy nghĩ. Xét theo điều đó, Nguyễn Xuân Khánh
đã đứng vững trong tư cách nhà văn trong tiểu thuyết lịch sử của mình. Tác
giả Châu Diên còn viết tham luận về tiểu thuyết Hồ Quý Ly. Với sự hiểu biết
của mình về Nguyễn Xuân Khánh, ông khẳng định thành công của Nguyễn
Xuân Khánh ở nhiều phương diện. Ông đặc biệt nhấn mạnh: “Nói đến cách
tạo nhân vật, ta sẽ không thể nào quên công lao của Nguyễn Xuân Khánh
trong việc tạo ra nhân vật chính Hồ Quý Ly. Đó là con người có nhiều phẩm
chất…”.
Tiếp theo phải kể đến bài Hồ Quý Ly- cuốn tiểu thuyết lịch sử đặc sắc
của Đinh Công Vỹ. Tác giả nhận xét: “Nguyễn Xuân Khánh không hề đơn
giản hóa, không hề bị chi phối bởi cách xây dựng nhân vật một chiều. Nhân
vật của ông tập trung nhiều mâu thuẫn giằng xé nội tâm”. Đồng nhất với quan

điểm trên, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trong bài: “Đọc Hồ Quý Ly”
cũng thừa nhận: “Cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Xuân Khánh là ở thể
lưỡng tính, phân thân không chỉ với một nhân vật Hồ Quý Ly mà còn với các
nhân vật khác như Trần Khát Chân, Hồ Nguyên Trừng…Nhân vật lịch sử của
ông ta là những cá nhân mâu thuẫn giằng xé, một bên là thúc bách (tất yếu)
lịch sử, một bên là đòi hỏi (tất yếu) con người trước thử thách vận mạng của
đất nước, chúng dân”.
Ngoài ra còn một số luận văn nghiên cứu chuyên sâu về một số khía

3


cạnh của tiểu thuyết. Tiêu biểu trong số đó, chẳng hạn như:
- “Một số vấn đề lí luận về tiểu thuyết lịch sử qua Hồ Quý Ly và Sông
Côn mùa lũ” của Nguyễn Thị Liên (Đại học Sư phạm Hà Nội, 2003). Tác giả
luận văn đã minh định vấn đề thể loại của tác phẩm này. Tác giả cho rằng tính
chất đặc trưng của Hồ Quý Ly là một tiểu thuyết lịch sử hiện đại có nhiều
đóng góp về mặt nội dung thể loại.
- “Tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly” (Lê Thị Chung- 2004). Luận văn đã
chỉ ra những thành công cuả tiểu thuyết ở góc độ đặc điểm thể loại. Loại tiểu
thuyết lịch sử; khẳng định vị trí của Hồ Quý Ly trong tiến trình phát triển của
tiểu thuyết lịch sử Việt Nam. Lê Thị Chung còn rất quan tâm đến vấn đề nhân
vật của cuốn tiểu thuyết. Luận văn đã có cách đánh giá một cách khá hệ thống
về đặc điểm thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly: nhân vật lịch sử,
nhân vật hư cấu, nhân vật chính diện, nhân vật phản diện, nhân vật trung
gian,… cho ta hình dung về sự đa dạng, phong phú của hệ thống nhân vật
trong tác phẩm.
- “Tiểu thuyết Hồ Quý Ly trong sự vận động của tiểu thuyết lịch sử
nước ta nửa sau thế kỉ XX” (Đỗ Hải Ninh- 2003) đã chỉ ra một số nét đặc sắc
của thế giới nhân vật trong cuốn tiểu thuyết; nhân vật đầy sức sống, nhân vật

tư tưởng,…
- Trong bài viết “Nhìn chung về tiểu thuyết Việt Nam từ 1995 đến nay”
(2005), tác giả Phạm Thị Thu Thủy đã khẳng định: Nguyễn Xuân Khánh có
thành tựu trong việc xây dựng nhân vật tiểu thuyết, đặc biệt là xây dựng nhân
vật chính Hồ Quý Ly.
Ngoài ra còn rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh tác giả Nguyễn
Xuân Khánh, về tiểu thuyết Hồ Quý Ly đăng rải rác trên các báo, tạp chí và
các trang thông tin điện tử. Những ý kiến trên đã cung cấp cho chúng tôi điểm
tựa về lý luận và văn học sử để chúng tôi thực hiện đề tài luận văn của mình.
Bên cạnh sự ghi nhận và đánh giá cao, các tác giả cũng đã chỉ ra một số
hạn chế của Nguyễn Xuân Khánh trong việc xây dựng nhân vật. Tiến sĩ Đinh
Công Vỹ cho rằng: “Đối thoại của các nhân vật lích sử còn quá hiện đại: cha

