luan van,khoa luan, thac si , su pham 1 of 90.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN
**********
HOÀNG NGỌC HÀ
DẠY HỌC CA DAO THEO ĐẶC TRƯNG
THI PHÁP THỂ LOẠI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn
HÀ NỘI - 2009
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si1 of 89.
1
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 2 of 90.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN
**********
HOÀNG NGỌC HÀ
DẠY HỌC CA DAO THEO ĐẶC TRƯNG
THI PHÁP THỂ LOẠI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn
Người hướng dẫn
ThS. BÙI MINH ĐỨC
HÀ NỘI - 2009
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si2 of 89.
3
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 3 of 90.
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Dạy học ca dao theo
đặc trưng thi pháp thể loại”, tác giả đã thường xuyên nhận được sự giúp đỡ,
tạo điều kiện thuận lợi và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa
Ngữ văn, đặc biệt là các thầy cô giáo trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn
và ThS. Bùi Minh Đức - người hướng dẫn trực tiếp.
Tác giả khoá luận xin được bày tỏ sự biết ơn và gửi lời cảm ơn trân
trọng nhất tới các thầy cô.
Do năng lực của người nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên khoá luận
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự
chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo và các bạn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2009
Tác giả khoá luận
Hoàng Ngọc Hà
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si3 of 89.
3
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 4 of 90.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong khoá luận là trung thực. Khoá luận này chưa từng được
công bố trong bất kì công trình nào. Nếu những lời cam đoan trên là sai, tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2009
Tác giả khoá luận
Hoàng Ngọc Hà
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si4 of 89.
4
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 5 of 90.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài
6
2. Lịch sử vấn đề
7
3. Mục đích nghiên cứu
11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
12
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
12
6. Phương pháp nghiên cứu
12
7. Đóng góp của khoá luận
12
8. Bố cục của khoá luận
12
NỘI DUNG
14
Chương 1: Thi pháp ca dao
14
1.1.Khái niệm ca dao
14
1.2. Đặc trưng thi pháp ca dao
15
1.2.1. Nhân vật trữ tình và những “ hoàn cảnh điển hình” trong ca dao
15
1.2.2. Kết cấu trong ca dao
18
1.2.3. Hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ trong ca dao
19
1.2.4. Thời gian và không gian nghệ thuật trong ca dao
23
1.2.5. Thể thơ
25
1.3. Phân loại ca dao
27
1.3.1. Ca dao nghi lễ
27
1.3.2. Ca dao lao động
28
1.3.3. Ca dao sinh hoạt
29
Chương 2: Dạy học văn bản ca dao theo đặc trưng thi pháp thể loại
32
2.1. Văn bản và văn bản văn học
32
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si5 of 89.
5
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 6 of 90.
2.1.1. Văn bản
32
2.1.2. Văn bản văn học
33
2.1.3. Văn bản văn học và tác phẩm văn học
35
2.2. Hoạt động dạy học văn bản văn học ở trường THPT
37
2.2.1. Đặc trưng của văn bản văn học ở trường THPT
37
2.2.2. Dạy học văn bản văn học ở trường THPT
37
2.3. Tổ chức học sinh tiếp nhận ca dao theo đặc trưng thi pháp thể loại
39
2.3.1 Hoạt động tạo tâm thế tiếp nhận ca dao cho học sinh
39
2.3.2. Đọc và tái hiện hình tượng nghệ thuật trong ca dao
40
2.3.3. Phân tích văn bản ca dao
47
2.3.4. Thể nghiệm, ứng dụng các giá trị tư tưởng, nghệ thuật của ca dao
76
Chương 3. Thiết kế thể nghiệm bài học: Ca dao than thân, yêu
81
thương tình nghĩa
KẾT LUẬN
99
THƯ MỤC THAM KHẢO
100
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si6 of 89.
6
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 7 of 90.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CD
Ca dao
CH
Câu hỏi
GV
Giáo viên
GS
Giáo sư
HS
Học sinh
SGK
Sách giáo khoa
TS
Tiến sĩ
THPT
Trung học phổ thông
TPVC
Tác phẩm văn chương
TPVH
Tác phẩm văn học
VBVH
Văn bản văn học
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si7 of 89.
7
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 8 of 90.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. TPVH là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc tập thể
sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát bằng hình tượng về cuộc sống con
người. Nó đem lại cho con người sự hiểu biết, sự thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ,
góp phần hoàn thiện nhân cách con người, giúp con người vươn tới cái chân thiện - mĩ. Vì vậy,việc dạy và học văn trong nhà trường phổ thông là điều vô
cùng quan trọng và cần thiết.
Dạy học TPVH trong nhà trường phổ thông thực chất là tổ chức HS tiếp
nhận TPVH một cách chủ động, tích cực và sáng tạo, phát huy năng lực cảm
thụ văn chương của HS. Do đó, vấn đề tiếp nhận cần phải được quan tâm,
nghiên cứu. Trong quá trình tổ chức HS tiếp nhận tác phẩm, người dạy phải
vận dụng sáng tạo lý thuyết tiếp nhận vào việc hướng dẫn HS tiếp nhận tác
phẩm một cách chủ động, tích cực và sáng tạo, từng bước khắc phục tình
trạng thụ động trong lĩnh hội kiến thức của HS đã tồn tại từ rất lâu trong dạy
học văn ở trường THPT. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
dạy và học TPVC.
