Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 theo mô hình trường học mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.67 KB, 11 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
RÈN KỸ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng kiến:
Như chúng ta đã biết, để giao tiếp được trọn vẹn thì về nguyên tắc con người
cần nắm hàng loạt các kỹ năng. Trong đó đọc là một kỹ năng quan trọng hàng đầu của
con người. Không biết đọc con người không thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại,
không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của nó
trong xã hội hiện đại. Hơn nữa đọc tốt sẽ giúp cho các em học tốt các môn học khác.
Đây là công cụ quan trọng, cần thiết giúp con người giao tiếp. Chính vì vậy dạy đọc ở
phổ thông, nhất là các lớp đầu cấp rất quan trọng.
Hiện nay, để đáp ứng được xu thế phát triển đi lên của đất nước, mô hình
trường học mới (lấy học sinh làm trung tâm trong hoạt động học), mô hình giáo dục
tiên tiến đã triển khai ở một số lượng lớn các trường Tiểu học trên phạm vi toàn quốc.
Hoạt động học tập của HS diễn ra chủ yếu bằng hình thức tự học dưới sự hướng dẫn
của GV và dưới sự quản lý của Hội đồng tự quản HS trong mỗi lớp: cá nhân tự học,
tự học theo cặp và nhóm. Hoạt động học tập không chỉ giới hạn trong sách mà còn mở
rộng ra thực tế cuộc sống của chính học sinh ở cộng đồng.
Việc dạy đọc bên cạnh những thành công: học sinh đã biết đọc, đọc to, đọc rõ
ràng, đúng dấu hỏi, ngã và ngắt nghỉ đúng dấu câu. Song vẫn còn nhiều hạn chế:
- Học sinh của chúng ta chưa đọc được như mong muốn. Kết quả đọc của các em
chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kỹ năng đọc, đọc còn chậm, đọc nhỏsai, đọc hay “thêm, bớt” tiếng,... Các em chưa nắm được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội
tri thức, tư tưởng, tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản được đọc.
- Giáo viên cũng còn nhiều lúng túng khi dạy đọc: Cần đọc bài với giọng như thế
nào?, làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh, làm thế nào để các em đọc nhanh
hơn, hay hơn, diễn cảm hơn; làm thế nào để các em hiểu văn bản được đọc; làm thế
nào để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu; làm thế nào để cho những gì đọc được
tác động vào cuộc sống các em,... Có biết bao trăn trở, băn khoăn thắc mắc của giáo
viên khi dạy đọc. Từ yêu cầu nói trên, với vai trò là giáo viên dạy lớp 2, tôi nhận thấy
việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh là rất cần thiết. Chính vì lẽ đó, bản thân mạnh dạn


đưa ra sáng kiến “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 theo mô hình trường
học mới”.
1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Từ trước đến nay, đã có một số sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu về vấn đề
này nhưng chưa đi sâu áp dụng PPDH mới (cho học sinh trải nghiệm, khám phá, thực
hành - luyện tập; đặc biệt là việc đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh theo thông tư
30). Để góp phần tích cực hóa hoạt động học tập của HS tôi đưa ra một số biện pháp
rèn đọc cho HS lớp 2 theo mô hình mới.
II. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
1


Năm học 2015-2016, bản thân được nhà trường phân công giảng dạy lớp 2 1,
trong qúa trình giảng dạy bản thân tôi nhận thấy:
*. Đối với giáo viên:
Đã nhanh chóng tiếp cận nội dung, phương pháp dạy học mới là vấn đề cấp
bách trong dạy học hiện nay. Khi lên lớp, nhiều giáo viên đã cố gắng vươn lên nghiên
cứu kỹ sách HDH, chương trình; bám sát chuẩn KT- KN để tổ chức các hoạt động học
tập phù hợp với từng đối tượng học sinh. Từng bước nâng cao chất lượng nói chung
và phân môn Tiếng Việt nói riêng. Song bên cạnh đó, một số giáo viên còn hạn chế
trong đổi mới phương pháp, chưa rèn được kỹ năng điều hành cho HĐTQ – nhóm
trưởng, chưa có sự đột phá sáng tạo trong giảng dạy; rèn kỹ năng đọc hiệu quả còn
thấp. Ngược lại có người quan niệm đọc chỉ để hiểu nghĩa- ý những gì được đọc, tức
là tìm hiểu bài. GV chưa chú ý đến cách học của từng cá nhân HS, ít tương tác ngược
hiệu quả tiết học chưa cao. Cũng vì không nắn được ý đồ của sách HDH, không nắm
được cái “bất biến” nên giáo viên không có khả năng xử lý linh hoạt, đáp ứng được
cái “vạn biến” trong giờ học.
*. Đối với học sinh:
So với trước các em đã biết cách tự học, đọc trôi chảy, ngắt nghỉ đúng các dấu

