PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Phát triển cộng đồng được cho là phương pháp đáp ứng nhu cầu cộng
đồng, hướng tới sự phát triển không ngừng về đời sống vật chất và tinh
thần của người dân thông qua việc nâng cao năng lực, tăng cường sự tham
gia, phối hợp chặt chẽ giữa các cá thể trong phạm vi một cộng đồng. Có
thể thấy phát triển cộng đồng là phương pháp hiệu quả để cải thiện vị thế,
vai trò của nhóm yếu thế, phát huy được nguồn lực của địa phương và mỗi
người dân.
Hỗ trợ phát triển là một việc, đồng hành với nó là người dân biết
cách quản lý cộng đồng của mình. Quản lý cộng đồng đưa người dân thành
chủ thể treung tâm mà ở đó họ có quyền và biết cách xác định vấn đề ưu
tiên tự lên kế hoạch, thực hiện, giám sát và đánh giá các hoạt động phát
triển một cách công khai, minh bạch và đảm bảo tính trách nhiệm. Để có
thể xây dựng được một dự án đẩy mạnh được tính quản lý cộng đồng là
những nguyên tắc không thể tách rời.
Tại Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều dự án, mô hình của nhà nước
và những tổ chức phi chính phủ được thực hiện và áp dụng nhằm nâng cao
đời sống kinh tế và xã hội cho người dân. Những dự án này đã mang lại
một cái nhìn mới, một thành công nhìn thấy được, cảm nhận được do
chính người dân đánh giá. Điển hình là mô hình phát triển cộng đồng
thuộc dự án “Thúc đẩy quản lý cộng đồng tại Việt Nam- PCM2” do Trung
tâm nghiên cứu sáng kiếnphát triển cộng đồng( RIC) một tổ chức phi lợi
nhuận được thành lập theo quyết định của Liên hiệp các Hội Khoa học và
Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) thực hiện.
1
Dự án “Thúc đẩy quản lý cộng đồng tại Việt Nam” viết tắt là PCMM
(PCM2) được Cơ quan Hợp tác và Phát triển Thuỵ Sỹ - SDC tài trợ thực
hiện ở 3 tỉnh Quảng Bình, Nam Định và Hòa Bình từ tháng 7 năm 2008,
do Trung tâm Hỗ trợ Phát triển vì Phụ nữ và Trẻ em – DWC thực hiện.
Trung tâm DWC hợp tác với Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến phát triển
cộng đồng (RIC) để thực hiện các hoạt động dự án tại địa phương. Mục
đích của dự án là các cộng đồng tự quản tại cấp cơ sở đóng góp vào việc
giảm nghèo và quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Mục tiêu
của dự án nhằm xây dựng, củng cố và mở rộng Mô hình Quản lý Cộng
đồng, thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng (đặc biệt là người nghèo, thiệt
thòi) vào quá trình lập kế hoạch và ra quyết định tại địa phương. Tuy nhiên
chương trình dự án cũng tiến hành tại những xã nghèo của huyện Phú
Lương- tỉnh Thái Nguyên với lý do đây là tỉnh mà lãnh đạo tỉnh tuyên bố
chấp nhận tất cả các dự án phi chính phủ, kể cả dự án về dân chủ cơ sở.
Hơn nữa, đây là địa bàn quen thuộc của DWC - cơ quan thực hiện dự án,
đã có nhiều dự án thực hiện tại đây.
Đứng ở cương vị là một nhà nghiên cứu phát triển cộng đồng. Tác
giả muốn thông qua chương trình dự án PCM2 tại Thái Nguyên để tìm
hiểu, lượng giá và đánh giá dự án từ đó đưa ra được ưu điểm và nhược
điểm mà dự án đã làm được đồng thời đưa ra được sự so sánh nhất định về
cộng đồng trước và sau khi có dự án. Phân tích cách làm, phương pháp lên
kế hoạch và những tác động của nó đối với cộng đồng. Đồng thời cũng
nhìn nhận dưới con mắt của một nhà CTXH xem xét và đánh giá mức độ
tham gia và vai trò của nhân viên CTXH cộng đồng. Chính vì vậy, tác giả
lựa chọn đề tài: Thực trạng phát triển cộng đồng thông qua dự án
2
“Thúc đẩy quản lý cộng đồng ở Việt Nam- PCM2” (do Trung tâm
nghiên cứu sáng kiến phát triển RIC thực hiện tại Thái Nguyên) làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu:
- Nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng kết quả dự án, trên cơ sở
đó làm rõ vai trò và nhiệm vụ của nhân viên công tác xã hội trong việc
thực hiện chương trình phát triển cộng đồng thông qua dự án về thúc đẩy
quản lý cộng đồng. Từ đó đề xuất các biện pháp trong phát triển cộng đồng
và phát triển cộng đồng thông qua dự án.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý luận về phát triển cộng đồng và phát triển cộng đồng
thông qua dự án.