1.2. Trong dạy học Ngữ văn hiện nay, chương trình SGK được tổ chức
theo trục thể loại. Những tác phẩm được đưa vào giảng dạy thuộc nhiều thể
loại khác nhau và được sắp xếp theo một trình tự hợp lí. Việc chọn thể loại
làm nguyên tắc để tổ chức SGK với mục đích rèn luyện cho người học năng
lực đọc văn, cảm thụ văn và biết ứng dụng kiến thức văn học vào cuộc sống.
Mặt khác, mỗi thể loại văn học có một hệ thống thi pháp riêng. Nghiên cứu
thi pháp giúp chúng ta nhìn nhận giá trị thẩm mĩ của TPVC phong phú và đa
dạng hơn. Tìm hiểu TPVC thông qua thi pháp thể loại cung cấp cho chúng ta
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si8 of 89.
8
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 9 of 90.
một phương pháp tiếp nhận mới, giúp chúng ta có cách nhìn đa chiều, sâu sắc
hơn về một TPVC nào đó.
1.3. Trong lịch sử văn học dân tộc, văn học dân gian giữ vị trí và vai trò
vô cùng quan trọng. Đó là kho tàng lưu giữ những kinh nghiệm, những sáng
tác, những gì tinh tuý nhất mà cha ông ta đã để lại. Mỗi thể loại văn học dân
gian có cách nói riêng của nó nhằm biểu đạt những nội dung riêng, thi pháp
thể loại là cách nói về cái riêng ấy. Vì thế, có nắm được thi pháp thể loại mới
có khả năng “giải mã” được tác phẩm thuộc thể loại ấy. Trong hệ thống phân
loại văn học dân gian, CD được xác định là một thể loại trữ tình dân gian. Từ
lâu,CD đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình của các cấp học. Nó
chiếm số lượng lớn so với các thể loại văn học dân gian khác như thần thoại,
truyền thuyết, truyện cổ tích, …Ở bậc Tiểu học, nó được giảng dạy dưới dạng
các bài đồng dao, lên Trung học cơ sở là những bài CD về tình yêu quê hương
đất nước. Đến THPT là các bài CD yêu thương, tình nghĩa, CD than thân và
CD hài hước, châm biếm. Điều đó khẳng định vị trí, vai trò của CD trong việc
bồi dưỡng, xây đắp những tình cảm thẩm mĩ cho HS. Đến với CD, con người
tìm thấy ở đó cuộc sống của người dân lao động xưa với tất cả sự phong phú,
đa dạng vốn có của nó. Vì thế, dạy và học CD là một công việc cần thiết ở
trường THPT.
1.4. Là sinh viên sư phạm, việc nghiên cứu vấn đề tiếp nhận văn học
theo đặc trưng thi pháp thể loại có một ý nghĩa rất lớn. Nó không chỉ giúp
người nghiên cứu có con đường tiếp cận văn học một cách đúng đắn, khoa
học mà còn từng bước vận dụng lí thuyết tiếp nhận vào thực tiễn khi giảng
dạy môn Ngữ văn ở trường THPT.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Dạy học ca dao theo đặc trưng thi pháp thể loại”.
2. Lịch sử vấn đề
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si9 of 89.
9
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 10 of 90.
Nghiên cứu về loại thể, về tiếp nhận là vấn đề không hoàn toàn mới mẻ.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đạt được những thành tựu to lớn, có tác
dụng làm nền tảng mở ra nhiều con đường tiếp cận tác phẩm và giảng dạy
khác nhau.
2.1. Các công trình nghiên cứu văn học theo loại thể
Lịch sử phân chia loại thể tồn tại nhiều quan niệm và có thể nói là rất
phức tạp.
Cổ xưa và phổ biến nhất ở phương Tây là việc chia toàn bộ TPVH ra
làm ba loại, xuất phát từ phương thức phản ánh hiện thực của chúng. Arixtốt
(384 – 322 TCN) là người sớm nhất đề xuất sự phân biệt này trong công trình
Nghệ thuật thi ca của ông. Trong công trình nghiên cứu của mình, ông nói
đến ba phương thức mô phỏng hiện thực là tự sự - trữ tình - kịch.
Ở nước ta, nhiều nhà nghiên cứu cũng đi sâu vào vấn đề loại thể như
GS.Trần Thanh Đạm cùng các tác giả Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai, Phan Sĩ
Tấn và Đàm Gia Cẩn trong cuốn “Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể”
(1970) đã khẳng định văn học chia ra làm ba loại chính là tự sự - trữ tình kịch. Sau đó các tác giả đã gợi ý phân tích các thể nhỏ như: Thơ, biền văn
(hịch, cáo, phú, văn tế,…), truyện, kí, kịch,… Điều này đã giúp giáo viên
đứng lớp thuận tiện hơn khi tiếp cận tác phẩm từ đặc trưng thể loại.