4


con Hồ Quý Ly nói chuyện với nhau mà xưng hô như gia đình quan chức thời
nay”. Một số ý kiến cho rằng các sự kiện, nhân vật trong tác phẩm chưa được
đẩy ở mức cao. Tóm lại, các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra
được những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Hồ
Quý Ly, tuy nhiên nhìn chung còn khá tản mạn. Chúng tôi nghĩ cần có sự đào
sâu phân tích tiểu thuyết Hồ Quý Ly trong đối sánh với lịch sử để có cái nhìn
toàn diện hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về tiểu thuyết lịch sử nói chung và tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý
Ly của Nguyễn Xuân Khánh nói riêng, từ đó thấy được cảm quan lịch sử, hay
cách nhìn, cách cảm nhận và lí giải riêng của tác giả đối với những vấn đề
lịch sử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Tìm hiểu những nét chính về tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân
Khánh, làm rõ được cảm quan lịch sử của tác giả thông qua góc độ văn hóa và
con người thời đại
Chỉ ra được những nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật lịch
sử, từ đó góp phần thể hiện quan điểm, sự lí giải của tác giả về các vấn đề
được đặt ra trong tác phẩm.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm cảm quan lịch sử trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn
Xuân Khánh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

5


Tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh và các bài nghiên cứu,
luận văn, luận án về Nguyễn Xuân Khánh và tác phẩm Hồ Quý Ly của ông.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp hệ thống- cấu trúc
- Phương pháp tiểu sử

Cùng với những phương pháp nghiên cứu trên, chúng tôi sử dụng các
thao tác nghiên cứu như khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp, khái quát,
đánh giá.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát về tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết lịch sử của
Nguyễn Xuân Khánh
Chương 2: Cảm quan văn hóa và con người thời đại trong tiểu thuyết Hồ
Quý Ly
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết Hồ
Quý Ly

6


NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
1.1. Khái quát về tiểu thuyết lịch sử
1.1.1. Khái niệm lịch sử
Lịch sử trong tiếng Hy Lạp là “historia”, có nghĩa là "sự tìm hiểu kiến
thức bằng cách điều tra". Xét từ nguyên, từ lịch sử (histoire) có 6 nghĩa. Một
là chuyện kể; hai là chuyện đã xảy ra; ba là chỉ quá trình phát triển (Mác nói
về quan điểm lịch sử); bốn là đời sống của con người xã hội.(Trong Gia đình
thần thánh Mác nói, “Lịch sử chẳng phải cái gì khác mà chính là cuộc sống
của con người theo đuổi một mục đích của mình.”); năm là quá khứ của hiện
tại đã lùi xa; sáu là chỉ khoa học lịch sử, sử học. Khi nói đến lịch sử, theo giải
thích đơn giản, lịch sử là những gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội
loài người. Với ý này, lịch sử bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đaị
diện do đó khó định nghĩa chính xác và đầy đủ. Vì thế, định nghĩa về lịch sử
được rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra.
Khi nói đến lịch sử, các nhà nghiên cứu khá nhất trí với ba nội dung sau:
Việc diễn ra trong quá khứ: Những sự kiện diễn ra trong quá khứ cho
đến thời điểm hiện tại, không thể thay đổi được, cố định trong không gian và

thời gian, mang tính chất tuyệt đối và khách quan.
Ghi lại những việc diễn ra trong quá khứ: con người muốn nắm bắt quá
khứ, diễn đạt theo sự kiện theo từ ngữ và giải thích ý nghĩa của sự kiện, mang
tính chất tương đối và chủ quan của người ghi lại bằng những câu chuyện kể.
Làm thành tài liệu của việc diễn ra trong quá khứ: cách làm hoặc quá
trình tập hợp những sự việc diễn ra trong quá khứ thành tài liệu cũng chính là

7


câu chuyện kể đối với hiện tại.
Theo Wikipedia, từ ‘‘Lịch sử” ít nhất có hai nghĩa. Thứ nhất là sự biến
đổi của vật tồn tại trong hiện thực được diễn đạt khác đi và định nghĩa là Lịch
sử. Tuy nhiên việc bảo tồn quá trình đó là không có và cuối cùng biến mất.
Một ý nghĩa khác của lịch sử là chỉ kết quả ghi chép lại với đối tượng là sự
biến chuyển đang dần biến mất đó tức là ghi chép lịch sử. Như vậy cái trước
được gọi là nghĩa rộng: toàn thể các sự kiện, cái thứ hai được gọi là sách lịch
sử. Các nhà nghiên cứu đều có mong muốn nghiên cứu sâu lịch sử và dự đoán
tương lai.
1.1.2. Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn
cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc
sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng
ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định.
Trong một cách hiểu khác, nhận định của Belinski:“Tiểu thuyết là sử thi
của đời tư” chỉ ra khái quát nhất về một dang thức tự sự, trong đó sự trần
thuật tập trung vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và
phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời
gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì tiểu thuyết là “Tác phẩm tự sự cỡ lớn

có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời
gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái
hiện nhiều tính cách đa dạng”[5;328].