- Tìm hiểu thực trạng phát triển cộng đồng và phát triển cộng đồng
thông qua dự án cụ thể: tìm hiểu về dự án, nghiên cứu và đánh giá quy chế
thực hiện, nguyên tắc thực hiện và các bước thực hiện của dự án.
- Phân tích những điểm mới và những việc chưa làm được của dự án,
trên cơ sở đó đánh giá, nghiên cứu sự tác động của dự án đối với cộng đồng.
- Phân tích vai trò và nhiệm vụ của nhân viên CTXH trong phát triển
cộng đồng và phát triển cộng đồng thông qua dự án
- Đề xuất những biện pháp hỗ trợ trong quá trình phát triển cộng
đồng và phát triển cộng đồng thông qua dự án
3. Tổng quan tài liệu:
Vấn đề phát triển cộng đồng đã được rất nhiều nhà khoa học, các
chính phủ, tổ chức và cá nhân nghiên cứu, thực hiện triển khai và đánh giá
tổng kết.
3
3.1. Nghiên cứu ở nước ngoài.
Phát triển cộng đồng (PTCĐ) được dịch sang tiếng anh là
Community Development xuất hiện vào những năm 1940 tại các cựu thuộc
địa đầu tiên của Anh. Ở Ghana một người Anh tốt bụng đã nảy ra ý kiến
giúp dân cư cải thiện đời sống bằng nỗ lực chung của chính quyền và
người dân. Một bên góp công, một bên góp của để đắp đường, xây dựng
trường học,… Điều gây ngạc nhiên là người dân nghèo đã tích cực tham
gia đóng góp công sức và tiền của vào các chương trình, dự án có mục
đích cải thiện cho cuộc sống của họ. Kinh nghiệm này cũng cho thấy phát
triển phải đồng bộ. Kinh tế, văn hóa, sức khỏe đều phải được nâng lên
cùng một lúc. Nếu chỉ tiến vào một khía cạnh thì không thể nào phá vỡ
được cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, dốt nát và bệnh tật. Những kinh
nghiệm tích cực này sớm được lan rộng ở hầu hết các cựu thuộc địa khu
vực Châu Á và Châu Phi. Năm 1950, Liên Hiệp Quốc công nhận khái
niệm PTCĐ và khuyến khích các quốc gia sử dụng PTCĐ như một công
cụ để thực hiện các chương trình phát triển quốc gia.
Thập kỷ 60-70 được chọn là thập kỷ thành công nhất với những
chương trình viện trợ quy mô lớn về kỹ thuật, phương pháp và vốn liếng.
Vào thời điểm ấy, dân cư nông thôn chiếm 80-90% các nước cựu thuộc địa
nên PTCĐ tập trung chủ yếu vào phát triển nông thôn và các cộng đồng
nông thôn. Năm 1970, Liên Hiệp Quốc đánh giá đây là thập kỷ phát triển
đầu tiên của PTCĐ. Kết quả cho thấy có một số tiến bộ rõ rệt như sự thay
đổi bộ mặt nông thôn với cơ sở hạ tầng, sự tiện nghi cộng cộng phục vụ
người dân. Tuy nhiên những phong trào rầm rộ này tỏ ra máy móc và tốn
kém. Thành quả tích cực nhất là có được một số những cơ sở vật chất
nhưng chúng không được sử dụng đúng mục đích, không đáp ứng được
4
nhu cầu thực sự của người dân. Phong trào này không đạt được những kết
quả như mong muốn, nhất là không đạt được sự chuyển biến đáng kể về
mặt xã hội. [3,85]
Rất nhiều những đầu sách hướng dẫn về cách tiếp cận, quản lý hay
lập kế hoạch phát triển cộng đồng được phát hành của những nhà nghiên
cứu về cộng đồng như John P. Kretzmann & John L. McKnight “Building
communities from the inside out- A path toward finding and mobilizing a
community’s assets” (Xây dựng cộng đồng từ bên trong- Con đường
hướng tới việc tìm kiếm và huy động tài sản của cộng đồng). Tác giả đưa
ra những những cách vận động và xây dựng cộng đồng từ các nguồn lực
bên trong của con người cũng như của cộng đồng nơi đó, đặc biệt là tìm
kiếm và huy động tài sản của cộng đồng cho sự phát triển của cộng đồng.