Trong giáo trình Lí luận văn học do Phương Lựu (chủ biên), các tác giả đã
đưa ra sự phân chia văn học thành năm loại chính: tự sự - trữ tình - kịch –
chính luận – kí. Ở cách phân chia này, các tác giả đã tách kí ra làm thể loại
riêng là vì kí thực sự là một lĩnh vực văn học đặc thù. “Đó là các tác phẩm
văn xuôi, tái hiện các hiện tượng đời sống và nhân vật như là các sự thật xã
hội, không tô vẽ. Tâm thế người viết kí và đọc kí khác hẳn tâm thế người viết
và đọc văn học tự sự. Đó là hình thức văn học để chiếm lĩnh các sự thực ngoài
văn học của đời sống. Người ta tìm đến kí sự, phóng sự, bút kí, hồi kí, nhật
kí,... là tìm đến các sự thật của đời sống không được đưa vào lịch sử, cũng
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si10 of 89.
10
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 11 of 90.
chưa hoá thân vào các hình tượng nghệ thuật bay bổng của trí tưởng tượng.
Chính đặc trưng ấy làm cho kí có một sức sống riêng, trở thành một lĩnh vực
văn học dặc thù, không thể nhập chung vào các loại khác”.[11;Tr.352]
Trước đây, chính luận cũng được tách ra thành một thể loại riêng. Ở
đây, các tác giả cũng chỉ ra rằng: các TPVH chính luận như cáo, chiếu, biểu,
tuyên ngôn độc lập,... đã trở thành những áng “thiên cổ hùng văn”. “Chúng
trở thành một lĩnh vực văn học nghệ thuật đặc thù trong đó các tác phẩm có
sự kết hợp tài tình giữa sự thực hiển nhiên, lôgíc đanh thép, cảm xúc mãnh
liệt để trở thành các hiện tượng thẩm mĩ có sức lôi cuốn sâu xa tình cảm và lí
trí côn người”.[11; Tr.352]
Cách phân chia văn học thành năm loại đã khắc phục được nhược điểm
của các cách phân chia trước và đáp ứng được yêu cầu giảng dạy bộ môn Ngữ
văn ở các trường phổ thông.
Như vậy, vấn đề loại thể đã được rất nhiều tác gia quan tâm nghiên cứu
và đạt được nhiều thành tựu to lớn.
2.2. Các công trình nghiên cứu về thi pháp ca dao
Văn học dân gian như tấm gương phản chiếu tâm hồn con người lao
động Việt Nam. CD là một bộ phận lớn trong văn học dân gian, chúng ta có
một số lượng CD khổng lồ ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Bao lời ca đã được
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, những câu ca đã được truyền đi trên
miệng của những bà mẹ ru con, những người nông dân tát nước, những cô gái
dệt vải, những em bé chăn trâu. CD vốn là một thể loại có nội dung phản ánh
đa dạng và phong phú. Đó chính là nơi để các nhà nghiên cứu khai thác, tìm
tòi và khám phá.
Nghiên cứu về thi pháp chính là nhằm chỉ ra cái hay, bản chất nghệ
thuật của tác phẩm. Nghiên cứu thi pháp cũng là nhằm chỉ ra cái lý do tồn tại
của hình thức. Thi pháp CD cũng vậy.
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si11 of 89.
11
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 12 of 90.
Trong cuốn Thi pháp ca dao của tác giả Nguyễn Xuân Kính đã nghiên
cứu khá sâu vấn đề thi pháp CD. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác
giả tập trung đi vào nghiên cứu về các đặc trưng của thi pháp CD như: ngôn
ngữ, thể thơ, thời gian – không gian nghệ thuật, kết cấu và một số biểu tượng,
hình ảnh thường được sử dụng trong CD. Cùng với những đặc trưng ấy, ông
đều chỉ ra sự giống và khác nhau giữa CD và thơ trong văn học viết để thấy
rằng CD cũng là thơ nhưng là một thể thơ trữ tình dân gian.
Với việc chỉ ra hệ thống các đặc trưng thi pháp thể loại CD, tác giả đã
góp phần giúp cho công việc giảng dạy và tiếp nhận CD được thuận lợi và có
hiệu quả hơn.
2.3. Các công trình nghiên cứu dạy học tác phẩm ca dao theo thể loại
Nghiên cứu về phương pháp giảng dạy, về hướng tiếp cận các tác phẩm CD
được nhiều tác giả quan tâm và đạt được những thành tựu đáng kể.
