Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN Vận dụng kiến thức hoá học để giải thích các hiện tượng trong tự nhiên và cuộc sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608 KB, 26 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn hoá học trong trường phổ thông là một môn học khó, nếu giáo viên
không có những bài giảng và phương pháp phù hợp, dễ làm cho học sinh thụ
động trong việc tiếp thu kiến thức. Đã có hiện tượng một bộ phận học sinh
không muốn học hoá học, ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá
học.
Trong khi đó, nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến đối tượng
giáo dục. Hiện tượng dùng đồng loạt một cách dạy, một bài giảng cho nhiều
lớp, nhiều thế hệ học trò là không ít. Với phương pháp giảng dạy này, giáo
viên đã trở thành người truyền thụ tri thức một chiều còn học sinh học một
cách thụ động.
Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả trong giảng dạy, tôi đã mạnh dạn cải
tiến nội dung, phương pháp trong các bài giảng hóa học THPT. Một trong
những phương pháp tôi đã làm đó là "Vận dụng kiến thức hoá học để giải
thích các hiện tượng trong tự nhiên và cuộc sống" .
Có những vấn đề hóa học có thể giúp học sinh giải thích các hiện tượng
trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý
khoa học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế hệ trước để lại. Những kiến
thức đó có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày mà không gây
nhàm chán cho học sinh, lại có tác dụng kích thích tư duy, tính chủ động, sáng
tạo và hứng thú học tập của học sinh. Bên cạnh đó, có một số kiến thức mà
học sinh không dễ học thuộc, rất dễ nhầm lẫn thì tôi hướng dẫn cho các em
cách nhớ bằng những câu đọc vui làm cho bộ môn hóa học không khô khan,
bớt đi tính đặc thù và phức tạp.

Trường THPT Pleime



Trang 1


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề tài này là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn
chỉnh hơn về những kiến thức hóa học, về các hiện tượng tự nhiên thông qua
các bài học, giờ thực hành của chương trình phổ thông. Đồng thời là cơ sở
phát huy tính sáng tạo của học sinh, cũng như khả năng ứng dụng kiến thức
vào thực tiễn để phục vụ đời sống hằng ngày; góp phần giải tỏa, xoá bỏ những
hiểu biết sai lệch làm hại đến đời sống, tinh thần của con người. Đề tài còn có
thể làm tài liệu cho các đồng nghiệp tham khảo thêm trong quá trình giảng
dạy.
Trong phạm vi đề tài này, tôi không tham vọng giải quyết mọi vấn đề
thực tiễn trong môn hóa học ở trường THPT mà chỉ đưa ra một số ví dụ minh
họa cụ thể, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn hóa học,
kích thích tư duy và hứng thú học tập của học sinh, để hoá học không còn
mang tính đặc thù khó hiểu như một "thuật ngữ khoa học".
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài này nghiên cứu một số vấn đề, một số hiện tượng thường gặp
trong thực tế cuộc sống mà có liên quan đến môn hóa học. Được áp dụng cho
đối tượng học sinh tại các lớp tôi trực tiếp giảng dạy năm học 2012 – 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Dựa trên mục tiêu, đối tượng và phạm vi áp dụng của đề tài, tôi đã dùng
các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp điều tra: Điều tra việc giảng dạy - học tập ở một số tiết dạy

môn Hóa học.
- Phương pháp đối chứng: So sánh kết quả trước và sau khi dạy học, kết quả
giữa lớp đối chứng và lớp thực nghiệm.

Trường THPT Pleime

Trang 2


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sưu tầm và nghiên cứu các tài liệu có liên
quan.
- Phương pháp kiểm tra: Đưa một số bài tập yêu cầu học sinh làm để lấy kết
quả.
5. Điểm mới trong đề tài nghiên cứu.
Trong đề tài nghiên cứu này, điểm nổi bật đó là học sinh được tiếp cận
những hiện tượng thực tế trong tự nhiên và trong cuộc sống, phù hợp với nội
dung bài học và trình độ hiểu biết của các em. Học sinh sẽ luôn băn khoăn,
trăn trở giữa cái đã biết và cái chưa biết. Chính điều đó sẽ thúc đẩy các em
muốn tìm hiểu vấn đề để giải thích các hiện tượng này. Học sinh sẽ hiểu được
vấn đề một cách bản chất và sâu sắc hơn, dần dần nâng cao lòng yêu thích đối
với bộ môn hóa học.