[28,86].
Theo Brad Ellis trong tác phẩm “Hãy đưa cộng đồng vào cuộc” có
đưa ra những cách nhìn nhận về việc làm thế nào để vận động cộng đồng
cùng tham gia vào xây dựng và phát triển của cộng đồng [26,86]. Tác giả
Simi Kamal “A handbook on project management” (Sổ tay về quản lý dự
án) đã viết về những tiến trình để xây dựng và phát triển dự án [29,87].
Tác giả Murray George Ross trong cuốn“Theory, Principles and Practice
with BW Lappin” (Lý thuyết, nguyên tắc và thực hành với BW Lappin )
[30,87], Các tác giả Stanley Gajnayake và Jaya Gajanayake “Nâng cao
năng lực cộng đồng” đã đưa ra các giải pháp để làm thế nào nâng cao năng
lực cộng đồng [27,87], Trong khi đó tác giả Somesh Kumar “Methods for
Community participation – A complete guide for participation” (Phương
pháp tham gia của cộng đồng - Hướng dẫn hoàn chỉnh cho sự tham gia)
[31,87], có đưa ra những khái niệm, mục đích, vai trò của việc quản lý dự
5
án, xây dựng dự án và phát triển những dự án về phát triển cộng đồng,
những tài liệu hướng dẫn, góp ý cho các dự án hay chương trình để có sự
đổi mới, lý thuyết và áp dụng vào thực tiễn cộng đồng,… nhằm giải thích,
thuyết phục về việc cần phải xây dựng và phát triển cộng đồng.
Như vậy, những tác giả này tập trung chủ yếu vào việc đưa ra các lý
do cần thiết phải phát triển cộng đồng, những khái niệm, những khám phá
từ nhiều khía cạnh của từng khái niệm gốc, những kinh nghiệm để tiến
hành PTCĐ, cách tiếp cận, hòa nhập cộng đồng, những phương pháp sử
dụng trong cộng đồng,… Họ tập trung vào giải thích những khái niệm,
những tiến trình, phương pháp PTCĐ mà chưa khám phá vai trò, vị trí của
những cán bộ cộng đồng, tác viên cộng đồng có liên quan.
Trong khi đó tôi nhận thấy nghiên cứu của tác giả Tara O’ Leary
cùng với sự hỗ trợ từ Carnegie UK Trust “Asset based appraoches to rural
community development- Literature review and resources (Tiếp cận dựa
vào nguồn nội lực cộng đồng để phát triển cộng đồng nông thôn- Tổng
quan tài liệu và tài nguyên)” là một nghiên cứu mang tính thực hành, được
thực hiện dựa trên nghiên cứu tài liệu từ các dự án phát triển cộng đồng ở
nhiều châu lục và nhiều nền văn hóa. Nghiên cứu này cho thấy tiếp cận dựa
vào nội lực cộng đồng (phương pháp ABCD) đang được phát triển và được
thử nghiệm ở tất cả các tầng lớp xã hội. Những phạm vi của cộng đồng về
định hướng xây dựng cộng đồng bền vững và trong việc theo đuổi các mục
tiêu chính sách xã hội. Đây là một nghiên cứu rất sâu sắc để vận dụng vào
phát triển cộng đồng và phát triển cộng đồng thông qua dự án. [33,87]
3.2. Nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, PTCĐ từ thời xa xưa đã có nhưng chỉ là hình thức giúp
đỡ nhau theo tinh thần của câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng” vốn đã
6
được truyền từ đời này sang đời khác. Những hoạt động này không chỉ
giới hạn giữa những người dân với nhau mà đã có sự tham gia của thể chế
nhà nước phong kiến. Giai đoạn những năm 1945, những hoạt động trợ
giúp xã hội chỉ mang tính chất trợ giúp đơn thuần. Những dấu hiệu đầu
tiên của CTXH chuyên nghiệp ở Việt Nam có thể thấy được qua sự có mặt
của những nhà tu, các sơ, những nhân viên CTXH là những người được
đào tạo ở nước ngoài (Pháp) và đưa vào Việt Nam để làm việc tại các cơ
sở như bệnh viện hay cơ sở xã hội tuy nhiên chủ yếu phục vụ cho quân đội
sỹ quan Pháp và những người làm việc cho chính quyền Pháp thuộc thời
bấy giờ.
Từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 sự phát triển của CTXH như
một ngành chuyên môn là một quá trình tự phát, vì cơ quan chính quyền có
liên quan là ngành Lao động Thương binh Xã hội lúc đầu chưa có khái
niệm nào về An sinh xã hội và CTXH như những ngành khoa học khác.
[3,85]
Đã có rất nhiều những nhà nghiên cứu, những tác giả nghiên cứu về
phát triển cộng đồng như tác giả Hoàng Anh Dũng trong cuốn “Tiếp cận
phát triển cộng đồng dựa vào tài sản cộng đồng” [1,85], tác giả Nguyễn
Thị Hải trong cuốn“Phát triển và tổ chức cộng đồng” [2,85], tác giả Tô
Duy Hợp và Lương Hồng Quang “Phát triển cộng đồng-lý thuyết và vận
dụng” [4,85], tác giả Đỗ Đức Khôi “Các bài giảng về phát triển cộng đồng
có người dân tham gia” [5,85], tác giả Nguyễn Thị Oanh “Phát triển cộng
đồng” [9,85] và Phạm Huỳnh Thanh Vân “Kỹ năng phát triển cộng đồng”
[13,85],… Đây chỉ là một số trong rất nhiều những tác giả đã nghiên cứu
về cộng đồng. Tuy nhiên những tác giả này chỉ nghiên cứu và đưa ra
những khái niệm, nhiệm vụ, vai trò, những hướng tiếp cận, phương pháp
7
tiếp cận, cách làm việc,... có liên quan đến cộng đồng, phát triển cộng
đồng mà chưa vai trò của nhân viên CTXH trong phát triển cộng đồng.
Tác giả Trịnh Văn Tùng viết giáo trình “Xây dựng và quản lý dự án
công tác xã hội”, là một cuốn sách mới, ở đó đã nêu ra được cách phương
pháp làm thước đo để so sánh và lượng giá một dự án phát triển cộng đồng
dưới con mắt của một nhà nghiên cứu. Đây được cho là một cuốn sách hay
và có ý nghĩa đối với những người có ý định nghiên cứu phát triển cộng
đồng. Đồng thời còn có những phần đánh riêng cho những tác viên cộng
đồng, nhân viên CTXH tại cộng đồng để họ nhìn lại vai trò, vị trí và đánh
giá được những tác động mà họ đã mang đến cho cộng đồng.[12,85]
Các dự án lớn nhỏ hỗ trợ cộng đồng dần được tiến hành dưới nhiều
hình thức và đa dạng về phong cách xây dựng. Với mục đích nhằm hỗ trợ
phát triển cộng đồng, mỗi một cơ quan, tổ chức lại có một thế mạnh cũng
như phương pháp tiếp cận, đối tượng hướng đến riêng ví dụ như:
Agricultural Development Denmark Asia (ADDA), Research Intiative
Center (RIC), Marinelife Conservation Development (MCD), Centre For
Sustainable
Community
Development
(S-CODE),
Community
Development Center (CDC),… chính những các dự án trên là một nguồn
lực để nghiên cứu xây dựng, đánh giá, hỗ trợ về phát triển cộng đồng, đặc
biệt phát triển cộng đồng thông qua dự án. Cụ thể các cơ quan, tổ chức này
họ đều đã và đang tiến hành rất nhiều dự án cộng đồng liên quan đến tư
vấn pháp luật, trồng cây, sản xuất và tiếp thị sản phẩm cho người nông
dân, hỗ trợ thúc đẩy cộng đồng kinh doanh,… Tuy nhiên ở những dự án
này họ vẫn chỉ tập trung vào việc quản lý dự án, là nhà đầu tư, tham gia
vào các bước tiến trình dự án. Họ còn chưa có những báo cáo đi sâu vào
từng hoạt động, phân tích lại dự án đã tiến hành và đặc biệt còn thiếu màu
8
sắc và sự có mặt của những nhân viên CTXH tại cộng đồng. Những báo
cáo kết quả thẩm tra lại dự án chủ yếu tập trung vào những kết quả mà dự
án đã làm được và quên đi những biện pháp, những giải pháp khắc phục và
phát triển.