8


1.1.3. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử
Tiểu thuyết lịch sử hiểu theo nghĩa chung nhất, là tiểu thuyết viết về đề
tài lịch sử. Theo Từ điển thuật ngữ văn do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi chủ biên thì tiểu thuyết lịch sử (thể loại văn học lịch sử) được hiểu
như sau: “Các tác phẩm viết về đề tài lịch sử này có chứa đựng các nhân vật
và các chi tiết hư cấu, tuy nhiên nhân vật chính và sự kiện chính thì được sáng
tạo trên các sử liệu xác thực trong lịch sử, tôn trọng lời ăn tiếng nói, trang
phục, phong tục, tập quán phù hợp với giai đoạn lịch sử ấy. Tác phẩm lịch sử
thường mượn truyện đời xưa nói chuyện đời nay, hấp thu những bài học của
quá khứ, bày tỏ sự đồng cảm với những con người và thời đại đã qua, song
không vì thế mà hiện đại hóa người xưa, phá vỡ tính chân thật lịch sử của thể
loại này…” [5;302]. Trong Từ điển văn học, bộ mới, thì tiểu thuyết lịch sử
được hiểu như sau: “Tác phẩm tự sự hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nội dung
chính. Lịch sử trong ý nghĩa khái quát, là quá trình phát triển của tự nhiên, xã
hội. Các khoa học xã hội (cũng được gọi là các khoa học lịch sử) đều nghiên
cứu quá khứ của loài người trong tính cụ thể và đa dạng của nó. Tuy vậy
những tiêu điểm chú ý của các sử gia lẫn các nhà văn quan tâm đến đề tài lịch
sử, thường đều là sự hình thành, hưng thịnh, diệt vong của các nhà nước,
những biến cố lớn trong đời sống xã hội của cộng đồng quốc gia, trong quan
hệ giữa các quốc gia như chiến tranh, cách mạng…cuộc sống và sự nghiệp
của các nhân vật có ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử…” [2;1725]. Trong bài
viết, Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử, đăng trên vietnamnet

(10/2005), Phạm Xuân Thạch cũng đưa ra quan điểm: “Tiểu thuyết lịch sử là
những ấn tượng và suy tư cá nhân về các vấn đề của lịch sử. Nó nêu ra các
vấn đề của lịch sử và phản chiếu những suy tư cá nhân về những vấn đề đó”.
1.2. Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã từng cho rằng “Theo tôi, tiểu thuyết
lịch sử trước hết là tiểu thuyết”. Có thể thấy ông khá nhấn mạnh tính tiểu
thuyết trong các tác phẩm viết về lịch sử của mình. Ta có thể thấy được điều
đó ở Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng ngàn. Hai tác phẩm này ra đời cách nhau
khoảng năm sáu năm nhưng đó là kết quả của một quá trình thai nghén lâu dài
với cảm thức lịch sử và những trải nghiệm thể hiện tư tưởng nghệ thuật, nhãn
quan độc đáo của nhà văn. Trong Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng ngàn, cách xử

9


lý lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh khá tự do và đầy tính chủ quan. Sự đào
sâu vào những toan tính của con người, nhu cầu cắt nghĩa đời sống theo
những suy ngẫm, trải nghiệm đã khiến người đọc nghĩ rằng lịch sử đích thực
của tác phẩm là hư cấu. Điều này phù hợp với tinh thần của tiểu thuyết.
Lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh là lịch sử được thẩm
thấu qua trải nghiệm của cá nhân nhà văn. Có thể thấy các vấn đề nhận thức
và thẩm mỹ mà Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng ngàn đặt ra đều là vấn đề của
hiện tại, chỉ có khung cảnh thiên nhiên, ngôn ngữ, lễ hội, tập tục là có vẻ
“tuyệt đối trung thành” với lịch sử. Trong tiểu thuyết của mình, nhìn chung
tác giả vẫn chọn một giải pháp an toàn, cách xử lý của nhà văn không phải là
chặn đứng từng khúc của dòng chảy lịch sử lại mà hòa cùng với dòng chảy đó
một cách tự nhiên, và như vậy đã tạo một tâm thế tự tại trong tiểu thuyết cũng
như thái độ đồng thuận của độc giả trong tiếp nhận tác phẩm.
Bối cảnh của tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh là thời điểm lịch sử đầy
biến động và phức tạp: ở Hồ Quý Ly là giai đoạn cuối Trần đầu Hồ;

trong Mẫu Thượng ngàn, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã
trở thành cảm hứng cho những suy ngẫm về văn hoá, tôn giáo… Giai đoạn
giao thời với sự khủng hoảng dẫn tới suy vong, sự giao tranh mới – cũ luôn là
thử thách đối với bản lĩnh của ngòi bút mỗi nhà văn. “Tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh dù viết về quá khứ cách đây hàng mấy trăm năm hay gần hơn
đều có khả năng mở rộng biên độ phản ánh hiện thực bởi tính thời sự cập nhật
của nó. Không né tránh những vấn đề của hôm nay, Nguyễn Xuân Khánh ráo
riết tìm lời đáp cho những câu hỏi thiết thực đối với hiện tại. […].Tìm thấy
những điểm tương đồng giữa quá khứ và hiện tại, dùng hiện tại soi tỏ quá khứ,
nêu ra được những chân lý có tính phổ quát, đó chính là giải thích mới về đề
tài cũ, là ôn cố tri tân”[17]. Chính vì vậy, dù Nguyễn Xuân Khánh viết về
nhân vật đã quen thuộc, thời đại đã được các nhà sử học phân tích, đánh giá
nhưng tiểu thuyết của ông vẫn mới mẻ.
Lịch sử trong tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh không phải là lịch sử
bị đóng khung mà luôn ở trạng thái động. Các nhân vật, sự kiện lịch sử…
không đơn nghĩa mà trở nên đa diện khi được soi chiếu từ nhiều góc độ. Nhà
văn đặt nhân vật trong những mối quan hệ phức tạp của gia đình và xã hội.
Chẳng hạn nhân vật Hồ Quý Ly được hiện lên trong các vai khác nhau: một