Trường THPT Pleime

Trang 3



Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

PHẦN II. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Đảng và nhà nước ta đã khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu,
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Điều đó đã được thể hiện trong
các Nghị quyết của Trung ương.
Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII đã chỉ rõ phải “Đổi mới phương pháp
dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. Kết hợp học với hành, học tập với lao
động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã
hội. Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học
sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.
Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI tiếp tục khẳng định: “Phải đổi mới
toàn diện giáo dục và đào tạo, coi học sinh là trung tâm của quá trình lĩnh hội
kiến thức, thầy chỉ đóng vai trò định hướng cho quá trình lĩnh hội đó”.
Trong luật Giáo dục ban hành năm 2005 có quy định:
- “Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.”
- “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng đặc điểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”(Theo mục 2 điều 28).
Như vậy, giáo dục phổ thông không phải là truyền thụ kiến thức đơn
thuần mà chú trọng hơn tới:


Trường THPT Pleime

Trang 4


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

- Bồi dưỡng năng lực tự học, học suốt đời, học để nâng cao trình độ
chuyên môn, học để chuyển đổi nghề nghiệp….
- Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề
nảy sinh trong đời sống, lao động và sản xuất.
- Khích lệ học sinh phát huy tính chủ động trong việc chiếm lĩnh tri
thức, phát huy tính sáng tạo trong việc vận dụng kiến thức để giải quyết tình
huống có vấn đề nảy sinh trong học tập và trong thực tiễn.
Môn hoá học trong trường phổ thông cung cấp cho học sinh hệ thống
kiến thức, kĩ năng cơ bản, hiện đại, thiết thực và gắn liền với đời sống. Nội
dung chủ yếu bao gồm cấu tạo chất, sự biến đổi của các chất, những ứng dụng
và tác hại của các chất trong đời sống, sản xuất và môi trường. Những nội
dung này góp phần giúp học sinh có kiến thức phổ thông tương đối toàn diện
để có thể tiếp tục học lên, đồng thời có thể giải quyết một số vấn đề có liên
quan đến hoá học trong đời sống và sản xuất. Mặt khác, góp phần phát triển tư
duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh
2. THỰC TRẠNG
Giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay vẫn còn tình trạng truyền thụ
kiến thức cho học sinh một cách thụ động, thầy đọc, trò chép, chưa phát huy
được tính tích cực chủ động của học sinh. Một phần nguyên nhân là do cơ sở
vật chất của các trường chưa đảm bảo và cũng không đồng bộ giữa các trường.
Mặt khác, do giáo viên ngại tiếp cận với những phương pháp mới, ngại tìm

tòi, ngại thay đổi. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự là
yếu tố quyết định đến hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để giờ dạy có
hiệu quả là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về môi trường, đảm bảo tính

Trường THPT Pleime

Trang 5


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

khoa học - hiện đại, cơ bản, tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật tổng hợp, tính
hệ thống sư phạm.
Tuy nhiên mỗi tiết học không nhất thiết phải hội tụ tất cả những quan
điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi lượng
kiến thức không thống nhất. Mặt khác tuỳ vào nội dung và đơn vị kiến thức
trong tiết dạy mà ta lồng vào các vấn đề nêu trên sao cho hợp lí.
3. GIẢI PHÁP VÀ NỘI DUNG
3.1. Giải pháp
Lồng ghép các câu hỏi liên quan đến các hiện tượng tự nhiên và các
hiện tượng thường gặp trong đời sống hằng ngày vào các tiết học có liên quan
đến kiến thức bài học. Từ đó học sinh có nhận thức đúng về các hiện tượng tự
nhiên, cũng như các hiện tượng xảy ra trong đời sống hằng ngày, tránh việc
hiểu nhầm, hiểu sai lệch vấn đề.
3.2. Nội dung
Để tiện việc tham khảo và đóng góp ý kiến cho đề tài này ngày càng
hoàn thiện và chất lượng hơn, tôi đã sắp xếp việc giải thích các hiện tượng
trong thiên nhiên và đời sống theo trình tự các cấp học, từ lớp 10 đến lớp 12.

Tuy nhiên, khi giải thích bất kì hiện tượng nào cũng đều liên quan đến kiến
thức của nhiều cấp học. Chính vì vậy, việc giải thích một hiện tượng nào đó
mà chỉ đề cập đến kiến thức ở một cấp học riêng biệt là không thể. Cho nên
trong quá trình giải thích tôi có đề cập thêm đến những kiến thức liên quan.
Đề tài này được thực hiện dưới dạng những câu hỏi hay nêu những hiện tượng
thường gặp trong đời sống, từ đó vận dụng những kiến thức hóa học để giải
thích. Cụ thể như sau:

Trường THPT Pleime

Trang 6


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

Vấn đề 1. Trong quá trình dạy bài Clo, khi nêu một số ứng dụng cơ bản
của Clo, ta đặt câu hỏi: “vì sao khi mở các vòi nước máy ở các thành phố
thì ta lại nghe mùi Clo ?”