câu. Nhiều em có giọng đọc tốt, nhập vai tốt khi thể hiện, lên xuống giọng hợp lý lôi
cuốn người nghe. Những học sinh đọc tốt thường rất thích đọc, hứng thú học. Ngược
lại số em còn lại không thích đọc, ít tập trung chú ý khi luyện đọc, thậm chí một số
em đọc miễn cưỡng cho xong. Đại đa số học sinh đơn thuần chỉ đọc thuộc tiếng, còn
đọc lưu loát trôi chảy thì chưa nhiều và đọc hay- diễn cảm thì quá ít. Không ít em đọc
sai phương ngữ như: Quốc Dũng, Tuấn Anh, Duy.. Đọc ngắt nghỉ tùy tiện như em:
Trung Dũng, Quỳnh Anh, Nhật Anh,.. Đọc nhỏ, chưa lưu loát như em: Huyền An,
Đạt; lại có em phải dừng lại đánh vần từng âm, từng tiếng như em: Huệ, Bình An.
*Kết quả khảo sát đầu năm về chất lượng đọc như sau:
Tổng số học sinh lớp 21: 21 em; Nữ: 8 em.
+ Điểm 9-10:
5 em (23,8%).
+ Điểm 7-8:
6 em (28,6%).
+ Điểm 5-6:
6 em (28,6%
+ Điểm 3-4:
3 em (14,3%).
+ Điểm 1-2:
1 em ( 4,7%).
Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành tìm hiểu nguyên nhân:
- Một số học sinh còn ham chơi, ít chăm chỉ học tập; ngại hỏi bạn, hỏi cô giáo
khi chưa hiểu bài; sự chú ý không chủ định chiếm ưu thế, khả năng tư duy lô gic- tư
duy ngôn ngữ còn hạn hẹp. Bên cạnh đó một phần không nhỏ gia đình các em có bố
mẹ làm ăn xa, không có điều kiện quan tâm tới việc học giúp đỡ các em tháo gỡ kịp
thời những khúc mắc khó khăn trong học tập khiến các em ít hứng thú khi đọc bài,
dẫn đến sự thờ ơ, thiếu tự tin trong học tập, từ đó tạo nên những lỗ hổng kiến thức
trong học tập của các em.
Nhận thấy điều đó, tôi tự đặt cho mình nhiệm vụ phải giúp học sinh tháo gỡ
những khó khăn trên.

2.2. CÁC GIẢI PHÁP.
2


Để rèn kỹ năng đọc cho học sinh, trước hết người GV cần nắm được nội dung,
kiến thức và những yêu cầu cơ bản cần đạt về nội dung sách HDHTV2.
2.2.1. Nắm vững mục đích, quan điểm biên soạn sách HDHTV2:
Toàn bộ nội dung học ở tất cả các bài học thể hiện đầy đủ các kiến thức, kỹ
năng, thái độ được nêu trong chương trình môn học Tiếng Việt. Nội dung học nêu
trong mỗi HDH đều bao gồm các mạch kiến thức và kỹ năng như: đọc, viết, nghe, nói,
những kiến thức về từ và câu trong Tiếng Việt. Ngữ liệu để chuyển tải những kiến
thức và kỹ năng trên bao gồm các văn bản truyện, thơ, văn bản khoa học, văn bản
hành chính, lời nói chứa đựng phong cách giao tiếp văn hóa của người Việt Nam
trong đời sống thường nhật.
- Sách HDHTV2 nêu ra một quy trình học từng nội dung đọc, viết, nghe, nói kiến
thức về từ và câu tiếng Việt.
- Sách HDHTV2 cụ thể hóa quy trình học từng nội dung nói trên bằng một chuỗi các
hoạt động theo một trình tự tương đối ổn định và hợp lý, phù hợp với khả năng tiếp
nhận (đọc và nghe), tạo lập (viết và nói) tiếng Việt cho HS. Bằng những hoạt động
này, HS không chỉ biết phải học cái gì mà quan trọng hơn, còn biết phải học bằng
cách nào, biết kiểm tra hoặc đánh giá kết quả học của mình.
Các hoạt động thực hành trong HDHT2 đều là những hoạt động nhằm mục
đích cho HS vận dụng kiến thức, kỹ năng mới học vào nhiều bối cảnh khác nhau để từ
đó HS có cơ hội nhận diện lại kiến thức, kỹ năng và củng cố chúng cho chắc hơn;
đồng thời HS cũng biết dùng những kiến thức kỹ năng đã học vào nhiều tình huống
khác nhau, khiến cho các em hiểu rõ hơn về kiến thức, thành thạo hơn về kỹ năng
đọc.
Trong HDHT2 còn có những phần dành cho các hoạt động ứng dụng nhằm
hướng dẫn HS vận dụng vào kiến thức, kỹ năng đã học vào bối cảnh cuộc sống của
chính HS, làm cho các em thấy rõ mối quan hệ giữa những điều các em học với cuộc

