Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Đọc hiểu văn nghị luận theo đặc trưng thể loại ( một thời đại trong thi ca và mấy ý nghĩ về thơ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.41 KB, 83 trang )

luan van,khoa luan, thac si , su pham 1 of 90.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*********

TRẦN THỊ TÂM

ĐỌC HIỂU VĂN NGHỊ LUẬN
THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
(“MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA”
VÀ “MẤY Ý NGHĨ VỀ THƠ”)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

GV hướng dẫn: Th.S Trần Hạnh Phương
SV thực hiện:Trần Thị Tâm

HÀ NỘI- 5/ 2009

tai lieu,dh su pham, luan van thac si1 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 2 of 90.

PHẦN MỞ ĐẦU.

1. Lí do chọn đề tài.
Môn Ngữ Văn là bộ môn quan trọng, mang tính chất công cụ trong giáo
dục phổ thông. Mỗi tác phẩm văn học, “đôi khi trở thành chiếc chìa khóa tốt để
mở cửa đi vào thế giới hiện thực mới và sau cánh cửa đó là con đường dẫn tới


cái cao sâu” (7).
Dạy học Văn, vì thế không những là một hoạt động sư phạm mà còn là
một nghệ thuật, đòi hỏi một năng lực tổ chức và trình độ hiểu biết của người
giáo viên. Cùng với việc đổi mới nội dung chương trình và sách giáo khoa Ngữ
văn, phương pháp dạy học Ngữ văn cũng được chú trọng đổi mới. Dưới góc độ
một phương pháp, đọc hiểu Văn là một hoạt động phân tích, tổng hợp tích cực,
một cách thức để người học vươn tới những chân trời rộng lớn. Với đặc thù có
tính ưu việt, đọc hiểu đã phát huy hiệu lực dạy học Văn, đáp ứng mục tiêu đào
tạo đặt ra cho môn Ngữ văn trong hệ thống các môn học ở nhà trường phổ
thông.
Văn hào M.Gorki từng nói: “Văn học là nhân học”. Học Văn học là học
cách làm người hoàn thiện. Vì vậy nội dung chương trình và sách giáo khoa
Ngữ văn ngày càng được phong phú và đa dạng hóa. Nếu trước đây, học sinh
chủ yếu tiếp cận với các văn bản văn học nghệ thuật thì hiện nay các em đã
được làm quen với rất nhiều thể lọai, đặc biệt là các văn bản chính luận (nghị
luận xã hội, nghị luận văn học,…). Từ việc học các văn bản chính luận này, học
sinh có điều kiện phát triển tư duy lôgic và khả năng diễn đạt.
Cũng xuất phát từ sự phong phú, đa dạng các thể loại văn đó, dạy Ngữ
văn không thể dạy theo những mô hình chung đối với các văn bản khác hẳn
nhau về tính chất, đặc trưng thể loại. Nghĩa là cần thiết phải khám phá tác phẩm

tai lieu,dh su pham, luan van thac si2 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 3 of 90.

theo đặc trưng riêng của từng thể loại để học sinh có thể cảm nhận được những
giá trị mới mẻ và làm phong phú thêm hiểu biết cho học sinh về các tác phẩm
văn học.
Trong số các văn bản nghị luận được đưa vào giảng dạy ở trường THPT,

hai văn bản Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh- SGK Ngữ văn 11- Tập 2NXBGD- 2007) và Mấy ý nghĩ về thơ ( Nguyễn Đình Thi- SGK Ngữ văn 12Tập 1- NXBGD- 2007) là hai tiểu luận phê bình có giá trị về mặt nội dung văn
học cũng như đặc trưng thể loại. Với hai văn bản ấy đã đặt ra một số yêu cầu mà
người giáo viên cần đáp ứng được để giảng dạy sao cho đạt hiệu quả là cao nhất.
Không chỉ dừng lại ở đó, mà xuất phát từ lòng yêu thích và sự ham mê
khám phá, học tập làm khoa học,cùng với mong muốn trở thành người giáo viên
Ngữ văn có năng lực chuyên môn tốt, người viết đã quyết định lựa chọn đề tài
“Đọc hiểu văn chính luận theo đặc trưng thể loại (Qua hai văn bản: Một thời
đại trong thi ca và Mấy ý nghĩ về thơ)

2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Vấn đề đọc hiểu trong công việc dạy văn.
Trong cuốn: “Phương pháp giảng dạy văn trong nhà trường phổ thông”
(A.Nhicônxki) đã chú ý đến hoạt động đọc của học sinh, vị trí của người học
sinh trong giảng dạy, học tập Văn, chú ý đến bản chất của hoạt động đọc Văn
(đặc biệt là đọc diễn cảm và đọc bình).
Giáo trình “Phương pháp luận dạy Văn học” (Ia.Rez) đã chú ý nhiều nhất
đến phương pháp đọc sáng tạo, đặt ở vị trí hàng đầu với tư cách một môn học
nhằm hình thành những thể nghiệm nghệ thuật bằng phương diện nghệ thuật.
Trong kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế tổ chức lần thứ 4 tại Úc (từ ngày
25 đến 27.8.1978) đã tập trung khá nhiều bài viết, bài nghiên cứu về nhiều hoạt

tai lieu,dh su pham, luan van thac si3 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 4 of 90.

động đọc của các nhà khoa học có uy tín trên thế giới. Các nhà khoa học cũng
đã trình bày một số khái niệm lí thuyết đọc- hiểu.
Đặc biệt ở Việt Nam, từ những năm 80 của thế kỉ XX đã xuất hiện nhiều
bài viết,công trình nghiên cứu về phương diện của hoạt đông đọc văn. Trước

đây đọc văn chỉ là một trong bốn thao tác thì bây giờ đọc văn được coi là một
phương pháp, một hoạt động cần tổ chức cho học sinh trong giờ học văn. Vì vậy
đọc văn vừa là một tiền đề, vừa là một kết quả xác thực của việc học văn và
chính việc đọc văn sẽ giúp chúng ta hiểu sâu, hiểu xa từng câu chữ trong văn
bản.
Trong cuốn “Văn học và nhân cách” (NXBVH- 1994), GS. Nguyễn
Thanh Hùng đã nhìn nhận trí tưởng tượng như là chìa khóa để mở ra thế giới
nghệ thuật phong phú sinh động của tác phẩm văn học và đó là dấu hiệu, chất
liệu của việc đọc văn. Bên cạnh đó, trong chuyên luận “Đọc và tiếp nhận văn
chương”, tác giả đã trả đọc về vị trí xứng đáng của nó trong quá trình khám phá
chiều sâu của tác phẩm văn học và chính tác giả cũng khẳng định rằng: “tiếp
nhận văn học là một quá trình vì nó chỉ thực hiện, diễn ra một hoạt động duy
nhất là đọc văn”.
Báo Văn nghệ số ra ngày 14.2.1998, bài viết “Môn Văn- thực trạng và
giải pháp”(G.S Trần Đình Sử) đã nhấn mạnh một trong ba mục tiêu của dạy học
Văn là phải rèn luyện khả năng đọc hiểu các văn bản, đặc biệt chú ý văn bản văn
học văn chương. Theo tác giả, văn bản văn chương là văn bản rất khó, để tạo
cho học sinh biết cách học Văn, đọc Văn có văn hóa, không suy diễn tùy tiện,
cần tạo cho các em thói quen đọc chính xác từng từ, từng chữ trong văn bản văn
chương.
GS. Trần Đình Sử trong cuốn “Đọc Văn, học Văn” cũng khẳng định
những quan niệm rõ ràng về đọc hiểu Văn và xem đây là những năng lực đầu

tai lieu,dh su pham, luan van thac si4 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 5 of 90.

tiên cần có của quá trình học Văn. Đọc Văn chính là quá trình đi tìm ý nghĩa của
văn bản, từ đó đọc hiểu văn bản lớn hơn là cuộc đời, là thế giới.