Tóm lại những tài liệu mà các cơ quan, trung tâm, tổ chức thường là
những bài hướng dẫn, những lý thuyết về cách thức thực hiện, thực hành,
tham gia, các tiến trình khi thực hiện một dự án cộng đồng. Các nghiên
cứu này thường chú ý đến định nghĩa về cộng đồng, nghiên cứu về cách
tiếp cận, cách thực hiện và đầu ra mà chưa chú ý đến đánh giá kết quả và
sức ảnh hưởng của kết quả đến cộng đồng. Chính vì vậy tác giả muốn tiến
hành nghiên cứu: Thực trạng của PTCĐ thông qua việc đánh giá lại dự
án “Thúc đẩy quản lý cộng đồng tại Việt Nam- PCM2” được thực hiện
tại Thái Nguyên để làm rõ hơn cách hoạt động, quy trình tiến hành của dự
án từ đó đánh giá và đưa ra được những điểm mạnh, điểm yếu của dự án.
Đồng thời đưa ra những biện pháp xây dựng nhằm cải thiện cho những dự
án sau, làm nổi bật được vị trí, vai trò và trách nhiệm của nhân viên công
tác xã hội có mặt trong dự án.
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
4.1 Ý nghĩa khoa học của đề tài:
4.2 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
5. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng PTCĐ qua dự án “Thúc đẩy quản lý cộng đồng ở Việt
Nam-PCM2”. (do trung tâm nghiên cứu sáng kiến phát triển cộng đồng
RIC thực hiện tạiThái Nguyên).
6. Khách thể nghiên cứu
9
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi nghiên cứu trên những
khách thể sau:
+ Người dân được thụ hưởng dự án (128 khách thể)
+ Chính quyền đoàn thể xóm, xã (22 khách thể)
Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu đối với 10-15 đối tượng khách thể
bao gồm người dân và cán bộ xóm, thôn để tìm hiểu rõ hơn về kết quả của
dự án đối với họ.
7. Câu hỏi nghiên cứu:
- Thực trạng hoạt động PTCĐ qua dự án “Thúc đẩy quản lý cộng
đồng ở Việt Nam-PCM2” thực hiện ở Thái Nguyên được thực hiện như thế
nào?
- Dự án được xây dựng trên những tiêu chí nào về phát triển cộng
đồng và kết quả của sự án được đánh giá như thế nào trên các tiêu chí ấy?
- Vai trò, nhiệm vụ của CTXH có tác động như thế nào với việc thực
hiện phát triển dự án PTCĐ tại địa phương?
- Những biện pháp nào hỗ trợ phát triển cộng đồng và phát triển cộng
đồng thông qua dự án?
8. Giả thuyết nghiên cứu
9. Phạm vi nghiên cứu:
Dự án “Thúc đẩy quản lý cộng đồng ở Việt Nam- PCM2”. (Do trung
tâm nghiên cứu sáng kiến phát triển cộng đồng RIC thực hiện tại Thái
Nguyên).
