Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tình cảm gia đình trong những năm tháng chiến tranh qua đoạn trích chiếc lược ngà của nguyễn quang sáng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (36.8 KB, 7 trang )

Tình cảm gia đình trong những năm tháng chiến tranh qua đoạn trích Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang
Sáng.

I. Mở bài:
Trong đời sống tinh thần của con người, gia đình và tình cảm gia đình là những điều
thiêng liêng nhất. Trong những tháng năm chiến tranh khốc liệt, trong những cuộc chia li
đầy nước mắt, thì tình cảm thiêng liêng ấy lại như được nhân lên gấp bội. Chiến tranh đã
làm cho bao gia đình Việt Nam phải lí tán khiến mẹ mất con, vợ mất chồng, con sinh ra
không được biết mặt cha. Những tình cảm đó và đặc biệt là tình phụ tử thiêng liêng sâu
nặng đã được thể hiện một cách cảm động trong truyện “Chiếc lược ngà” của nhà văn
Nguyễn Quang Sáng
II. Thân bài:
1. Khái quát:
- Câu chuyện kể về cha con ông Sáu và bé Thu sau hơn tám năm xa cách mới có dịp gặp
lại nhau, nhưng Thu đã không nhận ra cha mình chỉ vì một vết thẹo dài trên má, thay vào
đó là sự vô cảm, thờ ơ như căm ghét ông. Đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm
thiết thì ông Sáu phải lên đường trở về khu căn cứ. Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình
yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con.Nhưng ông đã
hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con.
- Đọc qua truyện ngắn này, ta mới thấy được tình cảm gia đình, cụ thể là tình cảm cha
con thiêng liêng và cao đẹp biết nhường nào. Trong hoàn cảnh khó khăn nhất đó là chiến
tranh, tình cảm ấy vẫn không biến mất mà vẫn còn ẩn chứa trong mỗi con người. Ta cũng
thấy được vẻ đẹp của các thế hệ con người Việt Nam trong thử thách, thương đau.
2. Tình cảm ông Sáu dành cho con:
- Ông Sáu cũng như bao người nông dân Việt Nam khác, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng
của Tổ quốc, ông đành bỏ lại sau lưng những gì thân thương nhất: ruộng nương, nhà cửa,


vợ con. Xa nhà suốt tám năm, từng nỗi nhớ lại càng lớn thêm và ngày càng chồng chất:

Anh đi anh nhớ quê nhà


Nhớ anh rau muống nhớ cà dầm tương.

Nhớ quê, nhớ nhà, nhớ tình làng nghĩa xóm, và ông nhớ da diết đứa con gái của mình.
Được về thăm nhà sau bao năm ở chiến khu, khao khát đốt lòng ông Sáu là được gặp con,
được nghe con gọi tiếng ba, được sống trong tình cha con mà bấy lâu nay ông chưa được
sống. Vì thế, về gần tới nhà, thoáng thấy bóng con,không chờ xuồng cập bến, ông nhón
chân nhảy thót lên xô chiếc xuồng tạt ra.Ông bước vội vàng những bước dài. Cái tiếng
gọi ông phải kìm nén bao lâu nay bỗng bật ra thật cảm động, làm người đọc thấy nghẹn
ngào:
- Thu!Con.
Ngược lại với điều ông mong muốn, đứa con gái ngơ ngác, hốt hoảng rồi vụt chạy và kêu
thét lên khiến người cha đau khổ, hai tay buông thõng như bị gãy. Rồi suốt ba ngày nghỉ
phép , ông không dám đi đâu xa, chỉ quanh quẩn gần con. Song, ông càng xích lại gần nó
càng lùi xa; ông càng khao khát được nghe tiếng “ba” từ lòng con, nó càng không gọi...
Bị con cự tuyệt, ông Sáu đau khổ không khóc được phải cười.
- Trước giờ phút lên đường chia tay con, ông muốn ôm con, nhưng lại sợ con không nhận
đành chỉ nhìn. Song chính trong lúc này, tình cảm dành cho người cha ở bé Thu òa ra
mãnh liệt. Nó cất tiếng gọi “ba”, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con
thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái
tóc của con”. Người chiến sĩ ấy nước mắt đã khô cạn nơi chiến trường,giờ đây là những
giọt nước mắt hiếm hoi – nước mắt của niềm hạnh phúc và tình cha con. Thương con,
chia tay con, ông Sáu hứa sẽ mua cho con cây lược.