10


yếu nhân văn võ song toàn, một con người với cảm nhận tinh tế sâu sắc, một
người chồng, người cha nén chặt tình cảm trong lòng, một kẻ loạn thần tặc tử
thâm hiểm, tàn bạo. Trần Khát Chân không chỉ là vị tướng tài ba mưu lược,
có tâm hồn nghệ sĩ và tấm lòng nhân hậu, nhân vật này cũng có thể tàn bạo và
thủ đoạn như đối thủ của mình, không ngần ngại đề nghị Sử Văn Hoa viết
sách bôi nhọ Hồ Quý Ly.
Trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh có sự đan xen trần thuật ở ngôi
thứ ba với trần thuật ngôi thứ nhất. Nhà văn nhập thân vào nhân vật để cho

nhân vật Hồ Nguyên Trừng xưng “tôi” kể chuyện, nhân vật như thoát ra khỏi
cái khung lịch sử đã khép kín để đối thoại với hiện tại. Trong Mẫu Thượng
ngàn, xuyên suốt tác phẩm là giọng kể khách quan nhưng ngoài việc di
chuyển điểm nhìn vào các nhân vật, nhà văn còn trực tiếp để cho nhân vật bà
Ba Váy tự sự. Cũng giống nhân vật Hồ Nguyên Trừng, bà Ba là nhân vật
xưng “tôi” có thể tạo ra một cách nhìn trung tâm. Mỗi điểm nhìn trần thuật
gắn với một sự tự ý thức, thành ra cùng một nhân vật, cùng một hiện thực
nhưng được nhìn từ nhiều điểm khác nhau, có thể đánh giá theo nhiều cách
khác nhau. Nhân vật trong quá khứ thoát ra khỏi quá khứ để đối thoại với hiện
tại, sống động chứ không phải là những cổ vật im lìm.
Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh lấy con người làm tâm điểm chứ
không lấy việc tái hiện lịch sử hoặc minh hoạ lịch sử làm mục đích phản ánh.
Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh bao gồm một hệ thống nhân vật đông đảo từ
những nhân vật có thật trong lịch sử tới những nhân vật hư cấu, từ tầng lớp
dân thường vô danh tới nhân vật can dự trực tiếp vào lịch sử, họ đều bị mắc
kẹt trong lịch sử và thực sự mang trên mình ý nghĩa lịch sử. Lịch sử hiện hữu
trong con người và số phận của mỗi cá nhân. Bên cạnh việc khai thác sử liệu,
nhà văn quan tâm đến khám phá cái lịch sử hiện hữu đó bằng sự thấu hiểu
từng số phận. Nhân vật của Nguyễn Xuân Khánh là những con người cá nhân
với đầy đủ tính cách phức tạp và đa dạng, nó lý giải cho động cơ sâu xa của
những hành động có tính lịch sử của nhân vật. Cuộc cải cách quyết liệt của
Hồ Quý Ly bắt nguồn từ chính tính cách thích “chơi với lửa” của Quý Ly lúc
còn bé cho tới sự quyết đoán trong khát vọng thay đổi của con người có tư
tưởng tân tiến sau đó là mưu toan chính trị và tham vọng quyền lực của một
bạo chúa. Ở Hồ Quý Ly, giai đoạn lịch sử giao thời đầy mâu thuẫn hiện lên
qua cuộc đời ông vua già Lê Hiển Tông với những dùng dằng của lịch sử: đổi
11


mới để tiến bộ và chấp nhận rủi ro hay thủ cựu với lề lối của tổ tông dù tình

trạng đất nước đã trở nên mục ruỗng. Hay như trong Mẫu Thượng ngàn, quá
trình xâm lược và công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp có thể
được hình dung qua chuyện đời, chuyện tình của anh em nhà Messmer.
Những thăng trầm trong quá trình làm giàu ở thuộc địa, các cấp độ của sự
chiếm đoạt tình yêu, và kết thúc nhiều nghiệt ngã (cái chết của Philippe,
chứng hoang tưởng của Julien, đứa bé ra đời từ đêm hội) cho thấy tương lai
phá sản của chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam.
1.3. Tiểu thuyết Hồ Quý Ly trong hành trình sáng tạo
của Nguyễn Xuân Khánh
Nguyễn Xuân Khánh là người chịu nhiều thiệt thòi và sóng gió trong cả
đời tư và sự nghiệp nhưng ở ông, ta luôn nhận thấy một ý chí phấn đấu không
mệt mỏi vì lòng yêu văn chương chưa khi nào dứt. Những cố gắng ấy đã giúp
Nguyễn Xuân Khánh có được thành công như ngày hôm nay, mặc dù số
lượng tác phẩm của ông không nhiều. Con đường văn nghiệp của ông có thể
chia làm ba chặng.
Chặng đường đầu tiên được đánh dấu bằng việc ông ra mắt làng văn
miền Bắc năm 1959 với truyện ngắn Một đêm đăng trên Tạp chí Văn nghệ
Quân đội số 2/1959 và lập tức được thừa nhận với giải thưởng đầu tiên trong
sự nghiệp của mình. Tiếp đó các sáng tác của ông đến 1962 được in trong tập
Rừng sâu do Nxb Văn học ấn hành năm 1963. Những sáng tác của Nguyễn
Xuân Khánh trong giai đoạn vẫn gói gọn trong phương pháp sáng tác xã hội
chủ nghĩa, tên tuổi của ông chưa thực sự được biết đến một cách rộng rãi.
Chặng thứ hai là chặng đường gian nan và sóng gió trong sự nghiệp
văn học của Nguyễn Xuân Khánh. Thời kì này gắn liền với hai tác phẩm lớn
là Trư cuồng và Miền hoang tưởng. Những sáng tác này đều đề cập đến
những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc, thể hiện quan điểm của tác giả qua lối
viết đậm tính huyền hoặc và giàu triết lí. Tuy nhiên các tác phẩm này lại
không được công chúng đón nhận. Một thời gian dài ông chuyển snag dịch
thuật.


