Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết với việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh tế xã hội ở tp HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.25 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------oOo----------------

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAM

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
VỚI VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.03.02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2017


LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Người hướng dẫn khoa học:

TS. Trần Chí Mỹ
TS. Hà Thiên Sơn

Phản biện độc lập:

Phản biện:

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án Tiến sĩ


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Vào lúc: …… giờ ……, ngày ……. tháng …… năm…..

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh, Thư viện Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong kho tàng tư tưởng của Hồ Chí Minh, tư tưởng về đại đoàn
kết dân tộc chiếm một vị trí đặc biệt, nổi lên như một chiến lược xuyên
suốt trong quá trình cách mạng Việt Nam, đó là động viên lực lượng đại
đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, độc lập dân tộc với
CNXH, hình thành sức mạnh tổng hợp to lớn để đánh thắng kẻ thù của
dân tộc và chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu. Theo Hồ Chí Minh, thắng đế
quốc phong kiến đã khó, thắng nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn nhiều.
Như vậy, để hoàn thành một nhiệm vụ “khó khăn hơn nhiều” so với
trước, tất yếu phải có một sức mạnh lớn hơn trước, đòi hỏi phải phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, khối đại
đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được tăng cường, mở rộng. Nhờ đó,
đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan, khối đại đoàn kết toàn dân tộc có
những thách thức mới cần được quan tâm nhận thức và xử lý. Các thế

lực thù địch đang ráo riết lợi dụng những sơ hở, yếu kém của chúng ta
để khoét sâu mâu thuẫn xã hội, thực hiện “diễn biến hòa bình”. Cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền, biển đảo trên Biển Đông diễn ra ngày càng
phức tạp. Thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục củng cố vững chắc khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn toàn dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, nghiên cứu, nắm vững và
vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
trong điều kiện hiện nay của đất nước có ý nghĩa rất quan trọng và cấp
thiết.
Tp. Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế,
văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội
nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và lan toả lớn của
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả
nước. Quá trình phát triển kinh tế thị trường, CNH, HĐH và hội nhập


2

quốc tế ở Tp. Hồ Chí Minh diễn ra mạnh mẽ và sôi động nhất nước.
Cộng đồng dân cư ở đây rất đa dạng. Thành phố luôn là trọng điểm
chống phá nhiều mặt, là địa bàn xung yếu của chiến lược “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch. Nhân dân Thành phố có truyền
thống yêu nước, đoàn kết, khoan dung, nghĩa tình. Những đặc điểm đó
tạo ra cả cơ hội và thách thức, cả thuận lợi và khó khăn đan xen nhau;
đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới lớn hơn, phức tạp hơn đối với
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh tế - xã
hội ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay. Không phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân thì công cuộc xây dựng và phát triển Thành phố chẳng
những khó đi đến thành công, mà ngược lại sẽ đưa đến những tổn thất
không lường. Điều đó đạt được đến đâu trước hết tuỳ thuộc vào nhận

thức đúng đắn và bằng những hành động thực tiễn cụ thể, thiết thực để
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong việc tổ chức thực hiện
những mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Tp. Hồ Chí
Minh hiện nay. Chính trên lĩnh vực này chúng ta tìm thấy trong di sản
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết những chỉ dẫn rất quan trọng và
rất cần thiết.
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết và giải pháp vận dụng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay là một
nhiệm vụ bức thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Do vậy,
tôi chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với việc phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội
ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và viết luận án
tiến sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với nhiều cấp
độ, phạm vi, hướng tiếp cận khác nhau được công bố trên các sách báo,
tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học. Có thể tổng quan các công trình đó
theo bốn chủ đề chính sau:
Chủ đề thứ nhất, nghiên cứu về cơ sở hình thành, quá trình
phát triển và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh,


3

trong đó có tư tưởng đại đoàn kết của Người, tiêu biểu có các công
trình sau: Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh quá trình hình thành và phát
triển, Nxb. Sự thật, HN, 1993; công trình Sự hình thành về cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh, tác giả: GS. Trần Văn Giàu, Nxb. CTQG, HN,

1997; cuốn sách Hồ Chí Minh tinh hoa và khí phách của dân tộc, Nxb.
CTQG, HN, 2009 gồm các tác phẩm, bài nói, bài viết của Phạm Văn
Đồng về Hồ Chí Minh từ năm 1948 đến tác phẩm cuối cùng hoàn thành
vào năm 1998; tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ biên, Nxb.
CTQG, HN, 2015 (xuất bản lần thứ 5); cuốn sách Hồ Chí Minh nhà tư
tưởng thiên tài, tác giả: GS. Trần Nhâm, Nxb. CTQG, HN, 2015; cuốn
Hồ Chí Minh vĩ đại một con người, Nxb. CTQG, HN, 2015. Các bài
viết này đã đem lại cho tác giả luận án không chỉ những gợi mở về nội
dung mà còn về phương pháp nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết nói riêng.
Ngoài ra, ở chủ đề thứ nhất cần phải kể đến một số công trình nghiên
cứu về phương pháp luận Hồ Chí Minh: Đó là các cuốn sách: Phương
pháp và phong cách Hồ Chí Minh, tác giả: GS. Đặng Xuân Kỳ, Nxb.
CTQG, HN, 1997; Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, GS. Lê Hữu Nghĩa,
chủ biên, Nxb. Lao động HN, 2000; Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy
triết học Hồ Chí Minh, tác giả: Hồ Kiếm Việt, Nxb. CTQG, HN, 2002;
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh một số vấn đề cơ bản, tác giả: Trần
Văn Phòng và Hoàng Anh, Nxb. CTQG, HN, 2015; cuốn sách Một số
vấn đề về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí
Minh do PGS. Song Thành (chủ biên), Nxb. CTQG, HN, 1997.
Chủ đề thứ hai, các công trình nghiên cứu từ những góc độ
khác nhau về tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, tiêu biểu có các
công trình sau: Cuốn Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, Nxb. CTQG, 1994;
cuốn Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh do Phùng Hữu Phú chủ
biên, Nxb. CTQG, HN, 1995; cuốn Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế của Lê Văn Yên, Nxb. Lao động xuất bản năm 1999;
cuốn Quan hệ giai cấp - dân tộc – quốc tế, GS.TS. Trần Hữu Tiến, GS.
TS. Nguyễn Ngọc Long, PGS. TS. Nguyễn Xuân Sơn, Nxb. CTQG,
HN, 2002; quyển Xây dựng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp



4

nông dân và đội ngũ trí thức trong điều kiện mới, do PGS. TS. Nguyễn
Thế Thắng làm chủ biên, Nxb. Lý luận chính trị, 2015; tác phẩm Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, của các tác giả:
GS. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), GS. Vũ Khiêu, GS, TS. Hoàng Chí Bảo.
Chủ đề thứ ba, nghiên cứu vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, có các công trình tiêu biểu sau: Cuốn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và vấn đề phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới, Nxb. CTQG, HN, 2003;
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của ĐCSVN
của tác giả Nguyễn Đình Hòa, tạp chí “Triết học”, số 8, tháng 8-2015
tr.11-20; Bài báo Nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tình
hình hiện nay của Đông Hải, Tạp chí Cộng sản – chuyên đề cơ sở, số
119 (11-2016), tr. 32-37; Bài Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đối với việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai
đoạn hiện nay của Trần Thanh Mẫn, Tạp chí Cộng sản, số 892 (2-2017)
tr.42-46.
Chủ đề thứ tư, nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ
Chí Minh: Cuốn sách Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm của Bí thư
Thành uỷ đương thời – Nguyễn Văn Linh, Nxb. Sự thật, HN, 1985; bài
viết 300 năm Thành phố mang tên Bác Hồ của Bí thư Thành uỷ Tp. Hồ
Chí Minh đương thời – Trương Tấn Sang, tạp chí Cộng sản, số 15 (81998) [tr.13-17]; Hội thảo khoa học với chủ đề: “Thành phố Hồ Chí
Minh – 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập” (tổ chức tại Tp. Hồ
Chí Minh tháng 3/2015) có nhiều báo cáo tham luận đề cập đến vai trò
của việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh

tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay. Trong đó, nổi bật là các bài báo
cáo tham luận sau: “Bốn mươi năm Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng,
phát triển và hội nhập” của Bí thư Lê Thanh Hải; “Chung sức, đồng
lòng xây dựng thành phố Hồ Chí Minh xứng đáng là thành phố anh
hùng, thành phố mang tên Bác kính yêu” của Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân Thành phố Lê Hoàng Quân; Thành phố Hồ Chí Minh phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc trong 40 năm xây dựng Thành phố năng


5

động, sáng tạo, văn minh, hiện đại, nghĩa tình của tác giả Võ Thị Dung,
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tp. Hồ Chí Minh; Phát huy sức
mạnh đoàn kết, tạo sự đồng thuận xã hội, bảo đảm sự thắng lợi trong
40 năm xây dựng và phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả: TS. Lê
Thị Thanh Tâm.
Trong các công trình tiêu biểu nêu trên, các tác giả đã phân tích
khá kỹ các phương diện khác nhau có liên quan trực tiếp hay gián tiếp
đến tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Tuy nhiên chưa có công trình
độc lập nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ quan điểm và giải pháp về
đại đoàn kết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án: Phân tích, làm rõ nội dung, đặc điểm cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, thực trạng phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ
Chí Minh, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay.
Nhiệm vụ của luận án: Để đạt mục đính nêu trên luận án tập trung

giải quyết những nhiệm vụ sau: Một là: xác định khái niệm tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, bối cảnh lịch sử, nguồn gốc và quá trình
hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết; Hai
là: trình bày, phân tích, làm rõ nội dung và đặc điểm cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết; Ba là: phân tích đánh giá thực
trạng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh tế xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh và đề xuất một số giải pháp vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân trong phát triển kinh tế xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay.


6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án: Đối tượng nghiên cứu của
luận án là tư tưởng Hồ Chí Minh và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh; Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án giới hạn việc
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và giải pháp vận
dụng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển
kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, giai đoạn từ 2006
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của
ĐCSVN về tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, về vị trí, vai trò,
giá trị và ý nghĩa của tư tưởng đó trong sự nghiệp đổi mới và phát triển
đất nước ở Việt Nam hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp chung của luận án là các
phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, đồng thời, luận án có sử dụng các phương pháp cụ thể như: lịch
sử và logic, phân tích và tổng hợp, văn bản học, đối chiếu - so sánh, …

Nguồn tài liệu: bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập gồm 15 tập Nxb.
CTQG, HN xuất bản năm 2011; các văn kiện của Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, của Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam Tp. Hồ Chí Minh; kế thừa các công trình nghiên cứu của các tổ
chức và cá nhân các nhà khoa học có liên quan đến tài liệu luận án; các
tài liệu, số liệu thống kê của Cục Thống kê Tp. Hồ Chí Minh, của các
cơ quan Đảng, chính quyền và đoàn thể ở Tp. Hồ Chí Minh.
6. Cái mới của luận án
Một là, phân tích và trình bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh đại đoàn kết. trong đó làm nổi bật những nội dung cơ bản và
đặc điểm đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. Hai là,
đánh giá thực trạng phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong phát triển
kinh tế -xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh từ 2006 đến nay một cách có hệ
thống và góp phần vào việc xác định các giải pháp vận dụng tư tưởng
đại đoàn kết tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh hiện


7

nay.
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu của luận án làm rõ những
nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết như một
hệ thống chỉnh thể, từ quan niệm đến quan điểm, giải pháp xây dựng và
phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong quá trình vận động của cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Ý nghĩa thực tiễn: Sự luận giải trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh
và kinh nghiệm thực tiễn về các giải pháp nhằm phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh tế xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh có

thể là những gợi mở để Thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương
khác, nhất là các thành phố lớn ở nước ta tham khảo, vận dụng vào việc
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh tế - xã
hội tại địa phương mình; Những kết quả nghiên cứu của luận án này có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh và làm tài liệu
nghiên cứu, giảng dạy các môn học như tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử
tư tưởng chính trị, …
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án được kết cấu thành gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠI ĐOÀN KẾT
1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ VÀ NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
1.1.1. Điều kiện lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết
Bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử thế giới trải qua những
chuyển biến to lớn, CNTB chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn độc quyền, trở thành CNĐQ. Bước vào giai đoạn ĐQCN, cả