Vì nước ở các thành phố có chứa nhiều vi khuẩn, Clo có tác dụng diệt
khuẩn nên người ta cho một lượng nhỏ khí Clo vào để diệt khuẩn. Một phần
khí Clo tan vào trong nước
��
� HCl + HClO
Cl 2 + H 2O ��


Chính HClO và Cl2 có tính oxi hóa mạnh có tác dụng diệt khuẩn và sát trùng

nước. Một phần nhỏ Cl2 còn lại gây mùi.
Vấn đề 2. Khi nghiên cứu bài “Flo và hợp chất HF”, giáo viên đặt câu hỏi:
* “Vì sao axit HF không đựng được trong bình thủy tinh? Làm sao để khắc
chữ hoặc khắc hình lên thủy tinh”
Vì thành phần của thủy tinh chủ yếu là SiO2, mà axit HF lại tác dụng được với
SiO2 theo phương trình

SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O

Do đó không đựng được axit HF trong bình thủy tinh.

Trường THPT Pleime

Trang 7


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

Muốn khắc thủy tinh người ta nhúng thủy tinh vào sáp nóng chảy, nhấc
ra cho nguội, dùng vật nhọn khắc hình ảnh cần khắc vào lớp sáp trên bề mặt,
rồi nhỏ dung dịch HF vào thì thủy tinh sẽ bị ăn mòn ở những chỗ lớp sáp bị
cào đi .
SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O
Nếu không có dung dịch HF thì thay bằng dung dịch H2SO4 đặc và bột
CaF2. Làm tương tự như trên nhưng ta cho bột CaF 2 vào chỗ cần khắc, sau đó
cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác đặt trên chỗ cần khắc. Sau một
thời gian, thủy tinh cũng sẽ bị ăn mòn ở những nơi cạo sáp.
CaF2 + 2H2SO4 → CaSO4 + 2HF↑ ( dùng tấm kính che lại)

Sau đó

SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O

** “Vì sao khi dùng chảo chống dính để chiên hoặc xào thức ăn thì chảo
không bị dính”

Nếu dùng chảo bằng gang, nhôm thường để chiên cá, trứng không khéo
sẽ bị dính chảo. Nhưng nếu dùng chảo không dính thì thức ăn sẽ không dính
chảo.
Thực ra mặt trong của chảo không dính người ta có trải một lớp hợp
chất cao phân tử. Đó là politetrafloetylen

CF2

CF2

n

được tôn vinh là

“vua chất dẻo” thường gọi là “teflon”. Politetra floetilen chỉ chứa hai nguyên
tố C và F nên liên kết với nhau rất bền chắc. Khi cho teflon vào axit vô cơ hay
axit H2SO4 đậm đặc, nước cường thủy (hỗn hợp HCl và HNO 3 đặc) vào dung
Trường THPT Pleime

Trang 8


Sáng kiến kinh nghiệm


Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

dịch kiềm đun sôi thì teflon không hề biến chất. Dùng teflon tráng lên đáy
chảo khi đun với nước sôi hoặc các loại dầu ăn, muối, dấm,… không hề xảy
ra bất kì tác dụng nào. Cho dù không cho dầu mỡ mà trực tiếp rán cá, trứng
trong chảo thì cũng không bị dính chảo.
Một điều chú ý là không nên đốt nóng chảo không trên bếp lửa vì teflon
ở nhiệt độ trên 250oC là bắt đầu phân hủy và thoát ra chất độc. Khi rửa chảo
không nên chà xát bằng các đồ vật cứng vì có thể gây tổn hại cho lớp chống
dính.
Vấn đề 3. Khi nghiên cứu bài Oxi – Ozon, giáo viên đặt câu hỏi cho học
sinh: “vì sao ở những vùng có đồi thông, không khí ở đó thường trong lành
và người ta thường xây các khu nghỉ dưỡng ở đó”
Vì cây thông có khả năng tạo ra khí Ozon, mà khí Ozon có tính oxi hóa
mạnh và có khả năng diệt khuẩn. Chính vì thế ở các rừng thông các vi khuẩn
bị tiêu diệt bởi Ozon nên không khí trong lành.
Vấn đề 4. Khi nghiên cứu về H2S, ta đặt câu hỏi: “vì sao khi đập quả trứng
bị ung, hoặc đi qua các vùng có xác của động, thực vật chết ta lại nghe mùi
thối”
Vì trong thành phần protein của quả trứng, hoặc trong xác của động,
thực vật có chứa hợp chất của lưu huỳnh, khi trứng bị ung, hay khi động, thực
vật chết thì hợp chất của lưu huỳnh bị oxi hóa thành H2S có mùi trứng thối.
Vấn đề 5. Khi nghiên cứu về tính hút nước mạnh của axit sunfuric đặc,
yêu cầu học sinh giải thích
* “vì sao khi cho axit sunfuric đặc vào cốc chứa đường kính trắng, làm
cho đường trong cốc bị đen lại và có bọt khí trào ra ngoài rất mạnh”.