Trong chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học”, GS. Phan
Trọng Luận đã phân tích rõ tầm quan trọng của hoạt động đọc. Tác giả khẳng
định “đọc từ chữ đầu đến chữ cuối, đọc cho âm vang, đọc cho tri giác, cảm giác
được bằng mắt, bằng tai từ ngữ, hình ảnh, chi tiết”. Như thế, đọc là quá trình
từng bước tiếp cận văn bản; cần phải sử dụng liên tưởng, tưởng tượng và sự trải
nghiệm của người đọc.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học Văn”, tác giả Phan Trọng Luận chú ý
đến đọc diễn cảm và xem đọc văn bản là một trong ba phương pháp thường
dùng trong quá trình thâm nhập tác phẩm văn học.
Ngoài ra TS. Nguyễn Trọng Hoàn với bài biết “Một số vấn đề đọc hiểu
văn bản Ngữ văn”, in trên Tạp chí Giáo dục số 56 (4.2003) đã đề cập đến vấn đề
đọc hiểu và những căn cứ cơ bản để xây dựng vấn đề đọc hiểu.
Nhìn chung mỗi tác giả lại có quan điểm khác nhau về đọc- hiểu song
đều tập trung vào tầm quan trọng của đọc- hiểu trong tiếp cận văn học tạo tiền
tiền đề cho giảng dạy Ngữ văn.

2.2. Vấn đề dạy văn chương theo đặc trưng thể loại.
Văn học ra đời với sự đa dạng về thể loại. Chính sự phân chia văn học
theo từng thể loại đòi hỏi một số nhà nghiên cứu về phương pháp dạy học đưa ra
những quan điểm về dạy văn chương theo đặc trưng thể loại:
Tác giả Trần Thanh Đạm trong cuốn “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn
học theo loại thể” (NXB GD- 1971) đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của thể
loại nghị luận và cách giảng dạy văn nghị luận. Tác giả chủ yếu chỉ ra những
yêu cầu cần đảm bảo trong tiết dạy văn nghị luận. Đó là đảm bảo yêu cầu giáo

tai lieu,dh su pham, luan van thac si5 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 6 of 90.


dục thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và phương pháp
duy vật biện chứng cho học sinh; đảm bảo yêu cầu phát triển năng lực tư duy
của học sinh; đảm bảo đặc điểm của "dạng nghị luận" thể hiện trong bài văn,...
Tác giả Đàm Gia Cẩn trong bài viết: “Giảng văn nghị luận theo đặc trưng
loại thể” đã đưa ra một số yêu cầu về nội dung bài giảng văn chính luận và chỉ
ra những điểm cần lưu ý khi giảng bài văn nghị luận văn học. Trước đó tác giả
cũng đã chỉ ra đặc trưng của thể loại này. Đó là: mỗi bài văn chính luận đều
mang tính thực tiễn, tính mục đích, tính chiến đấu rõ rệt; văn chính luận có sự
chặt chẽ, mạch lạc của lí lẽ và lập luận theo tư duy lôgic; ngôn ngữ văn chính
luận chính xác, trong sáng, cú pháp rõ ràng, chặt chẽ, có sức mạnh lôi cuốn, có
ngữ điệu hùng hồn.
Tác giả Trần Đình Trung trong cuốn: “Dạy văn bản Ngữ văn THCS theo
đặc trưng phương thức biểu đạt” đã biên soạn một chương riêng về dạy học văn
bản nghị luận. Ở đây, tác giả đã nêu lên những đặc trưng của phương thức nghị
luận và một số yêu cầu cụ thể của phương pháp dạy học văn bản nghị luận dân
gian, trung đại và hiện đại.

2.3 Những bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến hai tác phẩm: “Mấy
ý nghĩ về thơ” và “Một thời đại trong thi ca”.
Trong tạp chí Nghiên cứu văn học số 8.1960, tác giả Lê Anh Trà với bài
viết: “Nhân đọc Mấy vấn đề văn học và Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong
văn nghệ hiện nay của Nguyễn Đình Thi” đã có những luận bàn, đóng góp tích
cực- vừa đồng tình, hưởng ứng, vừa phê bình tìm ra hạn chế- đối với tiểu luận
“Mấy ý nghĩ về thơ”.
Tạp chí Tác phẩm mới số 34 tháng 1.1974, tác giả Lê Đình Kỵ với bài
viết: “Cây bút lí luận phê bình Nguyễn Đình Thi” cũng đã đề cập đến một vài

tai lieu,dh su pham, luan van thac si6 of 89.



luan van,khoa luan, thac si , su pham 7 of 90.

tiểu luận của Nguyễn Đình Thi và nhận xét: “Đứng vững trên lập trường nguyên
tắc, đưa sự sống, đưa tâm hồn, đưa suy nghĩ sáng tạo vào lí luận phê bình, đó là
ưu điểm nổi bật của Nguyễn Đình Thi. Ngòi bút phê bình và lí luận ở anh thật
nhẹ nhàng….Nguyễn Đình Thi nổi bật lên ở khả năng tư duy, ở sự hài hòa giữa
chính trị, triết học và văn nghệ, kết hợp những nhận xét sâu sắc, với thái độ cảm
thụ sắc bén và nét bút khi nghệ sĩ, khi chính luận”.
Theo GS. Trần Đình Sử: “Một thời đại trong thi ca là cuộc đối thoại với
các nhận định phổ biến một thời để tìm đến một cách hiểu thỏa đáng hơn so với
những nhận xét mang tính xã hội dung tục học mà người ta đánh giá về Thơ mới
(14). Cũng trong bài viết này, tác giả đã đưa ra một số kiến giải về “Một thời
đại trong thi ca”- phong trào Thơ mới, đó là việc phân chia hướng nghiên cứu
theo hướng nghiên cứu nội dung và nghiên cứu hình thức.
G.S Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn “Con đường đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn” đã viết: “Toàn bài là một công trình tổng kết khá thấu đáo về
phong trào Thơ mới trên những bình diện quan trọng nhất của nó. Ở phần cuối
cùng này tác giả tập trung giải quyết vấn đề cốt tủy nhất là “tinh thần thơ mới”,
và nhận định “Những phát biểu của Hoài Thanh có thể cung cấp cứ liệu để ta
khẳng định ông cũng là người chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh theo quan
niệm lãng mạn”...
Nhìn chung, các công trình của các tác giả trên dù chưa nhiều về số
lượng nhưng đã giải quyết được một phần rất có ý nghĩa về mặt phương pháp,
đã có được những định hướng chung nhất, cải thiện được tình hình khó khăn về
mặt phương pháp dạy học văn nghị luận cho giáo viên Văn. Nhằm tiếp tục phát
triển theo hướng mà các nhà nghiên cứu đã khẳng định, tác giả khóa luận sẽ tiến
hành tìm hiểu, nghiên cứu cụ thể vấn đề “Đọc hiểu văn chính luận theo đặc
trưng thể loại” và vận dụng vào hai văn bản “Mấy ý nghĩ về thơ” (SGK Ngữ