8

thế giới chia ra làm hai: một bên là số đông các dân tộc bị áp bức, bên
kia là số nhỏ các dân tộc đi áp bức.
Không chỉ tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, cướp các

nước nhỏ yếu làm thuộc địa, các nước đế quốc còn đánh nhau để giành
thuộc địa. Tình hình đó tạo điều kiện và cơ hội cho phong trào đấu
tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa phát triển mạnh mẽ. Nhân
dân ở các dân tộc thuộc địa nhiều lần vùng dậy chống CNTD nhưng
đều bị thất bại. Nguyên nhân của tình trạng đó, theo Hồ Chí Minh là do
“họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo”, do “họ chưa biết đoàn kết
nhau lại để đấu tranh”
Sự ra đời của Quốc tế III cùng với sự ảnh hưởng to lớn của cách
mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã cổ vũ, soi sáng và thúc đẩy mạnh mẽ
sự phát triển của các phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó cũng là cơ
sở lịch sử quan trọng của sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó
có tư tưởng đại đoàn kết của Người.
Điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Giữa thế kỷ XIX, khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và trở
thành thuộc địa của Pháp. Toàn xã hội Việt Nam, đặc biệt là các giai
cấp lao động, lâm vào thân phận nô lệ bi thảm, bị nô dịch, bị chà đạp
bởi chế độ thuộc địa với phương thức cai trị bảo thủ, hà khắc và vô
nhân đạo của thực dân Pháp. Chương trình khai thác thuộc địa quy mô
lớn của đế quốc Pháp ở Việt Nam đã dẫn đến những biến đổi xã hội sâu
sắc tại đây. Bên cạnh những giai cấp cũ là địa chủ phong kiến và nông
dân, đã ra đời những giai cấp, tầng lớp mới: công nhân, tư sản dân tộc,
trí thức tân học, tiểu tư sản thành thị. Từ ngày bị đế quốc Pháp xâm
lược, nhân dân ta đã liên tục đứng lên đấu tranh bất khuất và anh dũng
“kẻ trước ngã người sau đứng dậy”. Nhưng tất cả những cuộc khởi
nghĩa yêu nước ấy “đã bị dìm trong bể máu.
Năm 1890, Hồ Chí Minh được sinh ra trên đất Nghệ An, một cái
nôi của phong trào yêu nước, trong một gia đình nhà nho nghèo, yêu
nước, tiến bộ. Ngay từ khi ở Nghệ An và những năm học ở Huế, những

cuộc đấu tranh chống cướp đất, chống sưu cao thuế nặng, chống bắt


9

phu, … trong các năm 1904, 1908 bị đàn áp đẫm máu đã nhen nhóm
lên ở Hồ Chí Minh lòng căm thù bọn thực dân cướp nước. Từ sự uất
hận trước bất công và bạo tàn do CNTD gây ra, Hồ Chí Minh bắt đầu
nảy sinh tư tưởng cứu nước. Lúc bấy giờ, các phong trào yêu nước đều
thất bại. Dân tộc đang đứng trước một cuộc khủng hoảng trầm trọng về
con đường cứu nước. Hồ Chí Minh quyết định rời Tổ quốc ra đi tìm
đường cứu nước mới trong bối cảnh lịch sử nói trên. Đây là đầu mối
giúp chúng ta lần tìm những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong đó có
tư tưởng đại đoàn kết của Người.
1.1.2. Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
Chúng tôi trong khi dựa vào những yếu tố chung trong nguồn gốc
của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chú ý đến những yếu tố riêng có
ảnh hưởng trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng đại
đoàn kết của Người và khái quát thành ba nguồn gốc chính như sau:
Một là, chủ nghĩa yêu nước gắn với ý thức cộng đồng của dân tộc Việt
Nam là cội nguồn đầu tiên, sâu xa nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết; hai là, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây; ba
là, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng chiến lược của Quốc tế Cộng
sản về liên minh giai cấp và đoàn kết các lực lượng trong cách mạng vô
sản và cách mạng giải phóng của các dân tộc bị áp bức.
Những yếu tố thuộc về chủ quan Hồ Chí Minh
Nói đến nhân tố chủ quan thuộc về Hồ Chí Minh có tác động đến
sự hình thành, phát triển tư tưởng của Người trong đó có tư tưởng về
đại đoàn kết không thể không nói đến phẩm chất cá nhân của Hồ Chí
Minh. Hồ Chí Minh là con người yêu nước, thương dân sâu sắc, và

ngay từ thời trẻ cho đến hơi thở cuối cùng, kiên trì một tấm lòng vì dân,
vì nước và một niềm tin mãnh liệt ở nhân dân, có bản lĩnh kiên định, có
khí tiết kiên cường trong đấu tranh thực hiện mục tiêu, lý tưởng đã
chọn. Hồ Chí Minh là con người đặc biệt thông minh, ham học hỏi, có
tư duy độc lập sáng tạo, có trí tuệ uyên bác, kiến thức sâu rộng, biết
nhiều ngoại ngữ, do đó có điều kiện để tiếp xúc với văn hóa của nhiều
dân tộc.
Hồ Chí Minh là một con người mẫu mực về đạo đức cách mạng,
tác phong bình dị, chân tình, gần gũi, hòa mình với quần chúng, có sức