Trường THPT Pleime


Trang 9


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

Vì đường thuộc loại hợp chất cacbohidrat có công thức C12(H2O)11 khi
gặp H2SO4 đặc có tác dụng hút nước mạnh, H2SO4 đặc sẽ lấy nước của đường
C12(H2O)11

H2SO4 đặc

Sau đó C + 2H2SO4đặc

12C + 11H2O

CO2 + 2SO2 + 2H2O. Chính

CO2, SO2 làm cho C màu đen bị trào ra ngoài.
** “Vì sao không được đổ nước vào dung dịch H2SO4 đặc, mà chỉ được
cho axit H2SO4 đặc từ từ vào nước”

Vì axit sunfuric đặc là chất lỏng sánh như dầu và nặng hơn nước. Nếu ta
cho nước vào axit, nước sẽ nổi trên bề mặt axit, axit sunfuric đặc tan trong
nước, tạo thành những hiđrat H2SO4.nH2O. Đồng thời sẽ tỏa ra một nhiệt
lượng lớn làm nước sôi mãnh liệt và bắn tung tóe gây nguy hiểm.
Trái lại khi ta cho axit sunfuric vào nước thì tình hình sẽ khác. Axit
sunfuric đặc nặng hơn nước. Nếu cho từ từ axit vào nước, nó sẽ chìm xuống
đáy nước, sau đó phân bố đều trong toàn bộ dung dịch. Như vậy khi có phản

ứng xảy ra, nhiệt lượng sinh ra được phân bố đều trong dung dịch, nhiệt độ sẽ
tăng từ từ không làm cho nước sôi lên một cách quá nhanh.
Vấn đề 6. Khi nghiên cứu về ứng dụng của Iot, ta đặt câu hỏi: “vì sao
trong đời sống hằng ngày ta cần sử dụng muối Iot”

Trường THPT Pleime

Trang 10


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

Người bị bệnh bướu cổ
Iot là một trong hai thành phần cấu tạo nên hoocmon tirozin của tuyến
giáp trạng. Trong cơ thể con người, một lượng lớn iot tập trung ở tuyến giáp
trạng. Ở người trưởng thành lượng iot này khoảng 20-50mg.
Hàng ngày ta phải bổ sung lượng iot cần thiết cho cơ thể bằng cách ăn
muối iot. Iôt có trong muối ăn dạng KI và KIO 3. Nếu lượng iot không cung
cấp đủ thì sẽ dẫn đến tuyến giáp trạng sưng to thành bướu cổ, nặng hơn là đần
độn, vô sinh và các chứng bệnh khác.
Vấn đề 7. Khi nghiên cứu bài Nitơ, yêu cầu học sinh giải thích: “vì sao khi
trời sắp mưa, nếu ta nhìn lên vùng có sấm chớp ta sẽ nhìn thấy lớp khí có
màu nâu đỏ”.

Vì khi có sấm chớp (tia tử ngoại) thì N2 sẽ hóa hợp với O2
N2 + O2 tia lửa điện

2NO


Khí NO kém bền sẽ bị Oxi trong không khí oxi hóa ngay
2NO +

O2

2NO2 (màu nâu đỏ)

Vấn đề 8. Khi nghiên cứu bài axit HNO3 và muối nitrat. Yêu cầu học sinh
giải thích câu ca dao

Trường THPT Pleime

Trang 11


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”

Vì khi có sấm chớp (tia tử ngoại) thì N2 sẽ hóa hợp với O2
N2 + O2 tia lửa điện

2NO

Khí NO kém bền sẽ bị Oxi trong không khí oxi hóa ngay
2NO +

Khí NO2 hòa tan trong nước:

O2

2NO2

4NO2 + O2 + H2O → 4HNO3
HNO3 → H+ + NO3- (đạm)

Ion NO3- tạo ra được cây hấp thụ và sử dụng nên làm cho cây tươi tốt.
Vấn đề 9. “Khi nghe các cụ già kể chuyện về ma trơi và thường gặp ở các
nghĩa địa, nơi chôn cất những người đã chết”. Bằng kiến thức hóa học,
yêu cầu học sinh giải thích hiện tượng ma trơi khi nghiên cứu bài
“Photpho và hợp chất của photpho”.
Vì trong xương của động vật luôn có chứa một hàm lượng photpho. Khi
cơ thể động vật chết đi, nó sẽ phân hủy một phần thành photphin PH 3 và lẫn
một ít điphotphin P2H4.
Photphin không tự bốc cháy ở nhiệt độ thường. Khi đun nóng đến
150oC thì nó mới cháy được. Còn điphotphin P 2H4 thì tự bốc cháy trong không
khí và tỏa nhiệt. Chính lượng nhiệt tỏa ra trong quá trình này làm cho
photphin bốc cháy:

Trường THPT Pleime

Trang 12


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh


2PH3 + 4O2 → P2O5 + 3H2O
Quá trình trên xảy ra cả ngày lẫn đêm nhưng do ban ngày có các tia
sáng của mặt trời nên ta không quan sát rõ như vào ban đêm.
Hiện tượng ma trơi chỉ là một quá trình hóa học xảy ra trong tự nhiên và
thường gặp ma trơi ở các nghĩa địa vào ban đêm.
Vấn đề 10. Khi nghiên cứu bài hợp chất của Photpho, yêu cầu học sinh
giải thích: “vì sao khi ăn phải thuốc chuột, thì chuột rất khát nước và chuột
sẽ bị chết sau khi đã uống nước”