sống thực, thấy rõ lợi ích thiết thực của việc học.
Mọi hoạt động của GV và của HS đã được nêu tường minh trong từng bài. Nếu
như cách trình bày của SGV truyền thống còn chưa chỉ rõ cần tổ chức cho HS học
bằng những hoạt động nào thì sách HDHTV2 đã làm được điều này. Vì vậy, sách này
thực chất mang tính hướng dẫn HS tự học dưới sự chỉ dẫn tích cực của GV. HS nhìn
vào sách, dưới sự điều hành của HĐTQ – nhóm trưởng các nhóm tự thực hiện quy
trình học theo tiến độ trong sách
Nội dung HDHTV2 được trình bày theo lô-gíc của quá trình hình thành năng
lực tiếng Việt cho HS. Nội dung trên được tổ chức theo một quy trình sau:
Trải nghiệm
học cái mới (kiến thức, kỹ năng, thái độ)
thực hành cái
mới
vận dụng cái mới vào thực tế.
Quy trình này đã làm cho việc học trở thành một hoạt động tích cực bởi HS biết
những kiến thức và kỹ năng mới học hấp dẫn khiến cho các em hứng thú và có nhu
cầu học; các em có thể tự học được và dùng nó cho cuộc sống của mình ở cộng đồng,
ở nhà trường.
2.2.2. Nắm vững Chương trình và Chuẩn kiến thức, kỹ năng; Phương pháp tổ
chức hoạt động đọc.
3


Nhiệm vụ quan trọng nhất của dạy đọc là hình thành kỹ năng đọc
cho học sinh. Kỹ năng đọc bao gồm các nội dung chính là:
* Đọc thông
* Đọc hiểu.
* Ứng dụng đọc.
- Đọc thông bao gồm: đọc trơn từ, câu, đoạn văn, bài văn, bài thơ ngắn có nội
dung đơn giản; đọc lời hội thoại (chú trọng đọc các từ có vần khó, từ dễ đọc sai do

ảnh hưởng của phát âm địa phương), đọc thầm.
- Đọc hiểu bao gồm: hiểu nghĩa các từ, câu, hiểu nội dung, ý chính của đoạn
văn; hiểu nội dung của bài văn, bài thơ ngắn và một số văn bản thông thường.
- Ứng dụng đọc bao gồm: đọc thuộc một số đoạn hoặc bài thơ ngắn; đọc hiểu
một số văn bản thông thường như mục lục sách, thời khóa biểu, thông báo đơn giản.
Ba nội dung đọc nói trên có mối quan hệ bao hàm, nội dung sau bao hàm nội
dung trước, nội dung trước làm tiền đề để học nội dung sau. HS phải biết đọc trơn tức
biết chuyển ký hiệu chữ viết thành âm thanh để đọc thành tiếng. Từ chỗ biết đọc
thành tiếng có sự tham gia của thị giác và cơ quan phát âm, HS biết đọc thầm chỉ
bằng mắt, âm thanh không được phát ra mà chỉ còn là hình ảnh âm thanh trong não
của người đọc. Đọc thầm có tốc độ nhanh hơn đọc thành tiếng. HS biết đọc thầm là đã
biết đọc thông. Từ đọc thông HS mới có điều kiện đọc hiểu nhanh. Vì vậy, để hiểu
văn bản, HS cần đọc thầm hơn là đọc thành tiếng. Sự vắng âm thanh ở đọc thầm giúp
HS tập trung hơn vào việc hiểu ý nghĩa của bài đọc.
Sách HDHTV2 mỗi tuần có 2 bài khóa để luyện đọc ở HDHTV A và HDHTV
C. Phần lớn hoạt động đọc thành tiếng các bài khóa tập trung ở HĐ cơ bản. Trong HĐ
cơ bản có những HĐ sau để luyện đọc thành tiếng:
* Đọc các từ ngữ và lời giải nghĩa: Luyện đọc đúng các từ ngữ mới trong bài
và biết nghĩa của những từ này tạo cơ sở cho việc hiểu nội dung bài đọc. Hoạt động
đọc từ được tổ chức linh hoạt. Có bài từng cá nhân HS đọc từ mới. Ví dụ: Hoạt động
cơ bản 4, bài 7A:
Đọc từ và lời giải nghĩa từ:
- Xúc động: có cảm xúc mạnh.
- Hình phạt: hình thức phạt người có lỗi.
Có bài HS đọc từ mới theo cặp, một em đọc từ, một em đọc lời giải nghĩa, sau
đó các em đổi nhiệm vụ cho nhau. Ví dụ: Hoạt động cơ bản 7, Bài 1A:
Thay nhau đọc từ và lời giải nghĩa từ:
- Ngáp ngắn ngáp dài: ngáp nhiều vì buồn ngủ, mệt hoặc chán.
- Nắn nót: (viết hoặc làm) cẩn thận, tỉ mỉ.
- Nguệch ngoạc: (viết hoặc vẽ) không cẩn thận.