10

cảm hóa lớn đối với mọi người. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuốn
Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam nói: “Những
tư chất và phẩm chất ấy được phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động
của Người. Nhờ vậy, giữa vô vàn lý thuyết, học thuyết khác nhau, đối
lập nhau, đúng và sai, thật và giả đan xen lẫn lộn, trong khi nhiều chí sĩ
cách mạng như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng đến Phan Chu
Trinh, Phan Văn Trường, … không phát hiện được ở đâu là quy luật, là
chân lý, thì chính Hồ Chí Minh đã tìm ra được mục tiêu, lý tưởng cách
mạng đúng đắn và con đường để đi tới mục tiêu, thực hiện lý tưởng ấy.
Giữa thực tiễn vô cùng sinh động, phức tạp, với bao tình huống khó
khăn, bao sóng gió thử thách, có khi đe dọa cả cuộc sống và sinh mệnh
chính trị của mình, Người vẫn đứng vững, vượt lên, vẫn kiên trì chân
lý, có những quyết định đúng đắn và sáng suốt, những hoạt động sáng
tạo để biến tư tưởng thành hiện thực” [tr.67-68].
1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
Đã có những cách phân chia khác nhau về các giai đoạn của quá

trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết,
trong luận án này, chúng tôi bước đầu phân chia quá trình đó thành sáu
giai đoạn gắn với các hoạt động chính yếu của Người như sau: Giai
đoạn trước khi Hồ Chí Minh rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước (1890
– 1911); giai đoạn Hồ Chí Minh khảo sát, tìm tòi, lựa chọn con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc (1911-1920); giai đoạn Hồ Chí Minh hoạt
động ở Đảng Cộng sản Pháp, ở Quốc tế Cộng sản và chuẩn bị điều kiện
ra đời cho Đảng Cộng sản Việt Nam (1920 – 1930); giai đoạn Hồ Chí
Minh chuẩn bị các điều kiện, tổ chức các lực lượng, cùng với Đảng
lãnh đạo Tổng khởi nghĩa thành công, lập nên chế độ mới (1930-1945);
giai đoạn Hồ Chí Minh hoạt động và lãnh đạo xây dựng nhà nước kiểu
mới, thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc (1945 – 1954); giai
đoạn Hồ Chí Minh hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam thực
hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH ở miền Bắc
và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (1954 – 1969).


11

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Đại đoàn kết với tính cách là một tư tưởng cách mạng của Hồ Chí
Minh. Cũng như bất kỳ một học thuyết, một trào lưu tư tưởng nào, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong đó có tư tưởng đại đoàn kết của Người không
xuất hiện một cách ngẫu nhiên, mà hình thành phản ánh điều kiện kinh
tế - xã hội đầy biến động ở Việt Nam và trên thế giới vào cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX.
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã
nhanh chóng tiếp thu tinh hoa văn hóa Âu – Mỹ; kết hợp tinh hoa văn
hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, của phương Đông và thành quả
của văn minh công nghiệp phương Tây, đến gặp chủ nghĩa Mác – Lênin

và tư tưởng chiến lược của Quốc tế Cộng sản. Việc Hồ Chí Minh đến
với chủ nghĩa Mác – Lênin và Quốc tế Cộng sản, tìm thấy ở đó “cái cần
thiết” và “con đường” giải phóng dân tộc Việt Nam, là bước quyết định
trong quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, tư tưởng của Người về đại đoàn kết nói riêng. Nhưng bất cứ tư
tưởng lý luận nào, ngoài sự kế thừa những tư tưởng trước đó còn phải
bắt nguồn từ thực tiễn, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và sự phát triển
sáng tạo qua hoạt động thực tiễn. Vì vậy, cần phải nhìn nhận rằng, cuộc
sống và hoạt động thực tiễn hết sức phong phú, đa dạng gắn với cả một
thời kỳ lịch sử của dân tộc và thời đại là một trong những nguồn gốc
quan trọng, không thể thiếu của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh –
nguồn gốc thực tiễn. Thực tiễn ấy là cơ sở để tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong đó có tư tưởng đại đoàn kết của Người ngày càng phát triển và
hoàn thiện qua tiến trình lịch sử của Việt Nam và thế giới thời hiện đại.
Chương 2
NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
2.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đoàn kết là “kết lại thành một


12

khối”, “mọi người đều nhất trí”, “muôn người như một”, “đồng lòng
chung sức” phấn đấu cho một mục đích chung: đấu tranh giành độc lập
cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, cho mọi người và cho
mỗi người Việt Nam.
Nội dung căn cốt nhất của khái niệm đại đoàn kết trong tư tưởng

Hồ Chí Minh là đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Nội hàm của khái niệm
đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan đến bề rộng và bề
sâu của sự đoàn kết. Bề rộng là đoàn kết rộng rãi, khắp mọi lực lượng,
ở khắp mọi nơi, trong mọi thời kỳ, mọi phong trào cách mạng, mọi
giới, mọi lứa tuổi, mọi ngành hoạt động xã hội, mọi đoàn thể, với nhiều
cấp độ các quan hệ đoàn kết giữa các lực lượng, các đoàn thể, từ phạm
vi nhỏ đến phạm vi lớn, từ trong ra ngoài, … Bề sâu, đó là đoàn kết
chặt chẽ thành một khối khổng lồ “vững bền như khối sắt”, “không gì
phá vỡ nổi”, “đoàn kết thật thà hoàn toàn”, “khăng khít”, “chắc chắn”,
“không có gì lay chuyển được”,… Đồng thời, khối đại đoàn kết phải
không ngừng được củng cố và tăng cường, đảm bảo đoàn kết chặt chẽ,
khăng khít và chắc chắn thêm lên mãi, làm cho nó “trường xuân bất
lão”.
Đại đoàn kết là đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi, tạo thành một khối
khổng lồ, một lực lượng, một sức mạnh to lớn làm cơ sở cho đại thành
công của cách mạng. Đối tượng – cái đích hướng tới của tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh là một tổng thể đa dạng bao gồm mọi lực lượng,
mọi tổ chức, mọi ngành, mọi cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, trong luận
án này, chúng tôi khái quát toàn bộ đối tượng của đại đoàn kết trong tư
tưởng Hồ Chí Minh thành ba đối tượng: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân (đoàn kết toàn dân tộc), đoàn kết quốc tế. Và đoàn kết trong
Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân, đoàn kết quốc tế.
2.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về cơ sở lý luận, thực tiễn
và thực chất của đại đoàn kết
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, cơ sở khoa học và thực tiễn
của đại đoàn kết là ở quan hệ lợi ích. Đó là muốn tập hợp, đoàn kết các
bộ phận nhân dân, các lực lượng cách mạng và tiến bộ thì giúp họ phải
có những lợi ích chung.