Thành phần thuốc chuột là kẽm photphua Zn3P2. Sau khi ăn, Zn3P2 bị
thủy phân rất mạnh, hàm lượng nước trong cơ thể chuột giảm, nó khát và đi
tìm nước. Khi đó:

Zn3P2 + 6H2O → 3Zn(OH)2 + 2PH3↑

Chính PH3 (photphin) là chất khí rất độc đã giết chết chuột.
Càng nhiều nước đưa vào cơ thể chuột → PH3 thoát ra nhiều → chuột
càng nhanh chết. Nếu không có nước chuột sẽ lâu chết hơn.
Vấn đề 11. Khi nghiên cứu bài cacbon và hợp chất, ta sẽ đặt câu hỏi:
* “vì sao để giảm mùi khê khi cơm bị cháy thì ta dùng một ít than củi”

Trường THPT Pleime

Trang 13


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh


Do than củi xốp có tính hấp phụ nên hấp phụ mùi khét của cơm làm cho
cơm đỡ mùi khê.
** “Vì sao khi bật nắp các chai nước ngọt có gas thì nước ngọt lại trào ra
ngoài”

Nước ngọt không khác nước đường mấy chỉ khác là có thêm khí
cacbonic(CO2). Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt, người ta dùng áp lực lớn
để ép CO2 hòa tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại thì thu được
nước ngọt.
Khi mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp nên CO 2 lập tức bay vào không
khí. Vì vậy các bọt khí thoát ra giống như lúc ta đun nước sôi.
Về mùa hè người ta thường thích uống nước ngọt ướp lạnh. Khi ta uống
nước ngọt vào dạ dày, dạ dày và ruột không hề hấp thụ khí CO 2. Ở trong dạ
dày, nhiệt độ cao nên CO2 nhanh chóng theo đường miệng thoát ra ngoài, nhờ
vậy nó mang đi bớt một nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người ta có cảm giác
mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra CO2 có tác dụng kích thích nhẹ thành dạ dày, tăng
cường việc tiết dịch vị, giúp cho quá trình tiêu hóa dễ dàng hơn.

Trường THPT Pleime

Trang 14


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

Vấn đề 12. Dân gian có câu: “nước chảy đá mòn”. Bằng kiến thức hóa học
đã học ở bài học “cacbon và hợp chất” và bài “cân bằng hóa học” hãy giải

thích câu nói trên.

Vì thành phần chủ yếu của đá là CaCO 3. Trong nước có hòa tan khí CO2
làm tan một phần CaCO3. Do đó xảy ra phản ứng hóa học :
��
� Ca(HCO3 ) 2 (*)
CaCO3 + CO 2 + H 2O ��


Khi nước chảy cuốn theo Ca(HCO 3)2, theo nguyên lí dịch chuyển cân
bằng thì cân bằng (*) sẽ chuyển dịch theo phía phải. Kết quả là sau một thời
gian nước đã làm cho đá bị bào mòn dần.
Vấn đề 13. Khi nghiên cứu bài silic và hợp chất. Yêu cầu học sinh giải
thích: “vì sao khi cần bảo quản thực phẩm, dược phẩm hoặc máy móc quý
chống ẩm mốc, người ta thường dùng chất hút ẩm. Bản chất của chất hút
ẩm là gì?”
Vì khi để thực phẩm và dược phẩm lâu ngày sẽ có hiện tượng ẩm mốc
do không khí ẩm, để bảo quản được người ta thường cho vào các gói (bì) thực
phẩm hay dược phẩm một túi bằng vải hoặc bằng giấy chứa đầy các hạt chất
hút ẩm. Đó là các hạt silicagen. Đây là những hạt rắn có nhiều lỗ nhỏ, diện
tích bề mặt tiếp xúc lớn nên có tác dụng hút nước mạnh. Dùng silicagen làm
chất hút ẩm có ưu điểm: không mùi, không độc, không có tác dụng ăn mòn.
Vấn đề 14. Khi nghiên cứu bài “ancol”, yêu cầu học sinh giải thích:

Trường THPT Pleime

Trang 15


Sáng kiến kinh nghiệm


Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

* “Vì sao khi nấu rượu ta phải đun từ từ thì mới có rượu ngon’ và ‘vì sao
khi đun ban đầu ta thu được rượu có nồng độ cao, càng về sau độ rượu
càng giảm”
Điều này được giải thích dựa vào nhiệt độ sôi của rượu là 78,3 0C và
nhiệt độ sôi của nước là 100 0C khác nhau nên khi đun từ từ khi đến nhiệt độ
sôi của rượu là 78,30C thì rượu sẽ chuyển sang trạng thái hơi, khi đó dùng
phương pháp chưng cất ta sẽ thu được rượu nguyên chất (nồng độ cao), còn
nước vẫn chưa chuyển sang trạng thái hơi. Còn nếu ta đun nhanh thì khi nhiệt
độ tăng quá nhanh vượt qua cả nhiệt độ sôi của rượu và của nước, lúc đó cả
rượu và nước cùng bay hơi, khi chưng cất ta thu được dung dịch cả rượu và
nước nên nồng độ rượu không cao.
** Vì sao dụng cụ phân tích rượu có thể phát hiện các lái xe đã uống rượu?

kiểm tra hơi thở của tài xế
Thành phần chính của các loại nước uống có cồn là ancol etylic. Đặc
tính của ancol etylic là dễ bị oxi hóa. Có rất nhiều chất oxi hóa có thể tác dụng
với ancol nhưng người chọn một chất oxi hóa là crom (VI) oxit CrO3. Đây là
một chất oxi hóa rất mạnh, là chất ở dạng kết tinh thành tinh thể màu vàng da
cam. Bột oxit CrO3 khi gặp rượu etylic sẽ bị khử thành oxit Cr 2O3 là một hợp
chất có màu xanh đen.
C2H5OH + 4CrO3 → 2Cr2O3(xanh đen) + 2CO2 + 3H2O
Các cảnh sát giao thông sử dụng các dụng cụ phân tích rượu etylic có
chứa CrO3. Khi tài xế hà hơi thở vào dụng cụ phân tích trên, nếu trong hơi thở
Trường THPT Pleime

Trang 16



Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

có chứa hơi rượu thì hơi rượu sẽ tác dụng với CrO 3 và biến thành Cr2O3 có
màu xanh đen. Dựa vào sự biến đổi màu sắc mà dụng cụ phân tích sẽ giúp cho
cảnh sát biết được mức độ uống rượu của tài xế. Đây là biện pháp nhằm phát
hiện các tài xế đã uống rượu khi tham gia giao thông để ngăn chặn những tai
nạn đáng tiếc xảy ra.
*** “Khi uống bia, trên chai bia có ghi các giá trị 12 0, 140…, các con số này
có ý nghĩa gì”
Trên thị trường có bày bán nhiều loại bia đóng chai. Trên nhãn của các
chai bia có ghi 120, 140, ….Có người hiểu đó là con số biểu thị hàm lượng
rượu tinh khiết (độ rượu) của bia nhưng thực ra hiểu như vậy là không đúng.
Các con số ghi trên chai bia không biểu thị độ rượu tinh khiết mà biểu thị độ
đường trong bia.
Nguyên liệu chủ yếu để nấu bia là đại mạch. Qua quá trình lên men,
tinh bột đại mạch chuyển hóa thành đường mạch nha (Đó là Mantozơ - một
đồng phân của đường saccarozơ). Lúc này đại mạch biến thành dịch men, sau
đó lên men biến thành bia.
Khi đại mạch lên men sẽ cho lượng lớn đường mantozơ, chỉ có một
phần mantozơ chuyển thành rượu, phần mantozơ còn lại vẫn tồn tại trong bia.
Vì vậy hàm lượng rượu trong bia khá thấp. Độ dinh dưỡng của bia cao hay
thấp có liên quan đến lượng đường.
Trong quá trình ủ bia, nếu trong 100ml dịch lên men có 12g đường
người ta biểu diễn độ đường lên men là bia 12 o. Do đó bia có độ 14 o có giá trị
dinh dưỡng cao hơn bia 12o.

Trường THPT Pleime


Trang 17


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

Vấn đề 15. Khi nghiên cứu bài axit cacboxylic hoặc bài amin. Giáo viên
đặt câu hỏi: “Vì sao cá lại có mùi tanh, vì sao để khử mùi tanh của cá ta
thường dùng giấm”
Vì trên da của cá thường chứa các amin, đặc biệt là trimetylamin nên
làm cho cá có mùi tanh. Để khử mùi tanh của cá người ta thường rửa cá bằng
một ít giấm (axit CH3COOH). Vì axit CH3COOH sẽ trung hòa các amin
CH3COOH + RN

CH3COOHNR

Vấn đề 16. Khi nghiên cứu về tinh bột. Yêu cầu học sinh cho biết:
* “Vì sao gạo nếp lại dẻo ?”

Tinh bột là hỗn hợp của hai thành phần: amilozơ và amilopectin. Hai
loại này thường không tách rời nhau được. Trong mỗi hạt tinh bột, amilopectin
là vỏ bọc nhân amilozơ. Amilozơ tan được trong nước còn amilopectin hầu
như không tan, trong nước nóng amilopectin trương lên tạo thành hồ. Tính
chất này quyết định đến tính dẻo của hạt có tinh bột.
Trong mỗi hạt tinh bột, lượng amilopectin chiếm 80%, amilozơ chiếm
khoảng 20% nên cơm gạo tẻ, ngô tẻ, bánh mì thường có độ dẻo bình thường.
Tinh bột trong gạo nếp, ngô nếp chứa lượng amilopectin rất cao, khoảng 90%
làm cho cơm nếp, xôi nếp,… rất dẻo, dẻo đến mức dính.