tai lieu,dh su pham, luan van thac si7 of 89.



luan van,khoa luan, thac si , su pham 8 of 90.

văn 12 tập 1- NXB GD) và “Một thời đại trong thi ca”(SGK Ngữ văn 11- tập
2- NXB GD).

3. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về lí thuyết tiếp nhận, lí thuyết đọc
hiểu, các đặc trưng của văn chính luận, tác giả khóa luận chỉ ra các đặc trưng cơ
bản, độc đáo của một loại nhỏ, đó là nghị luận văn học (phê bình văn học). Từ
đó đưa ra phương pháp đọc hiểu văn bản phù hợp theo đặc trưng thể loại đó.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Khóa luận tập trung giải quyết một số nhiệm vụ:
- Tìm hiểu về lí thuyết tiếp nhận.
- Tìm hiểu về lí thuyết đọc hiểu.
- Nghiên cứu đặc trưng thể loại văn chính luận.
- Vận dụng lí thuyết đọc hiểu theo đặc trưng văn chính luận.
- Thiết kế giáo án thực nghiệm.

5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng của khóa luận là hai văn bản:
- Mấy ý nghĩ về thơ (Nguyễn Đình Thi)- SGK Ngữ văn 12. Tập 1. NXB
GD- 2008.
- Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh)- SGK Ngữ văn 11. tập 2. NXB
GD- 2008.

tai lieu,dh su pham, luan van thac si8 of 89.



luan van,khoa luan, thac si , su pham 9 of 90.

5.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Khóa luận nghiên cứu trong phạm vi các đặc trưng chung của thể văn
chính luận.
- Khảo sát trên hai văn bản: + Mấy ý nghĩ về thơ.
+ Một thời đại trong thi ca.
6. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp khảo sát, tìm hiểu, phân loại.
- Phương pháp so sánh hệ thống.
- Phương pháp thực nghiệm.

7. Đóng góp của khóa luận.
Khóa luận đóng góp một phần nhỏ vào việc hình thành các thao tác, các
bước đọc- hiểu trong giảng dạy các tác phẩm văn chính luận ở trường phổ thông
qua một số văn bản cụ thể. Mặt khác, khóa luận cũng góp phần tích cực vào việc
đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường.

8. Cấu trúc khóa luận.
Khóa luận có cấu trúc ba phần:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung:
+ Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.
+ Chương 2: Đặc trưng văn chính luận với việc đọc hiểu văn chính
luận theo đặc trưng thể loại.
+ Chương 3: Giáo án thực nghiệm.


tai lieu,dh su pham, luan van thac si9 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 10 of 90.

- Phần kết luận.

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn học
Khái niệm “tiếp nhận văn học”
Khi xuất hiện nền văn học, xuất hiện tác phẩm văn học tức là xuất
hiện tiếp nhận văn học. Điều đó có nghĩa là tiếp nhận văn học ra đời từ rất sớm
và nó gắn liền với sự ra đời của nền văn học. Tuy nhiên, tiếp nhận văn học được
nhìn nhận như một lí thuyết để đi vào giải mã tác phẩm văn học thì mới thực sự
bắt đầu từ thế kỉ XIX và đặc biệt phát triển vào thế kỉ XX.
Vấn đề tiếp nhận văn học đã thu hút sự quam tâm của các nhà nghiên
cứu, các nhà biên soạn sách,…và đến nay vẫn đang tồn tại rất nhiều quan niệm
xung quanh vấn đề này.
Theo giáo trình Lí luận văn học ( ĐHSP Hà Nội ) do GS. Phương Lựu chủ
biên thì “Tiếp nhận văn học” là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác- giao tiếp
của văn học.

tai lieu,dh su pham, luan van thac si10 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 11 of 90.


Trong chuyên luận “Đọc và tiếp nhận văn chương”, GS. Nguyễn Thanh
Hùng quan niệm: “Tiếp nhận văn học là quá trình đem lại cho người đọc sự
hưởng thụ và hứng thú trí tuệ hướng vào hoạt động để củng cố và phát triển một
cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh thần và năng lực cảm xúc
của con người trước đời sống”
Cùng quan tâm tới vấn đề này, TS. Nguyễn Trọng Hoàn cũng đưa ra
quan niệm của mình: “Tiếp nhận văn học được xem như “thi pháp ứng dụng”,
từng bước chuyển chủ thể tiếp nhận và chủ thể văn học để người đọc trực tiếp
tham gia những tình huống văn học, tạo điều kiện để người đọc trực tiếp tham
gia cắt nghĩa, thử nghiệm, nếm trải, sẻ chia và tạo nên sự đồng cảm nghệ thuật;
đồng thời tiếp nhận cũng bộc lộ một số phương diện về thiên hướng, năng lực
thẩm mĩ và phẩm chất của mình.
Như vậy, các quan niệm tuy có nội hàm tương đối khác nhau song đều
đã thể hiện rõ bản chất của quá trình tiếp nhận văn học, đó là: “Tiếp nhận văn
học là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học,
bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng, nghệ thuật, tư tưởng, cảm
hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc:
cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo, bản
dịch, chuyển thể,...”(4).
Tuy nhiên, phần lớn các quan niệm còn mang tính chất trừu tượng, khó
hiểu. Nói một cách đơn giản hơn, tiếp nhận văn học là quá trình giao tiếp giữa
người đọc và tác giả thông qua tác phẩm. Nó đòi hỏi người đọc phải có sức lay
động về tâm hồn và huy động vốn tri thức trí tuệ để có thể hiểu và cảm được tất
cả nội dung tác phẩm theo đúng giá trị mà tác giả gửi vào tác phẩm.

1.1.2. Đặc trưng của quá trình tiếp nhận văn học.

tai lieu,dh su pham, luan van thac si11 of 89.



luan van,khoa luan, thac si , su pham 12 of 90.

“Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của quá trình tư duy, sáng tạo
của nhà văn. Nó thực hiện các chức năng của mình thông qua lớp ngôn từ mà
nhà văn đã sử dụng như một phương tiện giao tiếp. Mỗi tác phẩm văn học tồn
tại dưới dạng vật chất là một cấu trúc chỉnh thể, tuy nhiên nó mới chỉ mang tính
tiềm tàng khi độc giả chưa biến chúng thành hiện thực thông qua việc tiếp nhận
và cảm thụ của mình”[7]. Ngay cả khi tác giả viết cho mình thì chính “mình” ở
đây cũng là một bạn đọc. Do đó, chỉ khi có sự tiếp nhận thì quá trình sáng tạo ra
tác phẩm mới được hoàn tất và sự tồn tại của tác phẩm mới được công nhận.
Nếu sự sản sinh văn học là điểm xuất phát thì tiếp nhận của bạn đọc có
thể coi như điểm kết thúc của quá trình giao tiếp văn học. Theo C.Mac thì sự
tiếp nhận với cách hiểu là một lí thuyết đã diễn tả mối quan hệ giữa sản sinh và
tiêu dùng mà thực chất là sự tương hỗ giữa chúng. “Chỉ có sử dụng mới hoàn tất
hành động sản xuất, mang lại cho sản phẩm sự trọn vẹn với tư cách là sản
phẩm” (12).
Hoạt động tiếp nhận văn học chính là quá trình giải mã lớp ngôn từ bề
mặt của tác phẩm để tìm ra chiều sâu ý nghĩ, tư tưởng bên trong. Nghĩa là bạn
đọc phải đi ngược lại con đường mà nhà văn đã đi, bắt đầu từ cách đối chiếu từ
ngữ, cấu trúc ngữ pháp mà nhà văn- trong quá trình sáng tạo đã trải qua. Bằng
kinh nghiệm sống, kinh nghiệm thẩm mĩ và văn bản tiếp cận, bạn đọc lúc ấy
mới có thể tìm đến cái đích mà nhà văn đã đặt ra trong tác phẩm. Tác phẩm văn
học sau quá trình tiếp nhận của ban đọc sẽ thoát khỏi những câu chữ chết và dần
dần tái tạo lại linh hồn, đi vào lòng bạn đọc bởi những hình tượng sống động,
chân thực, mang đầy đủ các giá trị thẩm mĩ, giá trị nhận thức, giá trị biểu cảm
của nó.
Tiếp nhận văn học là một quá trình không đơn giản, bởi không phải mọi
sự sử dụng tác phẩm đều coi là tiếp nhận văn học. Văn học là sự kết tinh những


tai lieu,dh su pham, luan van thac si12 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 13 of 90.

kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm của con người trước một hiện tượng nhất định
trong cuộc sống, nó trở thành một thế giới tinh thần phong phú. Chỉ khi nào sử
dụng đến thế giới tinh thần đó mới được coi là tiếp nhận văn học trọn vẹn.
Quy luật của tiếp nhận tác phẩm văn học là phải cảm thụ tác phẩm trên
tính tổng thể, chỉnh thể. Nó đòi hỏi người đọc trước hết phải biết tri giác, cảm
thụ tác phẩm, phải hiểu ngôn ngữ, thể loại để tiếp cận ý đồ sáng tạo của tác giả.
Ở cấp độ tiếp theo, người đọc phải đưa hình tượng vào văn cảnh đời sống và
kinh nghiệm sống của minh để thể nghiệm, đồng cảm. Cuối cùng nâng cấp lí
giải tác phẩm lên cấp quan niệm và tính hệ thống, hiểu được vị trí tác phẩm
trong lịch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống và truyền thống nghệ thuật. Quá trình
tìm cách giải thoát ý nghĩa của các từ, chữ, câu của văn bản để tìm ra ý nghĩa
hình tượng, ý nghĩa tượng trưng của văn bản để tìm ra cách giải thích văn bản, ý
định chủ quan của tác giả chính là quá trình tiếp nhận tác phẩm.
Hoạt động tiếp nhận văn học mang tính chủ quan và khách quan. Trước
hết, tính khách quan biểu hiện ở chính đặc điểm chung của sáng tác văn học.
Nhìn một cách tổng quát tổng quát tác phẩm văn học là sản phẩm của quá trình
lao động sáng tạo của nhà văn, nó tồn tại độc lập với bạn đọc. Chính nó là một
chỉnh thể nhất định có nội hàm riêng cả về nội dung và hình thức. Người đọc khi
tiếp cận tác phẩm văn học là tiếp xúc với một khách thể mới lạ, chưa hề liên
quan tới bản thân mình. Chỉ khi nào đắm chìm vào tác phẩm, chiếm lĩnh cái
khách quan kia, người đọc mới đạt được mục đích tiếp cận của mình là tiếp
nhận tác phẩm.
Xuất phát từ tính khách quan của quá trình tiếp nhận văn học thì chính
quá trình này lại mang tính chủ quan rõ nét. Đến với một tác phẩm văn chương,
“người đọc sẽ tìm ra những tính chất thẩm mĩ quan trọng như tính chân thực và

chói sáng của ngôn ngữ nghệ thuật, sự thống nhất nội tại trong kết cấu, tính độc

tai lieu,dh su pham, luan van thac si13 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 14 of 90.

đáo của những phát hiện, chân lí của sự phản ánh, trọng lượng của những xung
đột, đặc trưng thi pháp thể loại, quan niệm nghệ thuật về con người của tác
giả”

(8)

. Tuy nhiên mức độ thấu hiểu được những giá trị đó tùy thuộc vào chủ

quan người tiếp nhận, tức là tùy thuộc vào trình độ nhận thức, tâm lí giới tính,
lứa tuổi và hứng thú của bạn đọc.
Hoạt động tiếp nhận chịu sự chi phối bởi các quy luật tiếp nhận chung.
Quá trình tiếp nhận văn học chính là quá trình làm sống lại tác phẩm văn
học. Trong quá trình này bạn đọc giữ vai trò chủ thể. Chính họ là những người
đi vào tác phẩm, phẩm bình, đánh giá, nhận xét các giá trị của tác phẩm. Quá
trình này thúc đẩy sự phát triển của lịch sử văn học, khẳng định sức sống của tác
phẩm trong nền văn học nói chung. Tuy nhiên, chẳng những người đọc tác động
đến tác phẩm mà tác phẩm cũng có sự tác động trở lại đối với bạn đọc. Trong
quá trình tiếp nhận, bạn đọc chịu sự chi phối bởi các quy luật tiếp nhận chung
là: Quy luật tâm lí, quy luật nhận thức, và quy luật giao tiếp.
Trước hết là quy luật tâm lí: đó là những đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi ảnh
hưởng đến việc tiếp nhận của độc giả như nhu cầu, thị hiếu, cảm xúc, sự chú ý,
hứng thú…, hoặc tính đột biến trong nhận thức…
Thứ hai là quy luật nhận thức: tác phẩm văn học được sáng tạo ra để bạn