13

Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh luôn gắn với mục tiêu độc lập
của dân tộc, tự do dân chủ, ấm no và hạnh phúc của nhân dân. Người
đã nói: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Nhưng Người cũng từng
nói: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Hồ Chí Minh ý thức rõ rằng, đánh thắng
đế quốc phong kiến đã khó, thắng nghèo và lạc hậu còn khó hơn nhiều.
Việc thực hiện đoàn kết toàn dân cũng vậy, trong việc chống kẻ thù phá
hoại đòi độc lập thì dễ dàng kéo cả toàn dân. Còn “Trong việc kiến thiết
thì khó kéo hơn, vì nó đụng chạm đến quyền lợi của một đôi giai tầng
trong nước”. Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh trong từng
giai đoạn để thực hiện đoàn kết, đại đoàn kết phải tìm ra được một lợi
ích phát huy tác dụng trong lịch sử, lợi ích đó cần phản ánh lợi ích rộng
rãi của giai cấp mình và của các giai cấp, quần chúng khác. Trong khi
phải nắm vững mục đích của toàn bộ sự nghiệp cách mạng thì mỗi giai
đoạn cũng cần xác định bây giờ dân tộc Việt Nam muốn gì.
2.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết
Đại đoàn kết là cội nguồn sức mạnh và động lực to lớn của
cách mạng Việt Nam: Quá trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Ngọn cờ ấy được coi là nguồn sức mạnh, tiềm năng không giới
hạn và động lực to lớn để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Tiềm năng, động
lực đó được bộc lộ qua việc phát huy lực lượng vật chất và tinh thần
trong cách mạng Việt Nam. Lực lượng vật chất và tinh thần được cô
đọng, tập trung ở những tầng lớp, thế hệ nhân dân được nhận thức và tổ
chức lại. Nếu thực dân đế quốc “mạnh về vật chất” thì nhân dân Việt
Nam mạnh về tinh thần, với một chí cương quyết chiến đấu cho tự do.
Sức mạnh tinh thần thể hiện ở chỗ nó biến sự hiểu biết thành ý chí

thống nhất trong hành động.
Đại đoàn kết là chiến lược và mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng Việt Nam: Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi, lâu
dài, chặt chẽ, vững chắc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam, xây dựng xã hội tiến bộ, công bằng, dân
chủ. Mục đích của đoàn kết thống nhất với chiến lược của sự nghiệp
cách mạng. Mọi người được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, xã hội


14

công bằng, ấm no, dân chủ, được phát huy sáng kiến, trí tuệ... là đoàn
kết. Chiến lược và mục tiêu của đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh
luôn gắn liền với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn
khác nhau. Mỗi giai đoạn, thời kỳ cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh
đã xây dựng khối đại đoàn kết cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới.
2.1.4. Nguyên tắc và phương pháp xây dựng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Nguyên tắc xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong
tư tưởng Hồ Chí Minh: Một là, xây dựng khối đại đoàn kết lấy lợi ích
dân tộc làm điểm tương đồng, mẫu số chung trong các quan hệ xã hội;
hai là, xây dựng khối đại đoàn kết trên cơ sở của việc thực hiện dân chủ
của nhân dân; ba là, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thông qua tổ
chức Mặt trận Tổ quốc và dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN; bốn là, đại
đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình,
phê bình vì sự thống nhất bền vững; năm là, đại đoàn kết dân tộc phải
gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Phương pháp xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
trong tư tưởng Hồ Chí Minh:Thứ nhất, phương pháp tuyên truyền,

giáo dục, vận động đại đoàn kết: Sử dụng các hình thức tuyên truyền,
giáo dục, vận động quần chúng; Người làm công tác tuyên truyền, giáo
dục, vận động về đại đoàn kết phải là tấm gương đoàn kết trong cả lời
nói và việc làm; thứ hai, phương pháp tổ chức: Muốn xây dựng, củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì yếu tố quyết định là phải có
phương pháp xây dựng Đảng, chính quyền cách mạng và phương pháp
xử lý các mối quan hệ; thứ ba, phương pháp xử lý các mối quan hệ: Đó
là phương pháp xử lý mối quan hệ: cách mạng – trung gian – phản cách
mạng.
2.2. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
Từ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết, luận án rút ra được một số đặc điểm cơ bản của tư tưởng đó bao
gồm: Sự thống nhất giữa tính khoa học và cách mạng trong tư tưởng
đại đoàn kết của Hồ Chí Minh; sự thống nhất tính dân tộc, giai cấp và


15

nhân loại trong tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh; sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết;
Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Đại đoàn kết với tính cách là một tư tưởng cách mạng của Hồ Chí
Minh có nội dung phong phú, bao quát các vấn đề lý luận cơ bản: khái
niệm đại đoàn kết, đối tượng của đại đoàn kết; vai trò của đại đoàn kết;
nguyên tắc và phương pháp xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn
kết. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là đoàn kết chặt
chẽ và rộng rãi. Đại đoàn kết, xét cả về tư tưởng và hoạt động đoàn kết
của Hồ Chí Minh, bao quát các đối tượng: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết

toàn dân (đoàn kết toàn dân tộc), đoàn kết quốc tế. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, đại đoàn kết có vai trò quan trọng đặc biệt trong mọi lĩnh
vực, mọi phạm vi của đời sống, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực
hoạt động xã hội. Đoàn kết là lực lượng. “Đoàn kết đoàn kết đại đoàn
kết. Thành công thành công đại thành công”. Đại đoàn kết là cơ sở đảm
bảo đại thành công của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, tiến lên cách mạng XHCN, góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Từ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết, luận án rút ra được một số đặc điểm cơ bản của tư tưởng đó bao
gồm: tính khoa học và cách mạng; sự thống nhất giữa tính dân tộc, tính
giai cấp và tính quốc tế; sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết; tính nhân văn. Do những đặc điểm
đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết có được ảnh hưởng và sức
cải tạo lớn lao đối với hiện thực xã hội Việt Nam kể từ khi nó tác động
tại đây cho đến hiện nay.