** “ Vì sao khi ăn cơm, nhai kỹ ta lại thấy có vị ngọt còn khi nhai gạo sống
lại không thấy ngọt”

Trường THPT Pleime

Trang 18


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm, cơm được trộn lẫn với
nước bọt. Trong nước bọt của người có enzim amilaza. Khi nhai kỹ cơm,
enzim amilaza trong nước bọt sẽ xảy ra quá trình thủy phân một phần tinh bột
chín thành mantozơ và glucozơ nên có vị ngọt.
Amilaza
  Amilaza
Mantanza
Tinh bo�
t ����
Detrin ����
� Mantozô ����
� Glucoz�

Enzim amilaza trong nước bọt không thủy phân được tinh bột sống nên
nếu nhai gạo lâu cũng không thấy ngọt.
Vấn đề 17. Khi nghiên cứu bài: Ăn mòn kim loại. Giáo viên đặt câu hỏi:
“Vì sao ở các cơ sở đóng tàu thường gắn một miếng kim loại kẽm Zn ở phía
sau đuôi tàu” ?


Thân tàu biển được chế tạo bằng gang thép. Gang thép là hợp kim của
sắt, cacbon và một số nguyên tố khác. Đi lại trên biển, thân tàu tiếp xúc
thường xuyên với nước biển là dung dịch chất điện li nên sắt bị ăn mòn, gây
hư hỏng.
Để bảo vệ thân tàu, người ta thường áp dụng biện pháp sơn nhằm không
cho gang thép của thân tàu tiếp xúc trực tiếp với nước biển. Nhưng ở phía
đuôi tàu, do tác động của chân vịt, nước bị khuấy động mãnh liệt nên biện
pháp sơn là chưa đủ. Do đó mà phải gắn tấm kẽm vào đuôi tàu.
Trường THPT Pleime

Trang 19


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

Khi đó sẽ xảy ra quá trình ăn mòn điện hóa. Kẽm là kim loại hoạt động
hơn sắt nên bị ăn mòn, còn sắt thì không bị mất mát gì.
Sau một thời gian miếng kẽm bị ăn mòn thì sẽ được thay thế theo định
kì. Việc này vừa đỡ tốn kém hơn nhiều so với sửa chữa thân tàu.
Vấn đề 18. Khi nghiên cứu bài : Nhôm và hợp chất. Giáo viên đặt vấn đề:
“Vì sao phèn chua lại làm sạch nước ?”

Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm 24
phân tử nước nên có công thức hóa học là K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O.
Phèn chua không độc, có vị chát chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan
rất nhiều trong nước nóng. Khi cho phèn chua vào nước sẽ phân li ra ion Al 3+.
Chính ion Al3+ này bị thủy phân theo phương trình:

��
� Al(OH)3↓ + 3H+
Al3+ + 3H2O ��


Kết quả tạo ra Al(OH)3 là chất kết tủa dạng keo nên khi khuấy phèn
chua vào nước, nó kết dính các hạt đất nhỏ lơ lửng trong nước đục thành hạt
đất to hơn, nặng và chìm xuống làm trong nước.
Phèn chua rất có ích cho việc xử lí nước đục ở các vùng lũ để có nước
trong dùng cho tắm, giặt. Vì cục phèn chua trong và sáng cho nên đông y còn
gọi là “minh phàn” (minh là trong trắng, phàn là phèn).

Trường THPT Pleime

Trang 20


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

4. KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Thiết kế
Trong đề tài, tôi đã thực hiện thiết kế kiểm tra sau tác động đối với các
lớp 12B1, 12B2, 10A2, 10B4 năm học 2012 - 2013
+ Nhóm 1 là các học sinh ở các lớp 12B1, 10A2 áp dụng thường
xuyên trong bài học việc “giải thích các hiện tượng trong tự nhiên và cuộc
sống bằng vận dụng kiến thức hóa học”.
+ Nhóm 2 là các học sinh ở các lớp 12B2, 10B4 áp dụng không
thường xuyên hoặc không áp dụng việc “giải thích các hiện tượng trong tự

nhiên và cuộc sống bằng vận dụng kiến thức hóa học” trong bài học.
Thiết kế này giúp tôi so sánh hiệu quả của hai phương pháp dạy học
khác nhau. Một phương pháp áp dụng thường xuyên đề tài và một phương
pháp không áp dụng hoặc ít áp dụng .
4.2. Kết quả
4.2.1. Đo kiến thức, kỹ năng
Kết quả cuối năm môn hóa học của các lớp cụ thể như sau:
Lớp
12B1
10A2
10B4
12B2