- Tình cảm của ông Sáu đối với con còn được nhà văn thể hiện rất cảm động khi ông ở
khu căn cứ. Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc ông đã đánh con khi
nóng giận. Rồi lời dặn của con: “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba”đã thôi
thúc ông nghĩ đến việc làm cho con một cây lược bằng ngà. Làm cây lược trở thành bổn
phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con. Kiếm được khúc
ngà voi, ông Sáu hớn hở như một đứa trẻ được quà và ông dành hết tâm trí, công sức vào

việc làm ra cây lược. Hãy nghe đồng đội của ông kể lại: “Những lúc rỗi, anh cưa từng
chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Phải chăng, bao nhiêu
tình yêu thương con ông dồn vào việc làm cây lược ấy? Rồi ông gò lưng tỉ mẩn, khắc
từng nét chữ lên sống lưng lược: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.Cây lược ấy, dòng chữ
ấy là tình yêu, là nỗi nhớ thương, sự ân hận của ông đối với đứa con gái. Những lúc rỗi
cũng như đêm đêm nhớ con ông thường lấy cây lược ra ngắm ngía, rồi mài lên tóc cho
cây lược thêm bóng, thêm mượt. Làm như vậy, có lẽ ông không muốn con ông bị đau khi
chải lược lên tóc. Yêu con, ông Sáu yêu từng sợi tóc của con. Người đọc cảm động trước
tấm lòng của người cha ấy. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân –
nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời – chiếc lược ngà. Cho nên,cây
lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc, sâu xa mà đơn sơ, giản dị.
- Làm được lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc con.
Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn
của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực. “Trong giờ phút cuối cùng,
không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết
được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây
lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng
hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của
tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội


của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.

3. Tình cảm bé Thu dành cho cha:
- Tình yêu của bé Thu đối với cha được thể hiện thật đặc biệt. Gặp lại con sau nhiều năm
xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút
đầu nhìn thấy con. Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra
ngờ vực, lảng tránh và ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt,
xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà
người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động.

+ Thoạt đầu, khi thấy ông Sáu vui mừng vồ vập nhận bé Thu là con, Thu tỏ ra lảng tránh
và lạnh nhạt, xa cách. Người đọc tự đặt ra cho mình câu hỏi: Tại sao bé Thu không nhận
ra ông Sáu, không nhận ra cha mình?Suốt mấy ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu hoàn toà n
lạnh lùng trước tình cảm vồ vập của người cha. Ông Sáu càng xích lại gần, bé Thu càng
lùi xa. Ông Sáu càng yêu thương, bé Thu càng lảng tránh. Bé Thu nhìn cha với cặp mắt
xa lạ và cảnh giác, dứt khoát không chịu kêu tiếng “ba” mà chỉ nói trổng. Đó phải chăng
là sự ngây thơ của một đứa bé đầy cá tính?
+ Ở bé Thu còn là tính gan lì khi mà mọi người thân đã hết lòng khuyên nhủ, tạo tình thế
để bé nhận cha, nhưng đều thất bại. Khi mẹ vắng nhà mà nồi cơm trên bếp đang sôi, bé
Thu không thể nhấc nổi nồi cơm to như thế mà chắt nước được. Cái tình thế ấy làm người
đọc tưởng chừng bé Thu phải chịu thua, không thể chiến tranh lạnh được nữa. Vậy mà
thật ngoài sức tưởng tượng, Thu vẫn không cất lên cái tiếng mà ba nó mong “Nó loay
hoay rồi nhón gót lấy cái vá múc ra từng vá nước,miệng lẩm bẩm điều gì không rõ”. Bé
Thu làm tác giả phải thốt lên: “Con bé đáo để thật”. Sự bướng bỉnh, ngang ngạnh ấy còn
được thể hiện khi Thu hất cái trứng cá mà ba nó gắp cho ra khỏi chén cơm. Đây là một
tình huống mang tính kịch tính cao. Ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ


lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy
nghĩ , ông vung tay đánh vào mông nó. Bị ông Sáu đánh, Thu không khóc, gắp lại trứng
cá rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng.
+ Những thái độ ấy làm người cha, người bạn của cha và cả người đọc đau lòng. Còn gì
đau lòng hơn bằng người cha giàu lòng yêu thương con lại bị chính đứa con ấy kiên quyết
chối bỏ. Nhưng sự ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa
cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le,
khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận
những khả năng bất thường.Chính thái độ ngang ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện
sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự
nhận là ba kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh
không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực.Không ai

tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm
cho người cha duy nhất trong bức ảnh. Sự bướng bỉnh của Thu phải chăng còn là mầm
sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên kiến định có
lập trường.
- Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo
dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như
người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mạnh liệt vào cái giây phút bất ngờ
nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ
vang lên “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó,
đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: - Ba...a...a...ba! Tiếng kêu của nó như
tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng ba nó cố

đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó, nó vừa kêu, vừa chạy xô tới,


nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó... Nó vừa
ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:-Ba!Không cho ba đi nữa!Ba ở nhà với
con!” Tình cảm của đứa con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống
quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡi
òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc,hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết
thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không
thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha
con ở đây. Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo
của đứa con càng khắc nhấn sự éo le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt
lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt
lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba
nó. Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Đó là kết thúc
cho một cuộc gặp gỡ cảm động và thật thiêng liêng.
- Qua cuộc gặp gỡ ấy, ta thấy Nguyễn Quang Sáng tuy không đề cập đến chiến tranh
nhưng chiến tranh vẫn luôn hiện lên qua vết thẹo của ông Sáu. Kết quả của tám năm đi

lính xa nhà của ông Sáu cũng là nguyên nhân khiến bé Thu không nhận ra cha mình. Giá
như không có vết thẹo ấy thì bé Thu đã được hưởng ba ngày tuyệt vời trong tình yêu
thương của cha mình. Nhưng nếu không có vết thẹo ấy, tình cảm gia đình cũng không
được thử thách và bộc lộ lên được, tình cảm cha con vì thế đã trở nên thiêng liêng cao
đẹp hơn trong tình cảnh chiến tranh.
4. Đánh giá về nghệ thuật:
Nguyễn Quang Sáng đã thực sự thành công trong việc xây dựng cốt truyện chặt chẽ, lựa
chọn tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí,miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và
sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu. Có thể nói rằng, với một tâm hồn nhạy cảm, một
trái tim nhân hậu, một tấm lòng chan chứa yêu thương, nhất là đối với trẻ em, Nguyễn


Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến tận cùng những biểu hiện tình cảm của nhân vật
để miêu tả một cách sinh động và tinh tế. Ngoài ra, tác giả cũng rất thành công trong việc
lựa chọn ngôi kể và ngôn ngữ lời thoại mang đậm chất địa phương Nam Bộ,... đem đến
cho người đọc nhiều xúc động. Tất cả đã góp phần tạo nên sức thuyết phục,hấp dẫn cho
chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
III. Kết bài:
“Chiếc lược ngà” là một câu chuyện cảm động và rất chân thực của Nguyễn Quang Sáng.
Câu chuyện về nhân dân yêu nước và anh dũng. Câu chuyện về tình cha con bất tử. Bằng
một sự cảm nhận chân thực về tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong
chiến tranh, ông đã gợi lên niềm tự hào về phẩm giá con người, nét đẹp về tình cảm, về
tâm hồn của con người Việt Nam trong thương đau. Thật vậy, trên mảnh đất này, ở mỗi
gia đình, mỗi thế hệ, mỗi con người những năm tháng đã qua cũng có rất nhiều tình cảm
cao đẹp thiết tha khác mà ta cần phải trân trọng, giữ gìn và vun đắp.



×