đọc thưởng thức tiếp nhận. Tác phẩm văn học bằng mọi chi tiết của nó là một
thế giới riêng, một xã hội riêng, một nhân loại riêng với tính hệ thống và những
quy luật của nó. Vì vậy tiếp nhận văn học chính là sự nhận ra được những quy
luật ấy.
Thứ ba là quy luật giao tiếp: tác phẩm văn học là kết quả của sự lĩnh hội
hiện thực đặc thù. Nó hướng vào việc mở rộng đặc biệt sức mạnh lĩnh hội của
con người. Tác phẩm văn học không đứng ngoài thực tiễn xã hội, hơn nữa, nó
còn có tác dụng soi chiếu để người ta cải tạo, biến đổi xã hội ấy sao cho tốt đẹp

tai lieu,dh su pham, luan van thac si14 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 15 of 90.

hơn. Tác phẩm văn học vì thế là một chỉnh thể tri thức và là một phương tiện
giao tiếp ngôn ngữ nghệ thuật để phản ánh đời sống hiện thực.
PGS- TS Nguyễn Thị Thanh Hương trong cuốn “Phương pháp tiếp nhận
tác phẩm văn học” đã chỉ ra quy luật giao tiếp ngôn ngữ được thực hiện trên hai
cấp độ: Thứ nhất, nội hàm được hiểu đơn giản nhất là lớp ý nghĩa chứa đựng
trong lớp vỏ ngôn ngữ. Thứ hai, siêu ngôn ngữ là cấp trên nghĩa được tạo nên từ
cách dùng ngôn ngữ này để tạo thành một lớp nghĩa mới, vượt qua cấp độ ngôn
ngữ kí hiệu.
Bên cạnh đó, tác giả còn chỉ ra quy luật giao tiếp xã hội trên phương diện:
hiện thực khách quan → tác giả → bạn đọc → hiện thực khách quan. Qua trình
tiếp nhận tác phẩm văn học chính là bạn đọc đã thực hiện hành vi giao tiếp gián
tiếp với tác giả thông qua tác phẩm. Tác phẩm là sự kết tinh của những giá trị
đời sống theo quy luật của cái đẹp có được nhờ quá trình tái tạo đời sống của
nhà văn. Tiếp cận với một tác phẩm văn học, bạn đọc sẽ không chỉ dừng lại ở
việc nhận dạng câu chữ, hiểu lớp nghĩa thứ nhất của nó mà mục đích sâu xa hơn
là nắm được các phạm trù văn hóa- xã hội, lịch sử, chính trị, đạo đức, thẩm mĩ.

Chiều sâu của các phạm trù này không bao giờ vơi cạn trong mắt bạn đọc mà sẽ
ngày càng phong phú hơn từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Ngoài các quy luật nói trên, quá trình tiếp nhận còn chịu sự chi phối của
các điều kiện sống, điều kiện trị, văn hóa, tâm lí,…và các quy luật tiếp nhận đặc
thù như: tính không trọn vẹn trong giao tiếp, tính ngẫu hứng trong tiếp nhận,
tính lựa chọn, phản ứng trong tiếp nhận,…

1.1.3. Vai trò giữa tiếp nhận và bạn đọc
Hoạt động tiếp nhận và bạn đọc có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách
rời nhau. Vai trò của bạn đọc chính là chủ thể của hoạt động tiếp nhận. Một tác

tai lieu,dh su pham, luan van thac si15 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 16 of 90.

phẩm văn học được viết ra sau quá trình trau dồi hiểu biết, năng lực khái quát
vấn đề và cảm hứng sáng tác của nhà văn nhưng nó sẽ trở nên vô hiệu nếu
không có sự tiếp nhận của bạn đọc. Chỉ khi nào bạn đọc tiến hành hoạt động tiếp
nhận thì tác phẩm đó mới thực sự có sức sống trong nền văn học nghệ thuật.
Bạn đọc thực hiện và điều khiển hoạt động tiếp nhận của mình luôn đi đúng
hướng để đạt được mục đích đầu tiên là hiểu và cảm thụ được những giá trị tư
tưởng mà nhà văn gửi gắm trong đó. Ở hoạt động này, bạn đọc cần thiết phải
vào tầng cấu trúc của văn bản tác phẩm. Nhà lí luận E.V.Vônkôva từng nói:
“Văn học nghệ thuật là một chuyển hóa đặc thù của khách thể vào chủ thể, của
chủ thể vào khách thể được hình thành trong quá trình hành chức nghệ thuật và
tồn tại xã hội của nó”. Cũng theo quan niệm này bạn đọc điều khiển, tác động
đến quá trình tiếp nhận, mặt khác chính quá trình tiếp nhận sẽ làm nảy sinh
những sáng kiến, những phát hiện và cách hiểu mới về tác phẩm. Một tác phẩm
có giá trị lớn lao phải phản ánh được vấn đề mang tính thời sự, thu hút sự quan

tâm của nhiều người và là vấn đề của nhiều thế hệ. Kết thúc tác phẩm không
phải chỉ đơn giản là kết thúc cách hiểu của người đọc. Sự kết thúc một tác phẩm
chỉ là kết thúc trên phương diện kết cấu và bố cục, câu chữ mà tác giả sử dụng.
Quan trọng hơn, đằng sau sự kết thúc các phương diện đó thì tác phẩm phải để
lại tiếng vang rộng lớn, tác động mạnh mẽ đến bạn đọc khiến cho bạn đọc cảm
thấy nhức nhối tranh luận và đưa ra những giả định, kiến giải mới. Hay nói một
cách khác trong quá trình tiếp nhận văn học, bạn đọc đồng thời thực hiện sự
đồng sáng tạo với nhà văn.
Như vậy, mối quan hệ giữa tiếp nhận và bạn đọc là mối quan hệ hữu cơ,
qua lại với nhau. Vai trò của bạn đọc luôn là trung tâm của quá trình tiếp nhận.
Không có bạn đọc, tác phẩm văn học sẽ không thể tồn tại như một thực thể
trong nền văn học.

tai lieu,dh su pham, luan van thac si16 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 17 of 90.