Trong cuốn Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy – nghiên cứu văn học
dân gian của Hoàng Tiến Tựu đã đưa ra phương pháp giảng dạy văn học dân
gian theo từng loại nhỏ như truyện dân gian, tục ngữ, đặc biệt là CD. Ông đã
nêu ra một số khó khăn trong việc dạy và học các bài CD trong trường phổ
thông, ông cho rằng “CD nói chung và CD cổ nói riêng đều có điểm chung là
giản dị, dễ hiểu và nhìn chung đều khó giảng. Sự dễ hiểu của CD chẳng
những không phải là điều kiện thuận lợi mà trái lại, nó chính là nguyên nhân
trực tiếp đẫn tới sự khó khăn trong giảng dạy CD. Khó khăn lớn nhất ở đây là
làm thế nào để đem lại cho HS những nhận thức mới, cảm thụ mới về những
bài CD giản dị, quen thuộc, dễ hiểu (hoặc được coi là dễ hiểu)” [13; Tr.120].
Ông đã đưa ra phương pháp tiếp cận CD đó là dựa trên thi pháp thể loại.
Trước hết, phải tìm đặt nó vào một cái “khung” thời gian, không gian và thể
loại hợp lý; xác định tác giả,nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình của bài
CD; các hình thức nghệ thuật của bài CD như thế nào? Ông khẳng định: việc
tìm cách xác định thời gian, không gian và thể loại cũng như việc xác định
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si12 of 89.
12
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 13 of 90.
nhân vật và đối tượng trữ tình của mỗi bài CD chính là cơ sở, điều kiện và
phương tiện cần thiết và quan trọng để đi vào tìm hiểu chủ đề, nội dung và
nghệ thuật của chúng.
Như vậy, trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa ra
phương pháp tiếp cận mới đối với CD. Nhờ đó, đứng trước một bài CD chúng
ta sẽ phân tích chính xác và cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp của bài CD
ấy.
Trong bài báo Một số ý kiến về phương pháp bình giảng ca dao theo
đặc trưng thi pháp thể loại của tác giả Phạm Thu Yến đăng trên tạp chí văn
học số 4/1987 có đưa ra một số phương pháp bình giảng CD với mục đích là
timf ra sự khác biệt giữa thơ và CD để thấy được bản chất folklore của một
tác phẩm CD. Để phân tích một tác phẩm CD ngoài dựa trên những yếu tố
thuộc văn bản ngôn từ, chúng ta còn phải tìm hiểu hệ thống dị bản, hoàn cảnh
diễn xướng và thể loại các bài ca để thấy được sự khác biệt giữa thơ trong văn
học viết và thơ trữ tình dân gian (CD).
Các nhà nghiên cứu đã đạt được những thành tựu rực rỡ làm cơ sở cho
công tác giảng dạy. Trên cơ sở đó người viết đã tiếp nối khuynh hướng của
khoa học văn học, khoa học dạy văn để nghiên cứu và giảng dạy văn chương
ở trường THPT với hy vọng bước đầu có thể tìm ra được một hướng tiếp cận
tích cực với tác phẩm CD.
3. Mục đích nghiên cứu
- Xây dựng một hệ thống hoạt động tổ chức học sinh tiếp nhận CD theo
đặc trưng thi pháp thể loại.
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng phát
huy vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh đồng thời đáp ứng nhu
cầu dạy học Ngữ văn theo SGK mới.
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si13 of 89.
13
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 14 of 90.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc trưng thi pháp thể loại CD và vấn đề tiếp nhận văn
học.
- Trên cơ sở những tiền đề lí luận nêu trên, xác định các hoạt động tổ
chức HS tiếp nhận thi pháp CD theo đặc trưng loại thể.
- Thiết kế giáo án thể nghiệm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Thi pháp thể loại CD.
- Dạy học CD theo loại thể.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Dạy học văn bản trữ tình dân gian (ca dao) theo thể loại.
- Văn bản ca dao trong SGK Ngữ văn 10, tập 1
.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết.
- Phương pháp thực nghiệm.
7. Đóng góp của khoá luận
7.1. Về lí luận
Góp phần làm sáng tỏ vấn đề tiếp nhận CD theo đặc trưng thi pháp thể
loại, từ đó góp phần đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn theo nguyên tắc
cấu tạo và tổ chức chương trình SGK.
7.2. Về thực tiễn
Bước đầu xây dựng qui trình tổ chức HS tiếp nhận CD theo đặc trưng
thi pháp thể loại.
8. Bố cục của khoá luận
Ngoại trừ Tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 phần:
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si14 of 89.
14
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 15 of 90.
Mở đầu
Nội dung:
Chương 1: Thi pháp ca dao.
Chương 2: Dạy học văn bản ca dao theo đặc trưng thi pháp thể loại.
Chương 3: Thiết kế thể nghiệm bài học: Ca dao than thân, yêu thương
tình nghĩa.
Kết luận
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si15 of 89.