10. Phương pháp nghiên cứu:
10.1Phương pháp phân tích tài liệu
10.2Phương pháp điều tra Xã hội học
10.3Phương pháp can thiệp của công tác xã hội
10
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ LÝ THUYẾT ÁP DỤNG
1. Các khái niệm nghiên cứu:
1.1. Công tác xã hội
1.2. Cộng đồng
1.3.Phát triển cộng đồng
1.4. Dự án PTCĐ:
1.5. Sự tham gia của cộng đồng
1.6. Tổ chức cộng đồng
1.7.Tiến trình phát triển cộng đồng:
1.8. Đánh giá sự phát triển của cộng đồng
2. Phương pháp luận
3. Các lý thuyết vận dụng trong luận văn:
3.1.Lý thuyết hệ thống sinh thái
3.2.Thuyết cấu trúc chức năng
3.3. Thuyết vai trò
Tiểu kết: Trong chương 1, tôi đã đưa ra tổng quan và những khái niệm
công cụ nghiên cứu cho nghiên cứa của mình gồm: Công tác xã hội, Cộng
đồng, Phát triển cộng đồng, Dự án Phát triển cộng đồng, Sự tham gia của
cộng đồng, Tổ chức cộng đồng, Tiến trình Phát triển cộng đồng, Đánh giá
Phát triển cộng đồng, những phương pháp luận và lý thuyết áp dụng điển
hình đó là: Lý thuyết môi trường sinh thái, lý thuyết vai trò và lý thuyết
cấu trúc chức năng. Đây đều là những lý thuyết quan trọng nhằm làm công
cụ nghiên cứu ở những chương tiếp theo
11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG THÔNG
QUA DỰ ÁN “THÚC ĐẨY QUẢNG LÝ CỘNG ĐỒNG- PCM2” TẠI
PHÚ LƯƠNG- THÁI NGUYÊN
1. Giới thiệu về dự án
2. Địa bàn cộng đồng huyện Phú Lương
3. Dự án PCM2 tại huyện Phú Lương
4. Đánh giá dự án
Để tiến hành đánh giá dự án PCM2 , tác giả đã tập trung phân tích
quy mô, hoạt động, kết quả của dự án để trả lời cho 03 câu hỏi lớn sau:
[12,86]
- Dự án PCM2 đã mang lại những thay đổi gì ở cộng đồng? Dựa vào
những tiêu chí gì để tác giả có thể lượng giá được kết quả phát triển cộng
đồng thông qua dự án đó?
- Những thay đổi đó tại cộng đồng có tác động như thế nào đối với
cộng đồng và ngươc lại, cộng đồng có những tác động như thế nào đối với
những kết quả đó?
- Dưới cương vị là một người đã từng tham gia vào dự án, tác giả đã
mang lại những thay đổi gì ở cộng đồng và đã học được gì từ phương thức
thiết kế thực hiện dự án đó?
Để trả lời cho những câu hỏi nghiên cứu, tác giả sẽ tiến hành phân
tích dự án PCM2 để trả lời qua đó làm rõ được điểm mạnh, điểm yếu, khó
khăn và thuận lợi của dự án tại cộng đồng.
5. Những biện pháp hỗ trợ cho chương trình dự án phát triển cộng
đồng
12
Tiểu kết: Trong chương 2, tác giả đã trình bày được về dự án PCM2,
mục tiêu của dự án, những mục đích và những bước thực hiện dự án mà dự
án đã hoàn thiện và đưa vào tập huấn công khai. Tác giả cũng đã trình bày
sơ lược về cộng đồng huyện Phú Lương, những thuận lợi và khó khăn của
huyện. Đồng thời cũng đưa ra được những tiêu chí, những câu hỏi để dựa
vào đó trả lời, phân tích và đánh giá cách làm, cách thực hiện của dự án có
đúng theo những nguyên tắc, quy trình các bước để phát triển cộng đồng
hay không. Đánh giá được kết quả đối với cộng đồng và ngược lại.
13
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CTXH TRONG VIỆC
TRỢ GIÚP NGƯỜI DÂN THỰC HIỆN DỰ ÁN
1. Thực tế vai trò Công tác xã hội tại dự án
2. Các hoạt động của nhân viên CTXH tại Phú Lương- Thái Nguyên
- Vai trò kết nối nguồn lực
- Vai trò tham mưu, vận động và biện hộ chính sách
- Vai trò hướng dẫn (nhà giáo dục)
- Vai trò nghiên cứu và lập kế hoạch
- Vai trò giám sát
3. Những nhân tố trở ngại trong việc thực hiện vai trò của nhân
viên CTXH
3.1. Nhân tố trực tiếp
- Người dân tại cộng đồng
- Chính quyền
- Môi trường tự nhiên
3.2. Nhân tố gián tiếp
4. Những giải pháp để khắc phục và thực hiện tốt vai trò, trách
nhiệm
Tiểu kết: Như vậy, có thể thấy dự án được tiến hành mà không có sự
hỗ trợ của nhân viên CTXH cộng đồng. Người dân ở đây đã có
những sự nhầm lẫn giữa cán bộ dư án và nhân viên CTXH. Sau khi
thu thập số liệu từ những bảng hỏi cho thấy, vai trò của cán bộ dự ánnhân viên CTXH được thể hiện rất tốt với rất nhiều vai trò khác nhau
như: kết nối nguồn lực, tham mưu vận động và biện hộ chính sách,
nhà hướng dẫn, nghiên cứu và lập kế hoạch và người giám sát.