16

Chương 3
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
VÀO VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN
DÂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
3.1. KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ VAI
TRÒ CỦA VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

3.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hoá, con người ở
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây
Nam Bộ, Tp. Hồ Chí Minh hiện nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng
diện tích 2.095,06 km², với 8.224,4 ngàn người. Tuy nhiên, nếu tính
những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của Thành phố
vượt trên 10 triệu người. Có thể khái quát những điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội của Tp. Hồ Chí Minh theo bốn yếu tố chính: kinh tế,
văn hoá, chính trị - xã hội, dân cư.
Về kinh tế: Với vị trí địa lý thuận lợi, là đầu mối giao lưu và trao
đổi hàng hóa; kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ phát
triển; dân cư đông đúc, nguồn nhân lực dồi dào, năng động… là nhân tố
quan trọng để Tp. Hồ Chí Minh phát triển kinh tế - xã hội và phát huy
sức mạnh đại đoàn kết của mình.
Song, những điều kiện đó xét về mặt đầu tư, phát triển kinh tế là
thuộc về “thiên thời”, “địa lợi”. Để có thể phát triển nhanh, bền vững
nền kinh tế Thành phố còn đòi hỏi một nhân tố quan trọng nữa: “nhân
hoà”, tức là sự đồng thuận xã hội, sự đoàn kết chung sức chung lòng
của toàn dân, của tất cả các thành phần, các ngành kinh tế.
Điều kiện văn hóa: Từ những đặc điểm kinh tế như trên đã hình
thành và biến đổi đời sống văn hóa, tinh thần của Sài Gòn – Tp. Hồ Chí
Minh. Kinh tế Thành phố phát triển trong mối giao lưu kinh tế đa chiều
nên văn hóa vì thế cũng rất đa dạng, tiếp xúc được với nhiều cái mới,
tạo nên tính tiên phong trong biến đổi đời sống văn hóa – xã hội. Mảnh


17

đất này là nơi tiếp nhận các nguồn lưu dân từ Trung, Bắc đến lập
nghiệp; người Hoa đến định cư và hội tụ với cư dân bản địa; sau đó, trở

thành một trong những trung tâm đón nhận những ảnh hưởng của văn
hóa Pháp, Mỹ qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử; và hiện nay đã
trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa – giáo dục của cả nước. Sự
phát triển kinh tế còn tạo tiền đề vật chất quan trọng để nâng cao trình
độ dân trí, trình độ tay nghề, tác phong lao động có kỷ luật; là tiền đề
để xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa phục vụ nhu cầu của
người dân. Với những đặc điểm nổi bật của Thành phố như sự năng
động, sáng tạo, khoan dung nhân hậu, nghĩa tình, có trước có sau và
luôn luôn đi đầu trong sự giao lưu và hội nhập văn hóa với khu vực và
quốc tế…, Thành phố chính là nơi hội tụ và lan tỏa nhiều giá trị văn
hóa hiện đại, nhân văn.
Điều kiện chính trị, xã hội: Quá trình phát triển kinh tế thị
trường, CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ở Tp. Hồ Chí Minh diễn ra
mạnh mẽ và sôi động nhất nước. Cộng đồng dân cư ở đây rất đa dạng,
có mối liên hệ rộng rãi với kiều bào ta ở nước ngoài, đồng thời cũng là
Thành phố có số lượng kiều dân nước ngoài làm ăn sinh sống đông
nhất nước. Thành phố luôn là trọng điểm chống phá nhiều mặt, là địa
bàn xung yếu của chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch, gây mất ổn định chính trị - xã hội, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu
cầu mới lớn hơn, phức tạp hơn đối với phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay.
Đặc điểm dân cư: Sự hội tụ một cách đa dạng của dân cư ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Tp. Hồ Chí Minh.
Với một bức tranh văn hóa “đa sắc màu” đặc trưng ở nơi đây, là cơ sở
dẫn đến sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, tôn giáo, các
vùng miền trong cả nước và trên thế giới, đã hình thành nên tính cách
của con người Sài gòn – Tp. Hồ Chí Minh cởi mở, đa dạng, phóng
khoáng, bao dung, luôn năng động sáng tạo trong việc đón nhận cái
mới, thể nghiệm cái mới trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Họ
không kỳ thị, phân biệt đối xử mà luôn sẵn sàng đón nhận và tôn trọng

sự khác biệt văn hoá của các tầng lớp, các dân tộc và giai cấp khác
nhau. Đây là điều thuận lợi cho việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết


18

toàn dân; bởi sự đa dạng, cởi mở, phóng khoáng sẽ dễ trong việc chấp
nhận nhau, hòa đồng với nhau và bổ sung sức mạnh cho nhau… một
cách năng động và linh hoạt. Nhưng bên cạnh đó, sự đông đúc và đa
dạng của dân cư còn đưa đến cho Gia Định - Sài Gòn - Tp. Hồ Chí
Minh nhiều diễn biến phức tạp trong đời sống kinh tế - xã hội. Sự khác
biệt về phong tục tập quán, các thành phần dân cư chưa thật sự hiểu
nhau nên đôi khi xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về mặt lợi ích, nhất là
lợi ích kinh tế, dẫn đến va chạm giữa các tầng lớp, các dân tộc, các tôn
giáo khác nhau trên địa bàn. Lối sống sùng ngoại, thực dụng, lai căng,
đề cao tự do chủ nghĩa… nhất là một bộ phận trong giới trẻ; các tệ nạn
xã hội diễn biễn phức tạp; các thế lực thù địch lợi dụng sự đa dạng của
thành phần dân cư để kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân ở
nơi đây, đặt ra cho Tp. Hồ Chí Minh nhiều thách thức việc phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
3.1.2. Tầm quan trọng của việc phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ
Chí Minh
Nhìn vào sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội, sức mạnh
đại đoàn kết đóng vai trò hết sức quan trọng và vai trò đó được thể hiện
một cách sinh động trong thực tiễn hoạt động của con người. Bằng sự
tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm, đánh giá vai trò của đại đoàn
kết đã được Đảng ta khái quát thành lý luận: “Đại đoàn kết toàn dân tộc
là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và
nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhận định đó