15
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 16 of 90.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
THI PHÁP CA DAO
1.1. Khái niệm ca dao
Trước những năm 50 của thế kỷ XX, ở nước ta có hai thuật ngữ được
dùng để chỉ chung những câu hát dân gian là CD và phong dao. CD là những
câu hát không có chương khúc, tập trung miêu tả tính tình, tập quán, phong
tục của người Việt Nam. Từ khoảng đầu những năm 50 cho tới nay, thuật ngữ
phong dao hầu như không được sử dụng nữa (chắc hẳn do hàm nghĩa của nó
quá hẹp so với phạm vi đề tài của CD) nhưng lại xuất hiện một thuật ngữ mới
là dân ca. Giữa CD và dân ca có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. CD thực chất
là những câu hát tồn tại trong sinh hoạt văn hoá của nhân dân nhờ phương
thức diễn xướng dân gian. Khi nghiên cứu, tìm hiểu CD chúng ta không thể
tách rời CD và dân ca. CD chỉ bộc lộ được cái hay, cái đẹp khi chúng được
đặt vào môi trường sống thực sự đó là môi trường diễn xướng và khi đó nó là
dân ca.
Vậy ca dao là gì?
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi), các tác giả cho rằng thuật ngữ CD được dùng với nhiều nghĩa rộng
và hẹp khác nhau:
Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có
khúc điệu. CD là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến
trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trường hợp này CD đồng
nghĩa với dân ca.
Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam (Đinh Gia Khánh - chủ
biên),các tác giả đã định nghĩa ca dao như sau: CD là những câu hát dân gian
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si16 of 89.
16
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 17 of 90.
được lưu truyền rộng rãi, phần lớn là những lời đối đáp bằng hình thức thơ ca
có nội dung diễn tả cảm nghĩ của nhân dân lao động trong các mối quan hệ tự
nhiên, gia đình, xã hội.
SGK Ngữ văn 10, tập 1 định nghĩa: CD là “lời thơ trữ tình dân gian,
thường dùng kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả
thế giới nội tâm của con người”.
Tóm lại, có rất nhiều cách định nghĩa về CD nhưng dù định nghĩa theo
cách nào cũng chỉ ra rằng CD là những câu hát dân gian tập trung diễn tả đời
sống tâm hồn và mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự
nhiên của người dân lao động xưa.
1.2. Đặc trưng của thi pháp ca dao
1.2.1. Nhân vật trữ tình và những “hoàn cảnh điển hình” trong ca dao
a. Nhân vật trữ tình
Trong CD, nhân vật trữ tình luôn luôn đồng nhất với chủ thể trữ tình
(tác giả của bài CD). Nhân vật trữ tình tuy là một cá thể nhưng không phải là
một cá nhân riêng rẽ mà cá thể ấy cất lên lời ca diễn tả cảm nghĩ của cả một
quần thể. Biểu hiện của nó tập trung ở một số khía cạnh sau:
- Nhân vật trữ tình là những cô gái, chàng trai trong quan hệ bạn bè, lứa
đôi; người phụ nữ trong cảnh ngộ éo le về hôn nhân và gia đình.
- Nhân vật trữ tình là những người lao động: làm ruộng, làm thợ,…
trong công việc làm ăn, sông nước.
- Nhân vật trữ tình trong CD thường mang tính phiếm chỉ, nhân vật
thường không có tên gọi cụ thể.
Qua nhân vật trữ tình, xu hướng của nhân dân muốn diễn tả những nét
bản chất nhất của con người thời đại ấy. Nét bản chất này thể hiện một cách
tập trung ở cảm hứng trữ tình chủ đạo trong CD, dù là chàng trai hay cô gái,
ngưòi vợ hay người mẹ, người làm ruộng hay làm nghề sông nước khi nghĩ về
thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ.
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si17 of 89.
17
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 18 of 90.
Nhưng khi nghĩ về những người thương yêu, những nơi thân thuộc là
thấy yêu, thấy thương. CD xưa chủ yếu là tiếng hát than thân, phản kháng và
tiếng hát yêu thương, tình nghĩa của những lứa đôi, những người phụ nữ,
những người lao động. Tóm lại, họ là những người bị áp bức trong xã hội cũ.
b. Những “hoàn cảnh điển hình” trong ca dao
Sự miêu tả nghệ thuật những hoàn cảnh trong đó nhân vật trữ tình được
biểu hiện có tính chất khái quát rộng rãi, những hoàn cảnh ấy thường mang
tính ước lệ.
Một trong những “hoàn cảnh điển hình” trong CD là khung cảnh nơi
diễn ra cuộc gặp gỡ, trò chuyện, trao gửi tâm tình. Đó là cảnh vật thiên nhiên
gần gũi hoặc phong cảnh làng quê thân thuộc được tái hiện bằng những nét
chung nhất: “non xanh nước biếc”, “mây bạc trời hồng”, “cây đa bến nước”,
“giếng thơi đầu làng”,…
Địa điểm hành động trong CD thực hiện chức năng cảm xúc, tâm lí, tạo
ra bối cảnh thi vị cho cuộc gặp gỡ. Chẳng hạn chàng trai đi hát phường vải:
Chiều chiều dóng dả đi chơi,
Uốn roi giục ngựa tới nơi vườn đào.
Và gọi nơi các cô gái đang chờ bạn hát là chốn “đào nguyên”:
Đồn đây là chốn đào nguyên,
Trăng thanh gió mát cắm thuyền dạo chơi.