- Mải miết: chăm chú làm việc không nghỉ.
Ở một số bài khác, HS đọc từ mới trong sự tương tác với các bạn trong lớp có
sự chỉ dẫn của GV: từng HS nghe GV đọc một từ và lời giải nghĩa của từ đó. Tiếp
theo, mỗi HS đọc một từ và lời giải nghĩa từ. Ví dụ: HĐ cơ bản 3, Bài 3C:
Đọc từ và lời giải nghĩa từ:
- Sâu thẳm: rất sâu.
4


- Hạn hán: (nước) khô cạn vì trời nắng kéo dài.
- Lang thang: đi hết chỗ này đến chỗ khác, không dừng ở nơi nào.
* Đọc các từ có nguy cơ đọc sai: Luyện cho HS đọc đúng cá từ các em dễ đọc
sai do ảnh hưởng của phát âm địa phương, do HS phát âm chưa chuẩn. phàn lớn các
bài đều có tổ chức HĐ tương tác toàn lớp học. Nhưng GV càn chọn một số từ HS
trong lớp thường đọc sai trong số những từ có trong HDH để các em đọc.Trong
trường hợp GV biết một số từ khác trong bài đọc HS thường đọc sai mà chưa được
nêu trong sách, GV có thể cho HS nêu rồi đọc đúng các từ đó.
Ví dụ: Hoạt động 4, Bài 20A:
Cùng thầy cô đọc từ ngữ: hoành hành, lăn quay, lồm cồm, ngạo nghễ, vững
chải, quật đổ. Ngoài ra GV còn cho HS luyện đọc thêm các từ mà lớp hay đọc sai:
ông Mạnh, lồng lộn, thỉnh thoảng.
Trong dạy học cần có sự sáng tạo, điều chỉnh các hoạt động học cho phù hợp
với tình hình HS của lớp từ đó tiết học mới mang lại hiệu quả cao.
* Đọc câu dài, câu cần tách: Cái khó là nhiều HS chưa biết ngắt hơi chỗ nào
cho đúng. GV luyện cho HS biết ngắt hơi ở chỗ có dấu phẩy, dấu hai chấm trong mỗi
câu, biết ngắt hơi sau những cụm từ trong câu dài mà thiếu dấu tách ý ở giữa câu. Bài
nào có câu dài, câu cần tách ý mới có HĐ này. Hoạt động này thường được tổ chức ở
hoạt động HS tương tác toàn lớp.
Ví dụ: Nghe thầy cô đọc mẫu và đọc theo:
- Thế là trong lớp / chỉ còn mình em / viết bút chì.//

- Nhưng hôm nay / cô cũng định cho em viết bút mực / vì em viết khá rồi.//
Hoặc ở hoạt động cơ bản 4, Bài 12C(Yêu cầu HS ngắt nhịp đúng mỗi dòng thơ:
Lặng rồi / cả tiếng con ve
Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi,
Nhà em / vẫn tiếng ạ ời
Kẽo cà tiếng võng / mẹ ngồi mẹ ru….
Những ngôi sao / thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ / đã thức vì chúng con.
Đêm nay / con ngủ giấc tròn
Mẹ / là ngọn gió / của con suốt đời.
Nhìn vào bài đọc có dấu ngắt nghỉ, cá nhân - nhóm thực hiện theo yêu cầu một
cách dễ dàng.
* Đọc đoạn: Là luyện cho HS đọc trơn cả đoạn văn, biết ngắt hơi hợp lý ở từng
câu, biết nghỉ hơi ở cuối mỗi câu. HĐ đọc đoạn được tổ chức theo cách học tương tác
trong nhóm. Mỗi HS trong nhóm đọc một đoạn, cứ như vậy nối tiếp nhau đọc cho hết
bài. Sau khi HS đọc các bạn trong nhóm đánh giá bằng lời nhận xét về độ to của
giọng đọc, về độ chính xác trong đọc từ, đọc câu, về tốc độ đọc, ...
Ví dụ: HĐ cơ bản 5, Bài 4A:
Đọc theo nhóm: Mỗi em đọc một đoạn, nối tiếp nhau đến hết bài.
Hoặc ở HĐ cơ bản, Bài 6C:
Đọc đoạn:
- Mỗi em đọc một đoạn, nối tiếp nhau đến hết bài.
5


- Nhóm bình chọn bạn đọc hay nhất.
* Đọc bài ngắn: Là luyện cho HS đọc trơn cả bài, biết ngắt nghỉ đúng dấu câu,
nhận ra tính chỉnh thể của bài. HĐ đọc bài ngắn thường được thực hiện trong nhóm.
Ví dụ: HĐ cơ bản 4, Bài 1C:
Đọc nối tiếp cả bài (2 – 3 lượt).