12


Chặng đường thứ ba trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Xuân
khánh chỉ thực sự bắt đầu khi tác phẩm Hồ Quý Ly ra đời và được Nxb Phụ
nữ ấn hành năm 2000. Tác phẩm đã đạt thành công vang dội, được độc giả
yêu văn chương và giới nghiên cứu đón nhận nồng nhiệt. Tác phẩm đã đưa về
cho ông hàng loạt các giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn
Hà Nội: Năm 2000, Hồ Quý Ly dành được 4 giải: Giải thưởng cuộc thi tiểu
thuyết (1998-2000) của Hội Nhà văn Việt Nam; giải thưởng của Hội Nhà văn
Hà Nội, 2001; Giải thưởng Mai vàng của báo Người lao động, 2001; Giải
thưởng Thăng Long của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, 2002. Hồ Quý
Ly được xem là đòn bẩy để ông tiếp tục đưa ra những kiến giải của mình về
lịch sử- văn hóa trong các tác phẩm tiếp theo: Mẫu Thượng ngàn (2005) và
Đội gạo lên chùa (2011). Cả ba tác phẩm đều được tái bản nhiều lần với số
lượng lớn, đặc biệt là Hồ Quý Ly đã được tái bản lần thứ 11. Tác phẩm thể
hiện sự quan tâm đặc biệt của tác giả đến vẫn đề lịch sử văn hóa- phong tục,
thể hiện suy tư và niềm tin của tác giả với bản sắc văn hóa dân tộc.
Tóm lại, có thể nói, tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm lấy đề tài lịch
sử làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Vì thế, nó vừa mang sự hấp dẫn của
tiểu thuyết vừa có những nhân vật, sự kiện có thực. Các tác giả dựa vào
những sự kiện trong quá khứ, hư cấu tưởng tượng thêm để tạo nên tác phẩm
nhằm gây hứng thú đồng thời thể hiện cách đánh giá về lịch sử. Không phải
sự kiện nào cũng được đưa vào. Chỉ sự kiện có ý nghĩa với xã hội hiện nay
mà thôi. Do đó, tiểu thuyết lịch sử là sự “ôn cố tri tân”, cho chúng ta thêm bài
học áp dụng cho chính cuộc sống hiện tại.
Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh là những trang viết mang
sự trải nghiệm và những suy ngẫm sâu sắc của tác giả về vấn đề lịch sử với sự
liên quan nhất định với các vấn đề đương đại. Ông chú trọng lấy con người
làm tâm điểm cho các tác phẩm của mình chứ không lấy nhân vật để tô vẽ cho

lịch sử. Các nhân vật của ông đều được đặt trong mối quan hệ đa chiều, để từ
đó nhân vật tự bộc lộ khả năng, tính cách và phẩm chất của mình. Nguyễn
Xuân Khánh có cách kể chuyện hấp dẫn riêng, đặc biệt là việc sử dụng ngôi
kể linh hoạt, làm cho tác phẩm vừa mang tính khách quan lại vừa có thể đưa
đẩy cảm xúc một cách khéo léo, tinh tế.
Hồ Quý Ly là tác phẩm mở đầu cho chặng đường sáng tác mới nhất của

13


Nguyễn Xuân Khánh với các giải thưởng lớn. Nhưng thành công lớn nhất của
tác phẩm mang lại chính là sự chào đón nồng nhiệt của độc giả và các nhà
nghiên cứu. Tác phẩm đã mang tên tuổi của Nguyễn Xuân Khánh trở lại với
nền văn học Việt Nam. Có thể nói đây là một tác phẩm mà tác giả đã dồn
nhiều tâm huyết, sự hiểu biết, kinh nghiệm sống và kinh nghiệm nghệ thuật để
viết nên. Bằng sự cảm nhận cùng với cách lí giải riêng với các vấn đề đặt ra
trong tác phẩm, Nguyễn Xuân Khánh đã mang lại cho Hồ Quý Ly một sức hấp
dẫn đặc biệt.