1.1.4. Cơ chế của hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn học.
Tiếp nhận văn học là một quá trình. Để thực hiện quá trình này, bạn đọc
đã đi theo những trình tự nhất định của tư duy cảm thụ như: Đọc, phân tích, cắt
nghĩa, bình giá.
Hoạt động đọc: Bước này được coi như là sự khởi đầu của tiếp nhận văn
bản. Đây là hoạt động sáng tạo, mang tính trực cảm. Văn bản là một hệ thống
khách quan, là lớp vỏ ngôn ngôn từ được tổ chức theo một kiểu, loại nào đó tùy
thuộc vào chức năng nó phải thực hiện theo dụ ý nhà văn. Đối tượng của đọchiểu là văn bản. Mỗi loại van bản khác nhau sẽ có cách đọc khác nhau.
Hoạt động phân tích: Đây là hoạt động tách rời, tháo gỡ các yếu tố liên
quan đến nhau trong một tác phẩm văn học. Các yếu tố này vốn liên kết chặt chẽ
với nhau để tạo thành một chỉnh thể nhất định nào đó. Việc phân tách chúng
thành các bộ phận nhỏ hơn, giúp bạn đọc có thể hiểu cặn kẽ, hiểu sâu sắc các bộ

phận nội dung và hình thức hợp thành tác phẩm. Song không chỉ dừng lại ở việc
phân tích này, người đọc còn phải ghép hợp lại để có thể nhìn nhận một cách
phong phú, khái quát hơn về tác phẩm văn học. Tuy nhiên việc phân tích phải
lựa chọn ra những yếu tố bản sắc của tác phẩm, biết đi sâu vào cảm xúc mãnh
liệt, trung thực nhất trong thế giới nội tâm vượt qua sự đầy đủ vốn quen thuộc
và sáo mòn, kiếm tìm sự súc tích của ngôn ngữ nghệ thuật.
Hoạt động cắt nghĩa: Đây là hoạt động quan trọng trong cơ chế tiếp nhận
văn chương. Nó đem lại sự nhận thức chắc chắn, mang ý nghĩa cơ sở về tác
phẩm văn học, chỉ khi nào hiểu tác phẩm văn chương mới có thể tiến hành cắt
nghĩa được
Hoạt động bình giá: Hoạt động bình giá hoàn toàn mang tính chủ quan
của bạn đọc. Đó là sự đánh giá, bình phẩm về tác phẩm với những quan điểm, tư

tai lieu,dh su pham, luan van thac si17 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 18 of 90.

tưởng và tiêu chuẩn thẩm mĩ. Có thể xem đây là hoạt động cuối cùng, hoàn tất
cơ chế tiếp nhận, lĩnh hội tác phẩm văn học. Bình giá thể hiện thái độ đồng tình,
ca ngợi hay phản ứng, phê bình đối với tác phẩm. Xu hướng quan trọng của bình
giá là đi tìm cái mới về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm.
Như vậy, tiếp nhận văn học bao gồm một hệ thống các hoạt động có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trình tự của hệ thống này không thể đảo ngược, và chỉ khi
thực hiện đầy đủ các khâu này thì quá trình tiếp nhận mới diễn ra trọn vẹn.

1.1.5. Những khó khăn về khoảng cách khi tiếp nhận tác phẩm văn học.
Trước hết là khoảng cách ngôn ngữ: Khoảng cách ngôn ngữ là khoảng
cách giữa việc sử dụng ngôn ngữ và tiếp cận ngôn ngữ, giữa nhà văn và bạn
đọc. Như đã biết, tác phẩm văn học khi sáng tạo ra được lưu truyền theo không

gian và thời gian nhờ hệ thống ngôn ngữ vốn là phương tiện giao tiếp và phương
tiện tư duy. Khi tiếp nhận văn học, bạn đọc đã thực hiện một cuộc giao tiếp với
nhà văn. Đây là cuộc giao tiếp có hoàn cảnh gián tiếp trong một ngữ cảnh rộng.
Người viết và người đọc ít có cơ hội trao đổi trực tiếp. Nhiều trường hợp, người
đọc không thể hiểu được câu văn theo ý đồ sáng tạo sẵn từ trước, họ sẽ tự suy
diễn, hiểu theo ý nghĩ và sự hiểu biết, cảm nhận của bản thân mình. Đây là một
hiện tượng phổ biến đối với các tác phẩm văn học dịch. Ngôn ngữ nước ngoài
vốn đã phong phú và khó khăn đối với chúng ta khi tiếp nhận. Nhiều dịch giả
khi dịch các tác phẩm văn học nước ngoài, dù cố gắng huy động vốn ngoại ngữ
của mình nhưng không tránh khỏi việc dịch không sát nghĩa với nguyên tác. Sẽ
có hai xu hướng xảy ra: một là bản dịch kém chính xác và làm giảm đi cái hay,
cái đẹp của nguyên tác; hai là bản dịch đạt giá trị văn học nghệ thuật hơn so với
nguyên tác, có sức sống bền lâu hơn trong lòng độc giả. Như vậy khoảng cách
ngôn ngữ là một vấn đề lớn và khó có thể giải quyết tuyệt đối.

tai lieu,dh su pham, luan van thac si18 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 19 of 90.

Khoảng cách tâm lí: Tiếp cận văn học vốn mang tính chủ quan nên nó
nảy sinh và chịu ảnh hưởng sâu sắc của khoảng cách tâm lí. Khoảng cách tâm lí
chính là khả năng phát triển, thiên hướng, sở thích, cảm hứng và đời sống nội
tâm của người tiếp nhận, tác động tới tác phẩm, đồng thời có một phần sự tác
động nhất định của dư luận xã hội cũng như xu thế tâm lí thời đại. Văn học thiếu
nhi là sở thích của đại đa số lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng cho nên hầu hết những
người bước qua tuổi ấy, đặc biệt là người già sẽ không còn hứng thú để đọc
những tác phẩm này. Và nhất là hiện tượng văn học thời chiến rất được chú
trọng phát triển và đón tiếp nồng nhiệt trong những năm kháng chiến. Nhưng
trong thời đại ngày nay khi chiến tranh đã lùi xa dần về dĩ vãng, xu thế hội nhập,

hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia, giữa các liên minh khiến người ta
không còn nhiều hứng thú khi đọc lại các tác phẩm thời chiến tranh. Nhà văn
Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu ý kiến mở đầu cho thời kì văn học sau đổi
mới: “Chiến tranh đã lùi xa, chúng ta không nên ca mãi bài ca ấy”. Khoảng
cách tâm lí là khoảng cách khá quan trọng, bởi tâm lí thuộc về thế giới tâm hồn
vô cùng phong phú và khó hiểu.
Khoảng cách lịch sử: Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống hiện
thực. Cuộc sống con người phát triển theo từng giai đoạn, điều đó để lại đậm
nét trong tác phẩm. Hầu hết các tác phẩm viết về quá khứ và hiện tại, và phải
đến “tương lai” nó mới được người đọc tiếp nhận. Chính điều này đã, đang và
sẽ gây khó khăn cho học sinh nói riêng cũng như bạn đọc nói chung khi tất cả
sống trong hiện tại. Không chỉ có vậy, cái lịch sử được phản ánh với lịch sử ra
đời tác phẩm nhiều khi cũng không thống nhất với nhau, giữa chúng cũng có
những khoảng cách nhất định.
Khoảng cách lịch sử là một vấn đề khó khăn trong việc tiếp nhận văn
chương, đặc biệt là đối với hoạt động dạy học trong nhà trường phổ thông, đòi
hỏi người giáo viên phải có đầy đủ năng lực và trình độ tổ chức quá trình nhận

tai lieu,dh su pham, luan van thac si19 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 20 of 90.

thức cho học sinh. Làm được điều này nghĩa là đã rút ngắn được khoảng cách
lịch sử trong tiếp nhận văn học.