Chú ý nghỉ hơi đúng:
Họ và tên: // Bùi Thanh Hà
Nam, / nữ: // nữ
Ngày sinh: // 23 – 4 – 1996 (hai mươi ba / thàng tư / năm một nghìn chín trăm /
chín mươi sáu).
2.2.3. Chú trọng rèn một số kỹ năng học tập cho học sinh:
Cùng một nội dung kiến thức, cùng đối tượng học sinh nhưng hiệu quả chất
lượng học tập của học sinh tùy thuộc vào cách thức tổ chức của mỗi giáo viên. Nếu
giáo viên có nhiều sáng tạo- linh hoạt trong đổi mới phương pháp, nắm bắt được đặc
điểm tâm sinh lý học sinh, có ý thức bồi dưỡng, tự rèn luyện và trải nghiệm nhiều thì
việc rèn đọc cho học sinh sẽ có kết quả cao.
Như chúng ta đã biết cách học tốt nhất là cách học thông qua thảo luận, tương
tác với người khác (thầy / cô, bạn, người trong gia đình, cộng đồng).
Sách HDHTV2 đòi hỏi HS phải có kỹ năng học theo nhóm, cá nhân tự học.
Mỗi HDH trong sách bao gồm một chuỗi các HĐ được thiết kế nhằm giúp học sinh tự
học bằng cách thực hiện các yêu cầu, các chỉ dẫn trong bài học. Do đó điều GV cần
quan tâm trước tiên là tập dượt cho HS các kỹ năng sau:
- Kỹ năng đọc – hiểu (hiểu các câu lệnh, các chỉ dẫn, các yêu cầu, các loại/ dạng HĐ
học tập, …).
- Kỹ năng làm việc cá nhân (tập trung suy nghĩ để hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân,
tự trình bày ý kiến cá nhân, tự đánh giá kết quả hoạt động của cá nhân..).
- Kỹ năng làm việc hợp tác theo cặp, theo nhóm (biết tổ chức hoạt động nhóm; nhận
nhiệm vụ, lên kế hoạch, phan công, đảm nhận trách nhiệm, phối hợp với các thành
viên trong nhóm để hoàn thành tốt công việc của nhóm,…).
- Kỹ năng sử dụng đồ dùng học tập ở góc học tập, sử dụng tài liệu tham khảo ở thư
viện lớp học.
- Kỹ năng tự học ở môi trường xung quanh, gia đình và cộng động.
Để có được một số kỹ năng học tập trên cho mỗi học sinh, ngay từ đầu năm
học GV cần thành lập, rèn kỹ năng điều hành cho HĐTQ, nhóm trưởng. các em thực
sự trở thành một “cô – thầy giáo nhỏ” biết điều hành, chỉ dẫn các thành viên trong

nhóm – lớp làm việc theo chuỗi hoạt động trong sách HDH.
2.2.4. Tăng cường việc rèn đọc cho học sinh:
Giáo viên cần xác định mục tiêu cần đạt: Học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu
loát và ngắt nghỉ đúng dấu câu; đọc có ý thức thông hiểu được nội dung những điều
mình đọc, tiến đến đọc hay và mức độ cao hơn là đọc diễn cảm.
- Luyện cho học sinh đọc đúng chính âm:
Trước hết giáo viên cần xác định được các trường hợp phát âm lệch chuẩn của
học sinh về phương ngữ vùng mình đang dạy học. Mục tiêu đặt ra là luyện cho các em
6


vươn đến một tiếng nói dân tộc Việt thống nhất, đẹp đẽ về âm thanh. Hiểu được điếu
dó, bản thân đã chú ý luyện cho học sinh phát âm đúng, hay trong phạm vi giao tiếp
rộng hơn phương ngữ hẹp của mình. Học sinh hay đọc sai dấu thanh hỏi/ ngã; vần
ân/anh, ênh/anh, uâng/ uân, in/ inh, ach/êch, s/x.
Để giúp học sinh đọc đúng, tôi đã phối hợp nhiều phương pháp cùng một lúc:
+ Tập cho học sinh quan sát mặt âm thanh lời nói của người khác, của bản thân mình
để điều chỉnh khi đọc. Chữa lỗi phát âm gồm luyện theo mẫu, bằng phát âm mẫu của
mình, bằng mô tả cấu âm.
+ Biện pháp chữa lỗi bằng âm trung gian là biện pháp chữa âm đúng bằng âm trung
gian.
Ví dụ: Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp luyện theo mẫu: Bằng cách giáo viên
đưa ra trước cho học sinh cách phát âm chuẩn các từ cần luyện, yêu cầu học sinh phát
âm theo ( chữa lỗi từ thanh hỏi sang thanh ngã).
- Luyện đọc đúng, nhanh, lưu loát và trôi chảy:
Bằng hình thức đọc câu, đọc đoạn, đọc cả bài với hình thức đọc theo nhóm, đọc
cá nhân, thi đọc trước lớp giúp các em được tham gia vào quá trình đọc một cách chủ
động. Khi đọc tôi cho cả lớp nhận xét bạn đọc, tạo điều kiện để các em tự sửa lỗi sai,
học cách đọc đúng của bạn. Tự giác theo dõi khi bạn đọc, hình thành thói quen nền
nếp trong giờ đọc.