Người dân tại cộng đồng đã tạo rất nhiều điều kiện để nhân viên
CTXH có thể thực hiện tốt các vai trò của mình tuy nhiên vẫn còn
những hạn chế như là bất đồng ngôn ngữ, dân cư sinh sống thưa thớt,
14
đi lại khó khăn,…Từ đó có thể đánh giá và đưa ra được những đề
xuất phù hợp nhằm hỗ trợ trong việc thực hiện vai trò của nhân viên
CTXH tại cộng đồng. Bên cạnh đó, tác giả cũng đóng góp những giải
pháp nhằm khắc phục và thực hiện tốt hơn vai trò cũng như trách
nhiệm mà một nhân viên CTXH cần làm.
15
KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
1. Khuyến nghị
Đối với dự án
Đối với các cấp chính quyền
Đối với người dân tại cộng đồng
Đối với những người đang thực hiện vai trò như nhân viên
CTXH và bản thân nhân viên CTXH
Cần trau dồi, học hỏi kiến thức. Đi sâu, đi sát vào thực tế cuộc sống
của người dân mới hiểu và biết được cuộc sống của họ như thế nào, gặp
những khó khăn gì, họ thực sự cần gì, mong muốn cái gì. Tăng cường
tham gia các lớp tập huấn kỹ năng và năng lực chuyên môn do ngành tổ
chức. Luôn học hỏi kinh nghiệm, trau dồi với các đồng nghiệp, những
người đi trước.
Không được áp đặt ý kiến, phải để người dân tự đưa ra ý kiến và
quyết định. Nhưng cũng luôn cần có sự định hướng, dẫn dắt người dân tập
trung vào nhiệm vụ, mục tiêu của họ, tránh lan man quá nhiều vấn đề. Sau
mỗi mô hình dự án cần có đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm
thành công, thất bại nhằm tìm ra nguyên nhân và phương pháp trợ giúp
hiệu quả hơn.
Cần vận dụng triệt để những kỹ năng nghề đã được học và những kỹ
năng sống trong cuộc sống hàng ngày như: lắng nghe, quan sát, ghi chép,
đặt câu hỏi,.. Khi giải quyết một vấn đề, một tình huống, các kỹ năng
không phải sử dụng đơn lẻ mà cần có sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn,
đan xen lẫn nhau nhằm đem đến sự giúp đỡ tối ưu nhất cho thân chủ.
Ngoài trình độ chuyên môn, nhân viên CTXH còn cần phải có phẩm
chất đạo đức tốt:
16
- Hòa đồng: Để tiếp cận một cộng đồng, nhân viên CTXH phải có
phong cách hòa đồng, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với người dân. Lắng
nghe, đồng cảm, chấp nhận người dân, điều này giúp cho nhân viên CTXH
hòa đồng hơn, am hiểu hơn về cuộc sống đời thương, tâm tư nguyện vọng
của người dân.
- Trung thực: Nhân viên CTXH phải luôn trung thực với người dân
và chính mình. Luôn phải có ý thức về bản thân mình, chấp nhận những
yếu kém nếu có, không nên tự cao, tự đại, tỏ ra hiểu biết hơn người trong
khi năng lực còn yếu kém. Luôn học hỏi để trau dồi kiến thức xã hội từ
chính cộng đồng, người dân và các đồng nghiệp. Sự ba hoa, hứa hẹn, tạo
uy tín bằng những thứ mình không có, không thuộc về phẩm chất của một
nhân viên CTXH.
- Kiên trì, nhẫn nại: Nhân viên CTXH mới vào nghề thường hay nóng
vội, muốn thấy thấy thành tích ngay nên hay áp đặt ý kiến, cách nghĩ của
mình. Họ dễ bị ngã lòng khi người dân cộng đồng chưa thực hiện được
mong muốn họ đề ra. Sự thay đổi trong suy nghĩ, hành động của người dân
không thể diễn ra một sớm một chiều nên nhân viên CTXH cần phải kiên
trì và nhẫn nại để người dân có thời gian làm quen và thích nghi với kiến
thức mới.