Tuy nhiên, dù phong cảnh ấy được miêu tả ước lệ đến đâu thì đó vẫn là
cảnh vật thiên nhiên và phong cảnh làng quê Việt Nam.
Một “hoàn cảnh điển hình” khác trong CD là thời gian của hành động,
tức là lúc diễn ra cuộc gặp gỡ, trò chuyện, trao gửi tâm tình hoặc lúc nhân vật
trữ tình tự bộc lộ cảm xúc. Thời gian nghệ thuật trong CD cũng có tính chất
vừa thực vừa ước lệ. Nó thực ở chỗ hợp với cảnh, với tình trong bài ca đồng
thời nó ước lệ vì nó rất chung chung, không xác định.
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si18 of 89.
18
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 19 of 90.
Thời gian của hành động trong CD cũng thực hiện chức năng cảm xúc,
tâm lí, tạo bối cảnh thi vị cho sự khởi phát cảm hứng trữ tình, thích hợp với
sắc điệu trữ tình của mỗi bài ca. Ví dụ, trong bài CD có nhóm từ mở đầu bằng
“chiều chiều …” và nhóm bài này có nội dung rất đa dạng.
Nỗi nhớ bạn:
Chiều chiều én liệng, nhạn bay
Ta đây nhớ bạn, bạn rày nhớ ai?
Nỗi cô đơn:
Chiều chiều mây phủ Ải Vân
Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn.
Nỗi nhớ cha mẹ đã sinh thành:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Điển hình hơn cả là những cảnh ngộ đời sống, những tình cảnh khác
nhau trong đó nảy sinh những tâm trạng, bộc lộ tâm tư của nhân vật trữ tình.
Đó thường là những cảnh ngộ, những tình cảnh chung cho từng kiểu nhân vật.
Ví dụ: với các cô gái chàng trai thì cảnh ngộ chung là tình duyên lỡ dở
do các nguyên nhân như chàng trai nghèo, cô gái “tham vàng phụ ngãi” hoặc
do duyên số mà không đến được với nhau.
Trong CD, nhiều khi cảnh ngộ, tình cảnh chỉ được biểu đạt gián tiếp,
thậm chí ẩn sâu trong tình tự của nhân vật. Tình cảnh của nhân vật trữ tình
không được nêu lên qua lời nói trực tiếp của nhân vật nên cần chú ý đến vai
trò của các yếu tố miêu tả trong CD. Yếu tố miêu tả này mang lại cho nội
dung CD “tính trần thuật” độc đáo. Qua đó thể hiện ước mơ, khát vọng một
hạnh phúc đơn sơ của nhân dân xưa:
Ước khi nào hợp lại một nhà,
Chồng cày, vợ cấy, mẹ già đưa cơm.
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si19 of 89.
19
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 20 of 90.
1.2.2. Kết cấu trong ca dao
CD vốn là những sáng tác văn chương dân gian được phổ biến rộng rãi
và được lưu truyền từ đời này sang đời khác chủ yếu bằng hình thức truyền
miệng, đối đáp của nhân dân lao động để diễn tả cảm xúc, cảm nghĩ. Chính
đặc điểm này góp phần quy định kết cấu văn bản CD.
a. Những hình thức kết cấu cơ bản
Thơ ca dân gian xét chung thường ngắn. Đặc biệt thơ ca dân gian trữ
tình lại càng ngắn: Những câu CD 2 dòng, 4 dòng thơ chiếm số lượng lớn hơn
cả; những bài dài cũng chỉ trên dưới 10 dòng. Đi đôi với tính ngắn gọn ấy của
văn bản CD là tính đơn điệu về hình thức kết cấu của nó. Trong CD có 2 hình
thức kết cấu cơ bản và một số biến thể do 2 hình thức gốc ấy biến hoá ra. Đó
là: Lối đối đáp và lối kể chuyện.
- Lối đối đáp: Những bài CD có kết cấu đối đáp là những lời trò chuyện
trực tiếp bằng thơ ca. Chủ thể trữ tình của những bài CD này phần lớn là
những “chàng trai và cô gái”. Trong trường hợp này, dấu hiệu hình thức của
kết cấu đối đáp ngoài sự hiện hữu của những cặp xưng hô như “anh - em”,
“chàng - thiếp”, “mình - ta”, “đó - đây”,… là sự tồn tại “theo vế” của các bài
ca:
- Dẫu mà không lấy được em,
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu.
- Tu mô cho em tu cùng,
May ra thành phật thờ chung một chùa.
- Lối kể chuyện: Nếu như lối đối đáp được coi là hình thức kết cấu đặc
trưng của thơ ca dân gian trữ tình thì lối kể chuyện trong CD cũng được sử
dụng như một hình thức kết cấu cơ bản. Hai hình thức ấy nương tựa vào nhau,
bổ sung cho nhau trong việc thực hiện chức năng “biểu hiện cảm hứng trữ
tình của đời sống dân tộc” của CD.
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si20 of 89.
20
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 21 of 90.