Ví dụ: Hoạt động cơ bản 5, Bài 3A yêu cầu HS làm việc theo nhóm:
Đọc bài: Mỗi em đọc một đoạn, nối tiếp nhau đến hết bài.
Nếu GV nhận thấy HS đọc nhóm tốt rồi, có thể tổ chức cuộc thi đọc để các em
có nhiều cơ hội thể hiện đọc cá nhân. Do đó, GV có thể bổ sung hoạt động tiếp theo
là: Thi đọc từng đoạn giữa các nhóm. Mỗi nhóm cử một bạn lên bốc thăm để đọc
đoạn. Sau đó, cả lớp nhận xét và bầu chọn bạn đọc tốt nhất. Làm như vậy tránh nhàm
chán và phát huy được năng lực, sở trường của từng cá nhân khi luyện đọc..
- Luyện đọc hiểu bài:
Đọc là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc.
Khi đã hiểu sâu sắc, thấu đáo các văn bản đọc thì học sinh mới có công cụ hữu hiệu
để lĩnh hội những tri thức, tư tưởng, tình cảm của người khác, chứa đựng trong văn
bản. Nhờ đó mà học sinh có khả năng đọc rộng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức.
Qua việc tìm hiểu nghĩa của từ, nội dung tình cảm của văn bản, giúp học sinh đọc với
giọng phù hợp và hay hơn.
Ở lớp 2 các văn bản nghệ thuật dùng để đọc hiểu thường là những trích đoạn văn, thơ
ngắn, đơn giản, có nội dung phù hợp với tâm lí HS 7 – 8 tuổi, do đó yêu cầu rèn kỹ
năng đọc – hiểu văn bản nghệ thuật, văn bản thông thường (phi nghệ thuật) cho HS
chỉ dừng ở mức độ đơn giản, chỉ dừng ở một số gợi mở ban đầu, giúp các em tích lũy
vốn từ và yêu thích những từ ngữ hay, hình ảnh đẹp.Để từ đó, HS có ý thức sử dụng
những từ ngữ hay, hình ảnh đẹp trong kể chuyện, viết văn, giao tiếp.
- Luyện đọc nhanh cao hơn nữa là đọc diễn cảm:
Không dừng lại ở việc luyện đọc đúng mà là luyện đọc đúng ngữ điệu. Để đọc
diễn cảm, trước hết phải xác định nội dung, nghĩa của bài đọc, sắc thái tình cảm,
giọng điệu chung của bài. Khi kết thúc quá trình đọc hiểu, học sinh phải xác định
7


được cảm xúc của bài, chú ý đến: Ngắt giọng biểu cảm đó là chỗ ngừng lâu hơn bình
thường.
Chẳng hạn: Khi đọc đoạn: Chú chim sâu vui cùng vườn cây và các loài chim

bạn. Nhưng trong trí nhớ thơ ngây của chú còn mãi hình ảnh một cánh hoa mận
trắng biết nở cuối đông để báo trước mùa xuân tới (Tiếng Việt 2- Bài: Mùa xuân
đến). Nếu tạo được chỗ ngắt giọng hợp lý: “Chú chim sâu vui cùng vườn cây / và
các loại chim bạn.// thì sẽ có hiệu quả nghệ thuật cao hơn.
+ Tốc độ đọc: Trong khi đọc, để giúp học sinh đọc lưu loát, trôi chảy; không
đọc ê a, đọc nhát gừng, tùy nội dung của mỗi bài tôi hướng dẫn học sinh bằng sự phân
tích, cảm nhận về nội dung văn bản đọc. Bằng giọng đọc mẫu của giáo viên, của bạn,
cho học sinh thấy được chỗ cần đọc dồn dập, khẩn trương khi có nội dung miêu tả
một công việc khẩn trương. Cảm xúc phấn khởi tự hào cũng cần thể hiện tốc độ đọc
không quá chậm.
+ Cường độ đọc, cao độ đọc là vấn đề cũng được quan tâm.
Ví dụ: Câu văn “ Mặt hồ sóng chồm dữ đội, bọt tung trắng xóa, nước réo ào
ào”được đọc với cường độ lớn, khắc sâu sự hùng tráng, mạnh mẽ của thác Y- a- ly.
Ngoài ra tôi muốn nghe học sinh đọc để có cách điều chỉnh chỉnh phù hợp cho mỗi
học sinh.
Khi có học sinh đọc còn chậm tôi kiên trì giúp đỡ, phụ đạo thêm cho các em
bằng cách cuối mỗi buổi chiều tôi nán lại 30 phút để luyện đọc cho em đó. Thường
xuyên kiểm tra cách đọc bài của học sinh, có nhận xát đánh giá cụ thể. Công việc này
được thực hiện xuyên suốt năm học để giúp các em luyện đọc đúng đến nhanh dần.
Với học sinh khá giỏi tôi yêu cầu cao hơn: Đọc lưu loát, đọc diễn cảm và đọc
phân vai dựng lại câu chuyện. Trước khi giảng một bài cụ thể tôi thường dự tính
những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định điểm cần luyên ngắt giọng.
Ví dụ: Bài “Dậy sớm”
Tinh mơ/ em thức dậy//
Rửa mặt/ rồi đến trường//
Núi giăng hàng/trước mặt//
Phải lưu ý để ngắt nhịp vì theo dự tính học sinh sẽ ngắt:
Tinh mơ em/ thức dậy//
Rửa mặt rồi/ đến trường//
Núi giăng/ hàng trước mặt//

Xét về mặt ý nghĩa và lý thuyết trọng âm hai câu đầu ngắt nhịp 2/3 và câu sau
ngắt nhịp 3/2.
Bên cạnh dạy học sinh ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp
còn cần phải dạy ngắt giọng biểu cảm, nhằm gây ấn tượng về cảm xúc, nhằm tập
trung sự chú ý của người nghe vào những từ ngữ mang trọng âm ngữ nghĩa;
Ví dụ: Mẹ/ là ngọn gió của con suốt đời.
Đó là chỗ ngừng lâu hơn trong các câu thơ cuối bài.
Với những câu, đoạn khó, giáo viên cần gợi ý cho học sinh xác định đọc câu,
đoạn văn đó và yêu cầu học sinh đọc diễn cảm. Dùng các gạch xiên để đánh dấu ngắt
nghỉ và gạch chân những từ ngữ cần nhấn giọng ở đoạn văn.
8