Đảng đã đánh giá đúng tầm của sức mạnh đại đoàn kết và thực sự đưa
đại đoàn kết trở thành chiến lược lâu dài cho sự phát triển kinh tế - xã
hội.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân là động lực để phát
triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh: Thuật ngữ “động
lực”, theo Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa là “cái thúc đẩy, làm cho
biến đổi, phát triển”. Nếu hiểu theo nghĩa triết học, “động lực” bao hàm
hai yếu tố: một là, cái sinh ra lực để thúc đẩy sự vận động và phát triển
của sự vật – hiện tượng; hai là, lực phát sinh đó mang ý nghĩa là nội
lực, chứ không phải là nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài. Theo nghĩa đó,


19

phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân đã hội tụ đầy đủ cả hai yếu tố
để trở thành động lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân là nguồn lực để
phát triển kinh tế - xã hội: Đại đoàn kết toàn dân có vai trò to lớn và
thực sự trở thành động lực có sức lan toả trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Không những thế, sức mạnh đại đoàn kết còn tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội với tư cách là một nguồn lực. Nếu
chúng ta hiểu nguồn lực con người là tổng thể các tiềm năng của con
người đã được chuẩn bị về thể lực, trí tuệ, đạo đức… để có thể huy
động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước (hoặc
của vùng, địa phương cụ thể) thì nguồn lực đại đoàn kết sẽ là sức mạnh
tổng hòa các yếu tố về thể chất, trí tuệ, trình độ chuyên môn kỹ thuật,
đạo đức, ý thức trách nhiệm, thái độ và tác phong lao động… Trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Tp. Hồ Chí Minh đã sử dụng toàn
bộ sức mạnh tổng hợp đó. Nếu như trước đây, chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn giương cao ngọn cờ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và ngọn cờ ấy

được coi là nguồn sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần vô biên cho
sự nghiệp cách mạng Việt Nam; thì hiện nay Tp. Hồ Chí Minh đã xem
“nguồn lực đại đoàn kết” thực sự là sức mạnh liên kết của các chủ thể
đã, đang và sẽ tạo ra nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần đóng
góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.
3.2. THỰC TRẠNG PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN
KẾT TOÀN DÂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.2.1. Những thành tựu của việc phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí
Minh
Lĩnh vực kinh tế: Kinh tế là một trong những lĩnh vực cơ bản của
đời sống xã hội. Mọi sự biến đổi trong đời sống kinh tế, tất yếu sẽ kéo
theo hàng loạt những biến đổi trong các lĩnh vực khác. Tp. Hồ Chí
Minh bắt đầu từ sự vươn lên trong lĩnh vực kinh tế đã phát triển trở
thành một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, giáo dục và
khoa học – công nghệ của cả nước. Do đó, Thành phố đặc biệt chú ý
đến việc thực hiện đại đoàn kết trong lĩnh vực kinh tế và đạt được nhiều


20

thành tựu: Thứ nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân đã giúp
Tp. Hồ Chí Minh đi tiên phong trong công cuộc đổi mới đất nước; thứ
hai, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân đưa nền kinh tế Tp. Hồ
Chí Minh phát triển nhanh và bền vững; thứ ba, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân ở Tp. Hồ Chí Minh góp phần hoàn thiện nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Lĩnh vực chính trị - xã hội: Chính trị là một trong những lĩnh vực
cơ bản và phức tạp nhất của đời sống xã hội; vì vậy, nó trở thành nội

dung vô cùng quan trọng mà phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
cần hướng đến. Ở Tp. Hồ Chí Minh, nhờ tình hình chính trị khá ổn định
và hệ thống chính trị đang dần hoàn thiện đã làm nền tảng để kinh tế
phát triển năng động. Những thành tựu mà phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân mang lại cho lĩnh vực chính trị của Thành phố đó là: Thứ
nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân ở Tp. Hồ Chí Minh gắn
liền với phát huy dân chủ, tạo nền tảng để ổn định chính trị; thứ hai,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân góp phần kiện toàn bộ máy
nhà nước ở Tp. Hồ Chí Minh; thứ ba, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân ở Tp. Hồ Chí Minh góp phần giác ngộ cách mạng và củng cố
mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Nhà nước với nhân dân.
Lĩnh vực văn hóa – xã hội: Trong quá trình hình thành và phát
triển, văn hóa Tp. Hồ Chí Minh sự tác động mạnh mẽ của những điều
kinh tế - xã hội và mang những nét đặc trưng riêng biệt. Do vậy, đối với
lĩnh vực văn hóa, sức mạnh đại đoàn kết phải giúp văn hóa Thành phố
phát huy những nét đặc trưng của mình. Từ việc tổng kết thực tiễn hoạt
động văn hóa, phát huy sức mạnh đại đoàn kết đạt được những thành
tựu sau: Thứ nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân ở Tp. Hồ
Chí Minh gắn liền đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế; thứ hai, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân góp phần xây dựng đời sống văn
hóa ở Tp. Hồ Chí Minh; thứ ba, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân góp phần xây dựng Thành phố “văn minh, hiện đại, nghĩa tình”.
Những thành tựu của việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh những năm qua
có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, nhận thức của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Tp. Hồ Chí