- Khiêm tốn, biết học hỏi người dân: Trong PTCĐ học hỏi không chỉ
có một chiều từ người dân mà nhân viên CTXH cũng học hỏi được rất
nhiều từ sự hiểu biết, kinh nghiệm sống của người dân. Chỉ có sự khiêm
tốn mới giúp cho nhân viên CTXH lắng nghe, đón nhận ý kiến từ dân.
Chấp nhận sự góp ý của người dân giúp cho nhân viên CTXH phát triển và
hoàn thiện hơn về nhiều mặt.
17
- Tính khách quan và vô tư: Tinh thần khách quan và vô tư giúp cho
nhân viên CTXH giải quyết các mâu thuẫn trong cộng đồng và làm tốt vai
trò liên kết, kết nối các thành viên cộng đồng.
Để công việc đạt được kết quả cao nhất trong sự hỗ trợ, trợ giúp yêu
cầu nhân viên CTXH phải có cuộc sống, đạo đức phù hợp với các giá trị,
chuẩn mực của xã hội và được mọi người chấp nhận.
2. Kết luận:
Phát triển cộng đồng là một ngành quan trọng giúp hỗ trợ, phát triển
và xây dựng cộng đồng nhằm góp phần khẳng định “cộng đồng có phát
triển thì đất nước mới phát triển”. Với những kết quả nhìn thấy được khi
cá nhân tôi đã nghiên cứu và có được những kết quả đánh giá PTCĐ tại địa
phương huyện Phú Lương, dự án phát triển cộng đồng đã và đang đi sâu
tìm hiểu những nhu cầu cấp thiết của người dân cộng đồng, mang lại
không chỉ đời sống tốt hơn, những kiến thức cơ bản về quyền và nghĩa vụ,
trách nhiệm mà bên cạnh đó còn hỗ trợ cộng đồng những kiến thức để
cộng đồng tiếp tục phát triển khi nhóm hỗ trợ rút lui, phát huy tính tự lực
phát triển của cộng đồng.
Ở luận văn này, tôi đã đưa ra những lý luận cơ bản làm rõ các khái
niệm công cụ tôi sử dụng để làm rõ vấn đề đề tài cần đồng thời đánh giá
được tổng quan những tài liệu trong và ngoài nước làm bước đệm cho đề
tài của mình. Những khái niệm, lý thuyết về PTCĐ được tôi sử dụng nhằm
làm rõ và giải thích được thế nào là cộng đồng, phát triển cộng đồng từ đó
dẫn dắt đến những phương thức, cách tiến hành một dự án Phát triển cộng
đồng. Những lý thuyết này góp phần làm nổi bật cách tiến hành, giải thích
cho từng nội dung, những từ ngữ mang tính chuyên ngành phát triển cộng
đồng.
18
Bên cạnh đó, để làm rõ hơn, có những số liệu thực tế phục vụ cho
luận văn, tôi đã tiến hành nghiên cứu điều tra 150 phiếu hỏi dưới cộng
đồng. Giới thiệu và trình bày sơ lược về dư án PCM2, cộng đồng địa
phương. Từ đó sử dụng những nguyên lý, các bước phát triển cộng đồng,
phương pháp luận và những kỹ năng về xã hội học để so sánh, đánh giá và
lượng giá những hoạt động của dự án tại cộng đồng. Sự đúng đắn trong
cách xây dựng thiết kế dự án, sự chặt chẽ trong cách thực hiện đều đáp ứng
được những tiêu chí về phát triển cộng đồng. Kết quả mà dự án để lại
không chỉ là những cơ sở vật chất mà còn là những kiến thức, sự tích cực
tham gia, trách nhiệm đối với cơ sở vật chất địa phương, thái độ xây dựng
và tiến hành những tiểu dự án sau mà không hề có sự tham gia của dự án
PCM2. Có thể nói, đây là một dự án phát triển cộng đồng dựa vào phương
pháp quản lý cộng đồng mẫu, có tính đúng đắn và rất hữu ích cho những tổ
chức sau tham khảo và học theo nếu muốn thực hiện phương pháp phát
triển cộng đồng.
19