Ví dụ: Ngày xưa ở làng kia, /có hai em bé ở với bà.// Ba bà cháu rau cháo
nuôi nhau / tuy vất vả nhưng cảnh nhà lúc nào / cũng đầm ấm.
Bên cạnh tổ chức các hình thức học tập linh hoạt, phù hợp với nội dung mỗi
bài, mỗi hoạt động cũng là yếu tố không kém phần quan trọng, tùy theo mỗi bài đọc
để lựa chọn phương pháp.
Ví dụ: Khi luyện đọc bài “Những quả đào” (HDHTV2), cuối tiết học tôi tổ chức
đọc phân vai;
+ Một em đọc vai người dẫn chuyện.
+ Một em đọc vai người ông.
+ Một em đọc vai Xuân.
+ Một em đọc vai Vân.
+ Một em đọc vai Việt.
Cách đọc này gợi cho học sinh niềm say mê, thích thú được đọc được chính
mình thể hiện, được học. Luôn quan sát, theo dõi giọng đọc của từng học sinh, nhanh
chóng tìm ra sai lệch trong khi đọc, chữa cách đọc của học sinh ngay sau đó.
2. 2. 5. Coi trọng việc đọc mẫu và sự chuẩn bị của giáo viên:
Kỹ năng đọc đúng, trôi chảy,... là mục đích cuối cùng của chúng ta. Muốn có ở

học sinh những kỹ năng này trước hết phải có ở giáo viên, bởi vậy cần chuẩn bị bài
đọc một cách chu đáo; tìm hiểu nội dung, đọc được bài với đúng giọng cần thiết phù
hợp. Vì vậy trước khi lên lớp giáo viên phải xác định được kỹ năng đọc cần có và
luyện cho mình thành thục kỹ năng này.
Đọc và cảm thụ là hai khâu có liên quan mật thiết với nhau. Cảm thụ tốt giúp
học sinh đọc tốt hơn. Tuy nhiên đối với học sinh lớp 2 yêu cầu đọc diễn cảm chưa
cao, nên việc luyện đọc đúng cần chú trọng hơn. Khi học sinh đã đọc chuẩn, nhanh thì
trong một tiết học tôi không cảm thụ thay cho học sinh, mà khêu gợi vốn hiểu biết sẵn
có, giúp các em tái hiện được bức tranh mà tác giả vẻ lên bằng ngôn ngữ sinh động.
Giáo viên phải tìm hiểu vốn đọc của học sinh, đặc điểm trình độ đọc của từng
em: Biết rõ học sinh mình, em nào phát âm còn sai chuẩn, khó phát âm từ nào trong
bài, khó đọc ở câu nào, loại văn bản nào.
Dựa vào hệ thống câu hỏi và bài tập trong sách, GV tổ chức cho các nhóm HS
trả lời câu hỏi, trao đổi, thảo luận, báo cáo kết quả, … sao cho mỗi em đều làm việc
để tự nắm được bài. Để làm được điều đó, GV phải chú ý tổ chức các nhóm tự quản
suốt cả quá trình học, sao cho các nhóm dưới sự quản lý của nhóm trưởng đều làm
việc , đều đoc, tìm hiểu nội dung bài đọc, giúp đỡ, hỗ trợ nhau hoàn thành nhiệm vụ.
Điều quan trọng là GV phải kiểm soát được kết quả đọc và đọc – hiểu của từng nhóm
HS, từng HS. Cần tạo môi trường học tập lôi cuốn tất cả HS đều đọc, đều tìm hiểu bài
đọc; tránh tình trạng HS làm việc hời hợt, đối phó (bề ngoài có vẻ tích cực họ tập
nhưng chưa thực sự “hành động”), dễ dẫn đến một kết quả thấp hơn nhiều so với PP
dạy đọc trước.
Để giờ dạy đọc kiểm soát được kết quả của HS và đạt hiệu quả, GV cần hướng
dẫn HS thực hiện từng hoạt động một cách rõ ràng, chắc chắn. Kiểm tra xem HS có
làm việc không, có hiểu việc làm bài không ( nếu nhiệm vụ đặt ra là khó hoặc mới với

9


HS thì cần cho HS làm mẫu, làm thử một phần nhiệm vụ); trả lời thắc mắc của HS; tổ