Nhìn chung, những câu hát yêu thương hoặc xét theo phương thức diễn
xướng là những câu hát lề lối thường sử dụng hình thức kết cấu đối đáp;
Những câu hát than thân, những câu hát vặt thường sử dụng hình thức kết cấu
kể chuyện.
b. Sự thống nhất của các lối kết cấu của ca dao
Khi so sánh CD với thơ lục bát, người ta thường nêu nhận xét là “hầu
hết CD đều ngắn hơn thơ”. Thực ra, hình thức “ngắn” của CD chỉ là dấu hiệu
bên ngoài của tính chất phiến đoạn của nó. Mỗi bài CD chỉ là một mảnh cảm
nghĩ âm vang thành câu hát cất lên hồn nhiên tự tâm hồn. Những bài CD có
lối kết cấu đối đáp là những lời trò chuyện trực tiếp bằng thơ ca. Những bài
CD có lối kết cấu kể chuyện tuy không có “đối” và “đáp” nhưng cũng thấp
thoáng bóng dáng của hai nhân vật đang trò chuyện. Đó là trò chuyện gián
tiếp, trò chuyện trong tâm tưởng.Tính thống nhất của các lối kết cấu của CD ở
chỗ CD là những câu hát trò chuyện dân gian, là một lối thơ trữ tình – trò
chuyện của nhân dân.
1.2.3. Hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ trong ca dao
Xét về lời thơ của CD, phương diện chính để biểu đạt cảm xúc của
nhân vật trữ tình là hình ảnh và ngôn ngữ.
a. Hệ thống hình ảnh trong ca dao
Hệ thống hình ảnh trong CD rất phong phú và đa dạng. Có thể chia
những hình ảnh trong CD thành các nhóm căn cứ vào nhiệm vụ thể hiện nhân
vật trung tâm của chúng:
- Những hình ảnh gắn liền với kiểu nhân vật “chàng trai và cô gái” trong
quan hệ bạn bè, lứa đôi.
- Những hình ảnh gắn liền với kiểu nhân vật “người phụ nữ trong những
nghịch cảnh về hôn nhân và gia đình”.
- Những hình ảnh gắn liền với kiểu nhân vật “những người lao động cùng
khổ trong cảnh ngộ đói nghèo, rủi ro và bị áp bức”.
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si21 of 89.
21
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 22 of 90.
- Những hình ảnh gắn liền với kiểu nhân vật “những người lao động
trong quan hệ yêu thương, gắn bó với công việc làm ăn, với gia đình và quê
hương, xứ sở”.
Trong CD, những hình ảnh so sánh và những hình ảnh miêu tả trực tiếp
là những hình ảnh có mặt trong tất cả các nhóm trên.
+ Những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, tượng trưng được lựa chọn chủ yếu
nhằm thể hiện nhân vật. Nhân vật được thể hiện bằng hình ảnh so sánh, ẩn dụ
một cách tập trung nhất, đa dạng nhất là các “chàng trai và cô gái”.
ví dụ:
- Anh như chiếc kỷ nhà quan
Em như chiếc nón mê tàn che mưa.
- Em như tố nữ trong tranh
Anh như ngòi bút chấm cành hoa mai.
…
Trong CD, những hình ảnh tượng trưng có ý nghĩa khái quát rộng như
hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ và người nông dân mà tiêu biểu hơn
cả là cái cò, cái bống:
- Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về.
- Cái bống cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng.
Mục đích của so sánh, thông thường là để cụ thể hoá cái được so sánh.
Trong CD, so sánh đi xa hơn là nó còn biểu hiện mạnh mẽ, bóng bẩy cảm
xúc, tình cảm, suy nghĩ của chủ thể trữ tình.
+ Những hình ảnh miêu tả trong CD
Trong CD, so sánh thường đi đôi với miêu tả trực tiếp. Miêu tả nhiều
khi phải dựa vào so sánh.
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si22 of 89.
22
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 23 of 90.
ví dụ:
Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.
Mỗi biện pháp nghệ thuật có một ưu thế riêng. Nếu so sánh mạnh về
khái quát cái chung, nét bản chất thì miêu tả trực tiếp mạnh về nêu bật cái
riêng, nét chi tiết của đối tượng được biểu hiện. So sánh được lựa chọn chủ
yếu nhằm thể hiện nhân vật thì miêu tả chủ yếu hướng vào cảnh vật. Tuy
nhiên, đó chỉ là những nét chấm phá đơn sơ:
- Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.
CD miêu tả cảnh thiên nhiên luôn luôn ngụ tình. Đó là tình yêu quê hương,
đát nước, con người,… Những tình cảm ấy thường hoà quyện vào nhau:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Ngoài ra, miêu tả trực tiếp còn hướng tới những cảnh ngộ đời sống
thường xuất hiện trong những câu hát than thân:
Những ngày tôi ở cùng cha
Cái nón chín rưỡi thao ba mươi đồng
Đến khi tôi về cùng chồng
Cái nón sáu đồng mà buộc quai mo.
Như vậy, trong CD nghệ thuật miêu tả đóng vai trò quan trọng trong
việc khắc hoạ những “hoàn cảnh điển hình” qua đó góp phần thể hiện nhân
vật trữ tình.