Mức độ áp dụng
đề tài
Thường xuyên
Thường xuyên
Ít hoặc không
thường xuyên
Ít hoặc không
thường xuyên

Kết quả học tập
Giỏi
4%
14,02%
0%

Khá
17,47%

82,25%
16,75%

TB
76,31%
3,73%
69,36%

Yếu
2,22%
0%
9,89%

2,56%

18,24% 74,32% 4,88% 0%

4.2.2. Đo thái độ:
Trường THPT Pleime

Trang 21

Kém
0%
0%
4,00%


Sáng kiến kinh nghiệm


Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

Lớp

Mức độ áp dụng đề tài

12B1

Thường xuyên

10A2

Thường xuyên

12B2

Ít hoặc không thường
xuyên
Ít hoặc không thường
xuyên

10B4

Không khí lớp học
Học sinh học bài sôi nổi,
hăng hái phát biểu, hứng
thú học tập
Học sinh học bài sôi nổi,
hăng hái phát biểu, hứng
thú học tập

Học sinh hoc trầm hơn, ít
phát biểu hơn.
Học sinh hoc trầm hơn, ít
phát biểu hơn.

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trường THPT Pleime

Trang 22


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

1. Kết luận.
Trên đây là đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Giải thích một số hiện tượng
thiên nhiên và trong đời sống bằng các phản ứng hóa học”. Tôi đã áp dụng
giảng dạy đối với học sinh các khối lớp và đã đem lại hiệu quả khá tốt. Học
sinh học tập tích cực hơn, yêu thích bộ môn hơn và hứng thú học tập hơn. Về
kiến thức các em hiểu vấn đề sâu sắc hơn, không còn “học vẹt” nữa. Học sinh
có khả năng vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn một cách nhanh
nhẹn hơn. Trong quá trình học tập, nhiều em học sinh đã tự đặt câu hỏi để
mong được giáo viên giải đáp. Đó là những tín hiệu đáng mừng.
Do thời gian và năng lực có hạn, nên sáng kiến kinh nghiệm chỉ trình
bày một số hiện tượng trong thiên nhiên và đời sống thường gặp. Nhưng dựa
trên cơ sở của đề tài này, giáo viên có thể bổ sung thêm các hiện tượng thường
gặp khác phù hợp với nội dung bài học. Còn việc sử dụng như thế nào để đạt
hiệu quả cao nhất thì còn phụ thuộc vào từng đối tượng học sinh cụ thể.
Dù đã rất cố gắng nhưng đề tài vẫn mang tính chủ quan nên không thể

tránh khỏi thiếu sót. Rất mong các đồng nghiệp thông cảm và góp ý thêm để
đề tài được hoàn thiện.
Xin chân thành cảm ơn!

2. Kiến nghị.

Trường THPT Pleime

Trang 23


Sáng kiến kinh nghiệm

Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

Thông qua đề tài này tôi có một số đề nghị:
+ Đối với cơ quản lý cần bổ sung nhiều hơn nữa trang thiết bị dạy học, để tạo
điều kiện cho giáo viên áp dụng các phương pháp mới nhiều hơn.
+ Đối với mỗi thầy cô giáo cần khắc phục mọi khó khăn, dù không có hoặc
thiếu phương tiện dạy học nhưng chúng ta hãy luôn tìm tòi những phương
pháp mới để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tích cực, nâng cao hiệu
quả dạy học.

Trường THPT Pleime

Trang 24


Sáng kiến kinh nghiệm


Giáo viên thực hiện: Lưu Văn Nhanh

TÀI LIỆU THAM KHẢO
***    ***
1. 224 CÂU HỎI LÍ THÚ VỀ HÓA HỌC - Nhà xuất bản văn hóa thông tin
năm 2007
2. BỘ SÁCH TRI THỨC TUỔI HOA NIÊN THẾ KỈ XXI HÓA HỌC
( Người dịch: Từ Văn Mặc và Từ Thu Hằng; NXB Văn Hóa-Thông Tin 2001)
3. SÁCH GIÁO KHOA HÓA HỌC 10,11,12 - Nhà xuất bản Giáo Dục.
4. SÁCH GIÁO VIÊN HÓA HỌC 10,11,12 - Nhà xuất bản Giáo dục.
5. HÓA HỌC THẬT DIỆU KỲ ( Tập 1) của Vũ Bội Tuyền ( Chủ biên) NXB Thanh Niên, 2001
6. BỘ SÁCH 10 VẠN CÂU HỎI VÌ SAO
( Người dịch: Từ Văn Mặc và Trần Thị Ái; NXB KHOA HỌC VÀ KỸ
THUẬT 2000)
7. CHÌA KHÓA VÀNG HÓA HỌC
( Người dịch: Từ Văn Mặc và Trần Thị Ái; NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội
2002)

Trường THPT Pleime

Trang 25


×