1.1.6. Thể loại văn học với vấn đề tiếp nhận văn học.
* Vấn đề thể loại văn học:
Khái niệm thể loại:
Thể loại là một khái niệm thuộc chuyên ngành lí luận văn học. Theo Từ

điển thuật ngữ văn học, “Thể loại là dạng thức của tác phẩm được hình thành
và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển của lịch sử văn học, thể
hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại
hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn
đối với các hiện tượng đời sống.”
Thực chất thể loại là sự tổng hợp của hai khái niệm: loại và thể. Về quan
hệ, khái niệm loại bao gồm khái niệm thể. Còn về số lượng, loại có số lượng
hữu hạn, ít biến đổi, thể có số lượng phong phú hơn.
Thể loại là sự phối hợp giữa nội dung và hình thức để hình thành nên
chỉnh thể tác phẩm văn học. Tên gọi thể loại, bản thân nó đã chứa đựng chức
năng phân loại văn học.
Phân loại thể loại văn học:
Có rất nhiều cách để phân chia các thể loại văn học:
Theo tiêu chí nội dung và hình thức, có ba loại:
+ Tự sự.
+ Trữ tình.
+ Kịch.
Theo tiêu chí phong cách ngôn ngữ, có sáu loại:

tai lieu,dh su pham, luan van thac si20 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 21 of 90.

+ Văn chính luận.
+ Văn nghệ thuật.
+ Văn hành chính công vụ.
+ Văn sinh hoạt.
+ Văn báo chí.


* Thể loại với vấn đề tiếp nhận:
Trên thực tế những vấn đề của tiếp nhận sẽ được đưa ra xem xét để xây
dựng phương pháp dạy học sao cho phù hợp, khoa học. Thế loại văn học là một
phạm trù của lí luận văn học, một lĩnh vực cơ bản của văn học. Giữa thể loại và
tiếp nhận có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mỗi thể loại văn học mang một nội
hàm về nội dung và hình thức đặc thù, nó quy định cách thức giao tiếp của bạn
đọc với tác giả thông qua tác phẩm. Khi nắm được những vấn đề lí thuyết của
thể loại văn học sẽ giúp cho quá trình tiếp nhận có cơ sở khoa học. Đây sẽ là
con đường để cảm nhận tác phẩm một cách lí tính, đầy hiệu quả. Thể loại là
phương thức nhà văn sáng tạo ra tác phẩm. Quá trình tiếp nhận không chỉ là
việc muốn biết tác phẩm được làm ra bằng cách nào.
Lựa chọn con đường tiếp nhận tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể
loại chính là việc người giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu và cắt nghĩa các
khía cạnh của tác phẩm theo đặc trưng thể loại mà tác phẩm phụ thuộc nhằm
giúp các em hiểu sâu, hiểu xa những giá trị bên trong tác phẩm.

1.2. Vấn đề đọc hiểu tác phẩm văn chương.
1.1.2 1.1.2. Khái niệm đọc hiểu.
Đọc- hiểu là một quá trình lao động sáng tạo mang tính thẩm mĩ nhằm
phát hiện ra những giá trị tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc trưng văn bản.

tai lieu,dh su pham, luan van thac si21 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 22 of 90.

Khái niệm đọc hiểu mang tính khái quát, nó bao gồm hai khái niệm nhỏ
hơn, đó là khái niệm “đọc” và “hiểu”.
Theo Từ điển tiếng Việt (2005):
Đọc là tiếp nhận nội dung của một tâp kí hiệu bằng cách nhìn vào các kí

hiệu. Theo cách định nghĩa này, đọc là một hoạt động thị giác của con người,
yêu cầu khả năng thị lực và trình độ biết chữ nhất định của người đọc.
Hiểu là nhận ra ý nghĩa, bản chất, lí lẽ của cái gì bằng sự vận dụng trí tuệ.
Thực chất của hoạt động này là người đọc phải huy động khả năng suy lí của
mình để đi sâu, cắt nghĩa vấn đề. Chỉ khi nào người đọc nắm bắt được đặc
trưng bản chất và các quy luật của nó thì mới đạt đến sự “hiểu” vấn đề.
Đọc một tác phẩm văn học không chỉ là hành động nhận thức nội dung ý
tưởng từ văn bản của tác phẩm mà còn là hành động trực quan sinh động giàu
cảm xúc, có tính trực giác và khái quát trong sự nếm trải của con người. Đọc là
một hành động mang tính chất tâm lí, một hoạt động tinh thần của độc giả, bộc
lộ rõ nét nhất năng lực văn hóa của từng người. Đọc tác phẩm văn học thực chất
là giải quyết vấn đề tương quan của ba tầng cấu trúc tồn tại trong tác phẩm văn
học: tầng cấu trúc ngôn ngữ, tầng cấu trúc thẩm mĩ, tầng cấu trúc hình tượng.
Hiểu theo cách đó, đọc văn chương chính là bóc dần từng lớp ý nghĩ tác phẩm
để đi tìm những giá trị, những chân lí sáng ngời bên trong tác phẩm.
Hoạt động dạy học văn trong nhà trường phổ thông xưa và nay đều bắt
đầu từ việc đọc văn bản tác phẩm. Chỉ có hoạt động đọc mới có thể đi vào thế
giới tác phẩm. Việc đọc chính là hoạt động mở khóa đầu tiên để mở cánh cửa
tác phẩm cho dù tác phẩm được đóng kín bằng một cấu trúc chặt chẽ. Đọc tác
phẩm văn học vốn là một hoạt động nhận thức đặc thù về văn học, một hoạt
động tinh thần cao cấp, một hoạt động sáng tạo. Hay nói cách khác, đọc tác
phẩm là sự giao tiếp giữa nhà văn và bạn đọc thông qua tác phẩm. Đó là cuộc

tai lieu,dh su pham, luan van thac si22 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 23 of 90.

giao tiếp thẩm mĩ với một hình thức thầm lặng. Trong cuộc giao tiếp này, bạn
đọc là người đồng sáng tạo với nhà văn.