21


Minh về vấn đề đại đoàn kết toàn dân, về tầm quan trọng của việc phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân đã có những chuyển biến tích cực;
thứ hai, Thành phố có một môi trường kinh tế - xã hội ổn định và phát
triển, quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng đã tạo điều
kiện thuận lợi để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân đạt được
nhiều thành tựu; thứ ba, Thành phố là nơi hội tụ đa dạng các thành
phần, các tầng lớp và các lực lượng; cùng với đó là tinh thần cởi mở,
phóng khoáng, năng động, sẵn sàng chia sẻ và đón nhận. Đây là những
điều kiện thuận lợi để thực hiện và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân.
3.2.2. Những hạn chế trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh
hiện nay
Bên cạnh những thành tựu và những kết quả do phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân trong lĩnh vực kinh tế ở Tp. Hồ Chí Minh
thì sức mạnh đại đoàn kết của Thành phố vẫn còn những hạn chế và
đang đối diện với những khó khăn, thách thức nhất định. Những hạn
chế này đang trực tiếp lẫn gián tiếp đe dọa đến khối đại đoàn kết toàn
dân: Thứ nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân chưa thể khắc
phục hết hậu quả của mặt trái nền kinh tế thị trường; thứ hai, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân chưa thực sự phát huy một cách tích cực và hiệu
quả trong xây dựng dân chủ, xây dựng đảng trong sạch vững mạnh; thứ
ba, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân chưa thực sự theo kịp
những biến đổi nhanh chóng và phức tạp của văn hóa, xã hội, tôn
giáo…
Những hạn chế, yếu kém của việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh trong
những năm qua có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên một số nguyên
nhân cơ bản sau: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết chưa đủ mạnh để có
thể giảm thiểu những tác động tiêu cực từ mặt trái của quá trình phát

triển kinh tế thị trường; là sự bùng nổ của công nghệ thông tin; do hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch; sự hạn chế trong nhận thức và
trong hoạt động thực tiễn các cán bộ làm công tác Mặt trận.


22

3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT VÀO VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH
ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở TP. HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Dựa chắc vào tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, để tiếp tục
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, vừa phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh mới của Tp. Hồ Chí Minh hiện nay, vừa thúc đẩy sự phát
triển tiếp theo của nền kinh tế - xã hội Thành phố, luận án đề xuất một
số giải pháp cơ bản: (1) Nâng cao nhận thức xã hội, nhất là nhận thức
các cấp về vị trí, vai trò và sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân; (2) xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở thành phố Hồ Chí
Minh để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; (3) kết hợp hài hoà
giữa các lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội và tạo lập niềm tin, nuôi dưỡng
sự đồng thuận xã hội; (4) đẩy mạnh thực hành dân chủ và dân chủ hoá
xã hội; (5) đấu tranh phòng, chống lợi ích nhóm, nạn tham nhũng, chủ
nghĩa cá nhân. Các giải pháp này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động tương hỗ lẫn nhau, do đó phải triển khai một cách đồng thời, đồng
bộ tất cả các giải pháp để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
trong phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Tp. Hồ Chí Minh có nhiều dân tộc, nhiều thành phần kinh tế, xã
hội, tín ngưỡng tôn giáo, có mối liên hệ rộng rãi với kiều bào ta ở nước
ngoài cũng như với kiều dân nước ngoài sinh sống ở nước ta. Tp. Hồ
Chí Minh rộng lớn, một trung tâm đa chức năng: kinh tế, tài chính ngân

hàng, du lịch, khoa học công nghệ, … có hoạt động kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế sôi động nhất nước. Mặt khác, Tp. Hồ Chí Minh là
trọng điểm hàng đầu, là địa bàn xung yếu của chiến lược “diễn biến hòa
bình” mà các thế lực thù địch đã và đang ráo riết thực hiện ở nước ta.
Chiến tranh và do những thủ đoạn chia rẽ của kè thù đã để lại những
định kiến, mặc cảm sâu nặng trong đời sống cộng đồng.
Những nỗ lực nhằm xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh trong
những năm qua là rất lớn, rất hiệu quả, góp phần tạo nên những thành


23

tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội
Thành phố.
Tuy nhiên những thành tựu đã đạt được, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tp. Hồ Chí Minh
còn bộc lộ một số hạn chế, tồn tại, chưa tương xứng với tiềm năng, thế
mạnh của Thành phố.
Dựa chắc vào tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, để tiếp tục
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, vừa phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh mới của Tp. Hồ Chí Minh hiện nay, vừa thúc đẩy sự phát
triển tiếp theo của nền kinh tế - xã hội Thành phố, luận án đề xuất một
số giải pháp cơ bản: Nâng cao nhận thức xã hội, nhất là nhận thức các
cấp về vị trí, vai trò và sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân; xây dựng
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở thành phố Hồ Chí Minh để
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; kết hợp hài hoà giữa các lợi
ích cá nhân, tập thể, xã hội và tạo lập niềm tin, nuôi dưỡng sự đồng
thuận xã hội; đẩy mạnh thực hành dân chủ và dân chủ hoá xã hội; đấu
tranh phòng, chống lợi ích nhóm, nạn tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân.

Các giải pháp này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động tương hỗ lẫn
nhau, do đó phải triển khai một cách đồng thời, đồng bộ tất cả các giải
pháp để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh
tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
PHẦN KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết được hình thành và phát
triển trên một cơ sở bao gồm: chủ nghĩa yêu nước gắn với ý thức cộng
đồng của dân tộc Việt Nam; tinh hoa văn hóa phương Đông và phương
Tây; chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng chiến lược của Quốc tế Cộng
sản về liên minh giai cấp và đoàn kết các lực lượng cách mạng vô sản
và cách mạng giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức; Thực tiễn
hoạt động và phẩm chất cao đẹp của Hồ Chí Minh.
Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh diễn
ra gắn với các giai đoạn hoạt động của Hồ Chí Minh, từ thời niên thiếu
cho đến khi Người từ giã thế giới này (1969). Nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết hết sức phong phú và sâu sắc, bao quát các


×