14


CHƯƠNG 2. CẢM QUAN VĂN HÓA
VÀ CON NGƯỜI THỜI ĐẠI TRONG HỒ QUÝ LY

2.1. Cảm quan văn hóa trong Hồ Quý Ly
Lịch sử không chỉ bao gồm những sự kiện trọng đại của dân tộc khi
diệt thù trong giặc ngoài để dựng nước và giữ nước mà lịch sử còn là những
nét đẹp văn hóa của dân tộc truyền từ đời này qua đời khác. Những nét đẹp đó
được trân trọng, lưu giữ và phát triển để tạo nên một nền văn hóa đậm đà bản

sắc dân tộc. Trong Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đã nói lên những suy
nghĩ, cảm nhận và có cách lí giải riêng của mình về vấn đề văn hóa qua một
số khía cạnh quan trọng như tôn giáo, phong tục, giáo dục.
2.1.1. Tôn giáo
Không một quốc gia nào trên thế giới lại không có tôn giáo và niềm tin
vào một thế giới tâm linh nào đó. Chính những hoạt động tôn giáo đã giúp
cho con người vượt thoát lên khỏi cuộc sống hữu hạn của đời người, được
tiếp thêm sức mạnh để vượt qua khó khăn, thử thách của cuộc sống. Nước
Việt Nam trải mấy nghìn năm văn hiến đã có một đời sống tôn giáo phong
phú và ý nghĩa. Hoạt động tôn giáo là hoạt động rộng khắp trong cả nước.
Tôn giáo vì thế có ảnh hưởng không nhỏ đến tư duy và tâm lý người Việt qua
các thế hệ, nó đi vào cả sáng tác văn học và trở thành một hiện tượng mang
tính dân tộc. Trong Hồ Quý Ly, tác giả đã nhắc khá nhiều đến tôn giáo, đặc
biệt là Phật giáo.
Ngay từ đầu tác phẩm, ông ngoại của Hồ Nguyên Trừng đã nói :
“Người xưa nói: ‘Đạo Phật như giếng trời, còn Khổng và Lão chỉ giống như
hang và khe. Đạo Phật như mặt trời còn Khổng và Lão chỉ như bó đuốc’...”.
[13; 30]. Lời nói khuyên dạy cháu nhưng cũng là một quan niệm, một thái độ
sống. Coi trọng đạo Phật, coi trọng cái tâm của con người. Trong những trang
viết của mình, Sử Văn Hoa cũng nhắc đến đạo Phật: “Phật giáo là phần âm
của hồn dân Việt. Đạo Phật giữ phần linh thiêng, phần chìm, phần lặng lẽ và
thâm thúy của núi sông”. Chẳng thế mà bà công chúa Huy Ninh đã ngày đêm
15


niệm Phật cầu nguyện cho chồng, cho đất nước được bình yên. Việc làm ấy
khiến bà cảm thấy thanh thản, an tâm hơn. Đến với Phật, con người cảm thấy
lòng nhẹ nhàng hơn, an yên hơn.
Bên cạnh việc nói lên tầm quan trọng của đạo Phật, Nguyễn Xuân
Khánh cũng đã nói về sự suy tàn của nó. “Cứ nhìn quang cảnh núi yên Tử,

người ta thấy ngay được sự lên xuống của Phật giáo Đại Việt. Thời vua Trần
Nhân Tông đệ nhất tổ Trúc Lâm, đây là núi tổ Phật giáo.[...]. Chùa Yên Tử
lúc này, qua thời gian gần trăm năm, kể từ khi Trần Nhân Tông thị tịch, đã bắt
đầu đổ nát.” [13; 721-722]. Như vậy, tác giả không chỉ khái quát được tôn
giáo phổ biến và quan trọng nhất của dân tộc mà còn khái quát sự phát triển
và suy tàn của nó cùng với đó là sự suy tàn của triều đại nhà Trần.
2.1.2. Phong tục
Trong Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh không chỉ đơn thuần viết về
một thời đại trong lịch sử dân tộc mà còn viết về những lề lối phong tục của
người dân Việt. Những lễ hội truyền thống mang đậm phong cách của dân tộc
Việt như: Hội thề Đồng Cổ, Đốn Sơn đã góp thể hiện phần nào phong tục của
người dân Việt. Các lễ hội dân gian được tác giả miêu tả khá kĩ và sâu sắc,
giúp người đọc bổ sung thêm được vốn kiến thức về văn hóa truyền thống.
Mỗi lễ hội dân gian được tác giả tái hiện lại với một không gian chân thực đến
mức làm chúng ta như đang chứng kiến tận mắt những sự việc ấy. Ở đây, có
thể thấy tác giả nhắc đến hai lễ lớn là Hội thề Đồng Cổ và Đốn Sơn. Không
gian lễ hội được miêu tả vô cùng hấp dẫn và sinh động với đầy đủ âm thanh
của chiêng trống, của tiếng hát, tiếng đàn, tiếng người ồn ào; màu vàng rực
của đôi lọng vàng, chiếc kiệu vàng và cả rèm cửa cũng màu vàng,… Tất cả
tạo nên một khung cảnh náo nhiệt vô cùng. Ở hội thề Đồng Cổ, không gian
chính của buổi lễ là ở trong đền: “Chiếc trống đồng và chiếc Đại Hồng
Chung được đặt gian giữa đền [...] Đích thân vua rót rượu. Quan thái sư Lê
Quý Ly đánh ba hồi trống đồng. Thượng tướng Trần Khát Chân đánh ba hồi
chuông. Ngoài sân thái bảo Trần Nguyên Hàng sai giết ngựa trắng, lấy máu
pha rượu đổ vào cái chậu lớn […] cửa đền đóng kín […]Trong đền, trống
đồng và chuông quý lại vang lên một hồi, rồi nhã nhạc tấu lên” [13; 18-19].
Kết thúc tác phẩm là lễ hội Đốn Sơn được diễn ra linh đình và trọng thể hơn.
“Tây Đô tưng bừng náo nhiệt. Suốt dọc đường lát đá từ cửa Nam đến núi Đún