Từ đọc đến hiểu là một quá trình phát triển của nhận thức. Trước tiên phải
hiểu ngôn từ, sau đó đến hình tượng và ý nghĩa thẩm mĩ của nó. Theo đó, bản
chất của quá trình đọc hiểu văn bản là một quá trình lao động sáng tạo mang
tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những giá trị tiềm tàng của tác phẩm trên cơ sở
phân tích đặc trưng văn bản.
Đọc hiểu không chỉ đơn thuần là đọc chữ. Với các cấp độ: đọc thông, đọc
thuộc, đọc kĩ đọc sâu, đọc hiểu đọc sáng tạo, đọc đánh giá và ứng dụng thì đây
là một hoạt động nhận thức đặ thù của việc học văn và bộc lộ kết quả của chính
sự nhận thức đó. Ở nhà trường phổ thông, đọc hiểu là một hoạt động duy nhất
để học sinh tiếp xúc trực tiếp với các giá trị văn hóa, văn học.
Dưới góc độ phương pháp, đọc hiểu là một hoạt động phân tích, tổng hợp
được truyền đạt thông qua nội dung ý thức trong từ và câu, để diễn tả những mối
quan hệ khác nhau,những ý nghĩa được cung cấp, sắp xếp trong kí hiệu ngôn từ.
Điều đó có nghĩa đọc hiểu là sự hiểu biết ngôn ngữ, như sự phân tích ý nghĩa
sâu xa trong văn bản mà người đọc phải tái tạo lại. “Một trong ba mục tiêu của
dạy học văn là rèn luyện khả năng đọc hiểu văn bản, tạo cho học sinh biết cách
đọc văn một cách có văn hóa, có phương pháp”.
Như vậy, đọc hiểu văn là một quá trình thử thách, là cuộc đi tìm ý nghĩa
nhân sinh cho văn bản văn học. Đây là một cách thức để người học vươn tới
những chân trời rộng lớn. Đọc hiểu là một họat động có tính chất đầu mối của
việc dạy tích hợp Ngữ văn hướng tới sự phát triển đồng bộ của học sinh trong
mhà trường phổ thông.

1.2.2. Chức năng, vai trò của đọc hiểu tác phẩm văn học.

tai lieu,dh su pham, luan van thac si23 of 89.


luan van,khoa luan, thac si , su pham 24 of 90.


Trước hết, đọc hiểu là con đường đi vào tác phẩm, nó là một phương tiện
hữu hiệu để nghiên cứu tác phẩm văn học. Bằng hoạt động đọc hiểu, bạn đọc sẽ
tìm thấy những vấn đề của cuộc sống mà tác phẩm đề cập tới, có thể là những
mẫu người, những cách suy nghĩ, những cách nhìn nhận, đánh giá và giải thích
vấn đề trong tác phẩm. Thông qua tác phẩm, bạn đọc sẽ được biến đổi từ hành
động bị động trở thành hành động chủ động tích cực ngày càng được mở rộng
về ý thức, từ đó có thể hoàn thiện và phát triển nhân cách bản thân mình. Quá
trình đó cho thấy đọc hiểu giúp người đọc tự giác và có hứng thú thực sự để đi
vào tác phẩm. Hay nói cách khác, đọc hiểu là một cách tự học có hiệu quả.
Đọc hiểu- một phương tiện để phát triển tính tích cực, sáng tạo và phát
triển năng lực văn cho học sinh. Thông qua đọc hiểu, học sinh sẽ đóng vai trò
tích cực với ý thức khám phá ý nghĩa của tác phẩm. Từ đó học sinh sẽ như nhìn
thấy phần chìm lắng đằng sau câu chữ trong tác phẩm.
Đọc hiểu văn bản văn chương là một công việc đòi hỏi tính tích cực, sáng
tạo. Điều đó có nghĩa là bạn đọc lựa chọn và đưa ra những lí giải cho sự lựa
chọn đó. Từ sự lựa chọn sẽ dẫn đến vấn đề: phải đọc hiểu như thế nào cho hợp
lí. Hoạt động đọc hiểu đòi hỏi vận dụng một năng lực tổng hợp của con người,
đó là dùng mắt để xem, dùng tai để nghe, dùng trí óc để suy nghĩ, phán đoán,
thậm chí là dùng miệng để “ngâm nga”. Đọc hiểu yêu cầu con người cần phải
huy động tất cả hiểu biết và tình cảm để có thể cảm nhận tác phẩm. Nói như
viện sĩ Serbina: “Con đường cảm thụ thụ động không thể đưa đến việc giáo
dục- nhu cầu sâu sắc của học sinh đối với cái đẹp. Để làm được điều đó, cần
làm cho quá trình nhận thức văn học trong nhà trường gắn liền với hoạt động
sáng tạo tích cực của chính học sinh”. Đó cũng là định hướng mang tính chất cơ
sở lí thuyết trong công tác đổi mới phương pháp dạy học Văn ở trường phổ
thông.
Đọc là một hoạt động dạy học có tính phổ quát, nó nằm trong mục tiêu

tai lieu,dh su pham, luan van thac si24 of 89.



luan van,khoa luan, thac si , su pham 25 of 90.

giáo dục đào tạo nói chung nghĩa là nó được xem như một phương tiện giáo dục
đạo đức, giáo dục thẩm mĩ cho người đọc, người học. Nó thống nhất trong bản
thân phương thức một tình yêu văn học, tình yêu ngôn ngữ sinh động, giàu sức
thuyết phục. Học sinh trong quá trình đọc sẽ nhận thức đầy đủ hơn, cảm thụ
giàu cảm xúc hơn nội dung của tác phẩm. Mặt khác còn nắm bắt được chức
năng nghệ thuật của các từ ngữ và các thủ pháp nghệ thuật tạo nên ý nghĩa tác
phẩm. Sở dĩ có được như vậy bởi qua mỗi một tác phẩm văn chương, bao giờ
nhà văn cũng gửi gắm một bài học đạo đức, bài học thẩm mĩ, để từ đó bạn đọc
tích lũy được cho mình cách nhìn đời, nhìn người và kiểm nghiệm lại chính
mình. Việc giáo dục thẩm mĩ, đạo đức bao giờ cũng gắn liền với việc học tập và
phát triển văn học nói chung. Việc tiếp nhận đúng đắn, chính xác các hiện tượng
đời sống được phản ánh trong tác phẩm văn học sẽ tạo nên những tiền đề cần
thiết để đánh giá tương tự các hiện tượng của hiện thực khách quan. Hay nói
cách khác, đọc hiểu tác động đến lương tâm người học, đến toàn diện nhân cách
của học sinh.
Với chức năng và vai trò quan trọng như vậy, đọc hiểu đã trở thành một
phương pháp dạy học văn tích cực trong nhà trường phổ thông.

1.3. Cơ sở tâm lí và lí luận dạy học hiện đại.
1.3.1. Cơ sở tâm lí:
Đối tượng của hoạt động dạy học chính là các em học sinh từ 6- 18 tuổi
được phân chia theo các cấp học và học các chương trình phù hợp với tâm sinh
lí lứa tuổi sao cho việc dạy học có thể đạt hiệu quả cao nhất. Giáo trình Tâm lí
học lứa tuổi và sư phạm đã chỉ rõ ở cấp học THPT, đối tượng học sinh là ở tuổi
từ 15- 18. Ở lứa tuổi này, những điều kiện về mặt trí tuệ và xã hội để xây dựng
một hệ thống, một quan điểm riêng đã được hình thành.


tai lieu,dh su pham, luan van thac si25 of 89.


×