chức cho các nhóm, cá nhân báo cáo và đánh giá kết quả làm việc.
Kiểm tra, giám sát hoạt động của từng nhóm, cá nhân để nắm được khả năng
đọc, cách phát âm,…của cá nhân, nhóm, lớp, từ đó hỗ trợ, giúp đỡ các em hoàn thành
nhiệm vụ. Vì GV khó có thể đi hết các nhóm, đến với từng HS nên càng cần phát huy
vai trò tự quản của nhóm, vai trò “trợ lý” cho thầy cô của nhóm trưởng, của HS giỏi;
sử dụng các công cụ giám sát, các loại tín hiệu yêu cầu trợ giúp hoặc sẵn sàng trợ giúp
,…để GV trực tiếp hỗ trợ những HS yếu kém hoặc mời những HS đã hoàn thành chia
sẻ hiểu biết, kinh nghiệm, giúp đỡ bạn.
2. 2. 6. Coi trọng công tác động viên khen thưởng:
Mỗi học sinh đọc bài tôi thường theo sát, cho bạn nhận xét để các em tự đánh
giá lẫn nhau. Động viên khích lệ kịp thời các em, nhất là những em đọc chậm dù các
em có tiến bộ rất nhỏ. Từ đó các em thấy tự tin, phấn khởi vươn lên trong học tập.
Luôn gần gủi, tâm sự cùng các em, nhờ vậy mà có em đã bộc lộ suy nghĩ của mình
“Em thích đọc bài thơ hơn bài văn, vì bài thơ dễ nhớ hơn”. Trong tiết học, thường
động viên các em bằng tràng pháo tay hay bằng một cử chỉ âu yếm của mình. Từ đó,
các em thấy phấn chấn, vui mừng và luôn cố gắng vươn lên trong học tập.
Ngoài ra tôi luôn phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để cùng kèm cặp,
động viên các em biết luyện đọc bài ở nhà; khuyến khích các em sưu tầm đọc thêm
truyện ngắn, sách- báo tạo niềm say mê đọc sách, tăng thêm sự hiểu biết cho các em.
2. 2.3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Qua quá trình vận dụng các giải pháp trên nên chất lượng đọc nói riêng và chất
lượng toàn diện nói chung tăng lên rõ rệt. Đầu năm các em chưa biết cách tự học, đọc
còn ê a, dừng lại đánh vần từng tiếng,...nay đã đọc to, rõ ràng, trôi chảy. Đặc biệt, các
em rất phấn khởi thích thú giờ học Tiếng Việt, tích cực hợp tác cùng bạn. Nhiều em đã
có giọng đọc hay lưu loát và diễn cảm ; lại còn nhiều em biết đọc phân vai dựng lại
câu chuyên rất hoàn hảo như em : Gia Bảo, Bảo Hân, Gia Hân, Đức, Ánh, Thanh Hòa.
Những em đọc yếu nay tiến bộ rõ rệt, đọc rõ ràng và cùng bạn hỏi - trả lời được
nội dung câu hỏi của bài như em : Trọng An, Quỳnh Anh, Hoàn Anh, Nhật Anh.
Đến cuối kỳ I kết quả chất lượng đọc được nâng lên rõ rệt. Kết quả như sau:
- Tổng số học sinh: 21 em

+ Điểm 9-10:
8 em (38,1%).
+ Điểm 7-8:
9 em (42,9%).
+ Điểm 5-6:
3 em (14,3%).
+ Điểm 3-4:
1 em ( 4.7%)
+ Điểm 1-2:
Không
Với kết quả đạt được tuy chưa mỹ mãn nhưng phần nào cũng nâng cao được
chất lượng, hiệu quả hơn so đầu năm. Trong mỗi tiết học cần tổ chức nhiều hình thức
học tập hấp dẫn phù hợp với đặc trưng môn học như: đọc bài, dò bài, quan sát, thảo
luận, chia sẻ, chơi trò chơi,… nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập.
Vận dụng linh hoạt các PPDH, chú trọng tổ chức hình thức học nhóm, cặp đôi, cá
nhân; tăng cường luyện đọc; nhận xét thường xuyên - rõ ràng sát đối tượng có tác
dụng thúc đẩy học sinh tự giác học tập. Cần nêu vấn đề để phát huy năng lực cá nhân,
10


tạo lập mối quan hệ hợp tác giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh,
giữa học sinh - giáo viên và cộng đồng.
Kịp thời bổ túc rèn đọc cho những học sinh còn đánh vần hoặc đọc chưa lưu
loát.
Luôn tạo được sự hứng thú trong học tập với việc sử dụng hợp lý các phương
pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh với điều kiện của nhà trường.
Tôi nghĩ: Người giáo viên có lòng nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp, luôn tìm tòi,
khám phá các cách dạy hay, hấp dẫn, nhẹ nhàng; phương pháp lôi cuốn, nội dung hấp
dẫn, phù hợp, tự khắc các em sẽ bị lôi cuốn vào từng tiết học. Các em sẽ không ngừng
tìm tòi, hợp tác với bạn để tự chiếm lĩnh tri thức mới. Vậy là giáo viên đã tương đối

thành công trong việc nâng cao chất lượng giờ dạy trên lớp. Điều cốt lõi là biết dạy
cách học cho học sinh.
Trên đây là một số biện pháp mà bản thân thường vận dụng góp phần rèn kỹ
năng đọc cho học sinh lớp 2 theo mô hình trường học mới. Chắc còn nhiều thiếu sót,
kính mong sự đóng góp ý kiến của BGH, các đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm
được hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả vào thực tế dạy học.
Xin chân thành cảm ơn.
Hiền Ninh, ngày 29 tháng 4 năm 2016
Người viết

Trần Thị Tư Cách

XẾP LOẠI CỦA HĐKH TRƯỜNG
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

11



×