16



được cắm đầy những lá cờ ngũ sắc[...]. Khói pháo tụ thành đám mây trắng.
Xác pháo trải khắp cửa Tiền như ai rắc hoa đào”. Quả thật đó là một lễ hội
lớn chưa từng thấy, qua ngòi bút tài hoa của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
lại càng hoành tráng và ý nghĩa hơn. Miêu tả hai lễ hội lớn đến vậy, ta thấy
được ở tác giả sự hiểu biết sâu sắc của tác giả về phong tục, về niềm tin của
nhân dân với các lực lượng thần thánh. Ông vua già Trần Nghệ Tông “phải
nhờ đến hội thề. Ông phải nhờ đến thần hộ quốc. Ông muốn tiếng chuông
vàng, tiếng trống Đồng Cổ sẽ vang động làm thức tỉnh trăm quan, thức tỉnh
thần dân trong nước” [13; 15].
Ở Hồ Quý Ly, chúng ta còn có thể thấy được nét đặc trưng trong phong
tục của người dân Việt còn thể hiện ở vai trò của người phụ nữ trong gia đình.
Phụ nữ luôn là người giữ lửa, là hậu phương vững chắc trong gia đình để cho
người cha, người anh, người chồng của mình có thể yên tâm dựng nghiệp lớn.
Trong tác phẩm, chúng ta có thể thấy những người phụ nữ như bà công chúa
Huy Ninh, quận chúa Quỳnh Hoa, rồi đến cả hoàng hậu Thánh Ngẫu đều
thuận theo ý của cha, của anh mình mà lấy Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng và
vua Thuận Tông. Mặc dù là cuộc hôn nhân sắp đặt nhưng sau đó họ đều có
tình cảm chân thành với nhau. Và những người phụ nữ ấy đều lâm vào tình
cảnh khó xử khi đứng giữa hai thế lực đối lập, một bên là cha, một bên là
chồng. Điều đáng quý ở đây là họ đều biết cách ứng xử, biết giữ chữ hiếu mà
vẫn trọn đạo làm vợ. Trước những việc làm của chồng mình- Hồ Quý Ly- bà
công chúa Huy Ninh chỉ âm thầm bên cạnh, ngày đêm niệm kinh Phật mong
giúp chồng mình giảm bớt phần nào tội lỗi, và chính bà cũng cảm thấy thanh
thản hơn khi được gần đức Phật. Quỳnh Hoa chọn biện pháp im lặng trước tất
cả, tối nào cũng thắp hương trước bàn thờ Phật, lấy cớ ốm không đến thăm
cha mẹ cũng không tham gia vào việc nhà chồng. Hoàng Hậu Thánh Ngẫu
cũng có số phận đáng thương như người mẹ Huy Ninh của mình. Nàng ra sức
bảo vệ chồng trước âm mưu của cha nhưng không thể nên chỉ có thể sống một

cuộc sống âm thầm, lặng lẽ chịu đựng nỗi đau.
2.1.3. Giáo dục
Giáo dục là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của một đất
nước. Muốn đất nước phát triển thì giáo dục phải phát triển. Tuy không nói
nhiều đến vấn đề này trong tác phẩm nhưng Nguyễn Xuân Khánh cũng không

17


bỏ qua. Dưới cách nhìn, cách cảm của một người viết tiểu thuyết lịch sử, tác
giả cũng đã chỉ ra những vấn đề cơ bản về giáo dục cuối thời Trần, chủ yếu
thông qua những mong muốn đổi mới, cải cách của Hồ Quý Ly. “Quan thái
sư rất quan tâm tới việc học. Ông thấy các lộ, phủ, châu việc học chưa vào
nền nếp, ông bèn đặt ra chức học quan, đề bạt một loạt những nhà khoa bảng,
đưa về các địa phương trông coi việc học hành của dân. Ông chú ý đến những
người đỗ đạt có tài nhưng chưa được cất nhắc đúng mức” [13; 473]. Hồ Quý
Ly cũng thẳng thắn chỉ ra những chỗ đáng nghi ngờ trong kinh điển Nho giáo.
Ông cho rằng Khổng Tử không xứng đáng đứng đầu Nho gia như mọi người
vẫn thường ca tụng, Hàn Dũ là một nhà Nho ăn trộm, còn Trinh Tử, Chư Tử
là những người học rộng nhưng không có thực tài chỉ chuyên đi ăn cắp văn
chương tư tưởng của người khác. Điều đó chứng tỏ, vào cuối thời Trần, Nho
giáo đã không còn được chiếm vị trí như trước nhưng vẫn chưa mất hẳn, nó
vẫn tồn tại trong suy nghĩ, tư tưởng của một số người như Đoàn Xuân Lôi.
Nền giáo dục nước ta tại thời điểm đó vẫn chưa có những bước phát triển và
cải cách đáng kể cũng như chính tình hình đất nước lúc bấy giờ. Điều này
cũng có thể lí giải được phần nào, bởi lúc ấy, trong triều đình còn đang rối ren,
lo tranh quyền đoạt vị, các phe phái chống lại lẫn nhau thì chuyện giáo dục,
thi cử không còn là điều trọng yếu nữa.
2.2. Con người thời đại trong Hồ Quý Ly
2.2.1. Hồ Quý Ly- anh hùng và bi kịch