Hình ảnh trong CD còn một đặc điểm nữa là vừa mang tính ước lệ, vừa
mang tính chân thực. Hình ảnh ước lệ là những hình ảnh ở đó mặt khái quát
hoá lấn át mặt cụ thể hoá đối tượng biểu hiện. Nói đúng hơn, hình ảnh ước lệ
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si23 of 89.
23
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 24 of 90.
là hình ảnh ở đó có sự đồng nhất trực tiếp cái chung với cái riêng, cái khái
quát với cái cụ thể. Tuy nhiên, hình ảnh trong CD không chỉ có tính ước lệ mà
còn có tính chân thực tự nhiên. Đó là sự thể hiện hồn nhiên cảm xúc, tình cảm
của chủ thể trữ tình, tái hiện chính xác nét bản chất nào đó của đối tượng.
Tính ước lệ và tính chân thực là hai mặt thống nhất của hình ảnh trong CD.
b. Ngôn ngữ trong ca dao
Hình ảnh trong thơ CD được thể hiện qua ngôn ngữ thơ. Vì CD rất cô
đúc, hàm súc nên vai trò của yếu tố lời càng nổi bật. Sau đây là mấy đặc điểm
đáng chú ý hơn cả:
- Tính chất giản dị:
CD đạt được hiệu quả lớn, đạt tới chuẩn mực “khuôn thước cho lối thơ
trữ tình” không phải nhờ những phương pháp nghệ thuật tân kì mà bằng
những phương pháp nghệ thuật truyền thống; không phải nhờ lối nói kiểu
cách mà bằng lối nói chân tình; không phải nhờ ca từ hoa mĩ mà bằng lời thơ
giản dị…Tính chất giản dị đúng là một đặc điểm gây ấn tượng nhất của ngôn
ngữ CD.
Tuy nhiên, không thể hiểu khái niệm “giản dị” một cách thô thiển. CD
cũng như tục ngữ, câu đố, vè là những thể loại kết tinh lời ăn tiếng nói và lối
nói năng của quần chúng nhân dân. “Kết tinh” nghĩa là có sự chọn lọc, nâng
cao. Ngoài ra, cũng phải kể đến ảnh hưởng của văn thơ bác học. Lời của
những câu hát dân gian, dù được sáng tác và lưu truyền ở vùng nào trên đất
nước ta, ít nhiều xét chung cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của
văn thơ bác học. Trong CD, có không ít những câu mang đôi ba âm thanh
Hán Việt trang trọng, rất phù hợp với nội dung, đậm chất đạo nghĩa của
chúng:
Chàng ơi, ơn thầy ba năm cúc dục
Nghĩa mẹ chín tháng cù lao
Ai đền ơn cho thiếp mà như thiếp trao ân tình?
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si24 of 89.
24
Khoa Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham 25 of 90.
Tuy nhiên, phổ biến vẫn là những câu mang vẻ đẹp giản dị, không điểm
trang:
Lên non đón giá lấy trầm,
Xui ong lấy mật, giục tằm nhả tơ.
- Tính chất sinh động:
CD biểu hiện cảm nghĩ một cách gợi cảm, miêu tả sự vật một cách gợi
hình. Đặc điểm này thể hiện tập trung ở việc khai thác triệt để và sử dụng
sáng tạo:
+ Những giá trị gợi tả dồi dào của âm thanh trong tiếng Việt (từ mô
phỏng, từ láy, thanh điệu, vần…)
+ Các hình thức chuyển nghĩa trong kết cấu tiếng Việt (so sánh, ẩn dụ,
tượng trưng, nhân hoá…)
+ Hệ thống động từ và tính từ của tiếng Việt.
Nhờ khéo léo khai thác, sử dụng những giá trị gợi tả dồi dào của tiếng
Việt, ngôn ngữ CD có khả năng tác động mạnh mẽ vào các giác quan, vào
cảm giác, vào trực giác và trí tưởng tượng của người tiếp nhận.
- Màu sắc địa phương của từ ngữ:
Khảo sát ca từ của CD không qua âm nhạc và diễn xướng thì tính chất
địa phương của nó thể hiện chủ yếu ở mặt từ ngữ. Nhìn chung, mật độ từ ngữ
địa phương của CD lưu truyền tại các địa phương miền Trung và miền Nam
cao hơn rõ rệt so với CD lưu truyền ở các địa phương miền Bắc.
1.2.4. Thời gian và không gian nghệ thuật trong ca dao
a. Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật trong CD là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng.
Trong CD, thời gian của tác giả và thời gian của người đọc hoà lẫn với thời
gian của người diễn xướng và đó là thời gian hiện tại. Thời gian hiện tại được
biểu thị qua các từ ngữ: chiều chiều, hôm nay, bây giờ, đêm đêm, ngày
ngày,…
Hoµng Ngäc Hµ
tai lieu,dh su pham, luan van thac si25 of 89.
25
Khoa Ng÷ V¨n