Hồ Quý Ly đóng vai trò là thái sư nhưng về bản chất ông quyết định
gần như tất cả mọi thứ trong thời mạt Trần. Khi vua Nghệ Hoàng mất
ông trở thành cây trụ lớn nhất của nước nhà. Hồ Quý Ly trước đây vẫn cho bị
coi là kẻ hoán nghịch cướp ngôi nhà Trần nhưng đi vào tiểu thuyết, Nguyễn
Xuân Khánh không sa vào thiên kiến đó mà có một cái nhìn đầy đủ và hết sức
công bằng về ông. Nếu Hồ Quý Ly trong chính sử khô khan với âm mưu và
hành động thì Hồ Quý Ly trong Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh là người
“dưới một người trên vạn người” nhưng cũng rất đời thường với đời sống nội
tâm và tình cảm phong phú bên cạnh toan tính, âm mưu…Xuất hiện trong tiểu
thuyết với tư cách là nhân vật trung tâm, xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm,
nhân vật Hồ Quý Ly được Nguyễn Xuân Khánh xây dựng là một khối thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong tính cách cũng như trong tư tưởng

18


chính trị. Nhân vật Phạm Sinh đã nhận thấy: “Quan thái sư, đó là con người đại
trí, cũng là con người lạnh lùng như băng. Ông ta thông minh, có thể nói sâu
sắc đến tinh tế, nhưng đầy tham vọng, tham vọng đến độ ngạo mạn”. “Ông ta
vừa tàn bạo đến cùng cực nhưng lại vĩ đại vô cùng. Vừa đáng căm giận lại vừa
đáng thương, đáng kính”. Ông đem đến cho bạn đọc những cảm nhận khác
nhau với nhiều cung bậc cảm xúc. Có lúc ông là một người thật đáng trân trọng
và kính nể khi xuất hiện là một nhà chính trị, quân sự tài ba lỗi lạc với nhưng
suy nghĩ cấp tiến trong canh tân, đổi mới; quan tâm đến đời sống của dân
nghèo đảm bảo cho họ được no ấm, được khỏe mạnh; luôn trăn trở để hướng
đến xây dựng một đất nước cường thịnh, phát triển cả về văn hóa, xã hội.
Nhưng có lúc ông lại làm cho người đọc căm ghét khi là một người có tham
vọng chính trị quá lớn trong việc lật đổ triều Trần; thẳng tay thanh trừng bất cứ
ai cản trở công cuộc canh tân đổi mới và củng cố địa vị của ông; lạnh lùng khi
lấy hạnh phúc của con mình làm bước đệm cho mục đích chính trị. Tác giả

không hạn chế người đọc trong cái nhìn riêng, phiến diện về Hồ Quý Ly mà đặt
ông trong cái nhìn đa chiều của các nhân vật khác, mỗi người họ là một cảm
nhận khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, từ đó soi chiếu Hồ Quý Ly một cách
thấu đáo nhất, công bằng nhất.
Nguyễn Xuân Khánh không bó hẹp Hồ Quý Ly trong những việc làm
tự riêng mình mà ông đặt mọi việc làm, hành động suy nghĩ của nhân vật vào
trong những mối quan hệ với nhiều tuyến nhân vật khác nhằm có cái nhìn, sự
hiểu biết đến cùng về một nhân vật. Phức tạp, đa chiều, nhân ái, thủ đoạn, sâu
sắc...tất cả đều có trong một Hồ Quý Ly.
Hồ Quý Ly được Nguyễn Xuân Khánh xây dựng và cảm nhận trong tác
phẩm thực sự là một anh hùng của thời đại, một nhà cải cách táo bạo. Ngay từ
nhỏ ông đã là một chú bé “thông minh đĩnh ngộ, rất có chí, đã làm gì là quyết
tâm làm cho bằng được”, đặc biệt “chú rất thích chơi với lửa và chú muốn thắp
một ngọn lửa không khi nào tắt, có thể đó là bản năng khát khao thầm kín của
con người muốn giữ một ngọn lửa đời đời”. Đây là sở thích không những lạ mà
còn dự báo một con người trong tương lai. Cha của Quý Ly cũng nói: “Thằng
bé này thích lửa, sau này sẽ là người có chí khí”. Nguyễn Xuân Khánh đã xây
dựng Hồ Quý Ly từ một nhân vật lịch sử thành một nhân vật văn học mà vẫn
không làm mất đi giá trị và những cứ liệu lịch sử có ý nghĩa. Những cải cách,
quan điểm tiến bộ của Hồ Quý Ly được ghi trong chính sử được Nguyễn Xuân
19


×