Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật nhĩ trong truyện ngắn bến quê của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.86 KB, 8 trang )

Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Nhĩ trong truyện « Bến quê » của Nguyễn Minh
Châu
Gợi ý :
A. Mở bài :
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của nền văn học VN hiện đại. Ông
là người luôn trăn trở, tìm tòi và đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật trong cách viết của
mình đặc biệt là sau năm 1975.
- Truyện ngắn « Bến quê » là một tác phẩm có tính chất triết lí sâu sắc, mang tính trải
nghiệm, có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của một con người.
- Nhân vật Nhĩ trong câu chuyện là hình bóng một con người rất thực với đời sống nội
tâm phong phú đầy trải nghiệm.
- Qua việc sáng tạo hình tượng nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu đã giúp người đọc thức
tỉnh sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của cuộc sống, quê hương.
B. Thân bài.
1. Hoàn cảnh của Nhĩ
+ Câu chuyện viết về số phận của Nhĩ, nhân vật chính của truyện, một người đàn ông đã
từng bôn ba, được tiếp xúc nhiều nơi, chiêm ngưỡng bao vẻ đẹp kì quan của thế giới
nhưng đến cuối đời lại bị một căn bệnh hiểm nghèo, liệt toàn thân, không thể tự mình di
chuyển và đang sống những ngày cuối cùng, giáp ranh giữa sự sống và cái chết. Nhưng
hoàn toàn trái ngược với cái lẽ thường tình mà nhiều nhà văn khác thường khai thác loại
tình huống này để nói lên cái khát vọng sống mãnh liệt và cái sức sống mạnh mẽ của con
người (Giắc lân đơn ; Ô- hen ri), Nguyễn Minh Châu tạo tình huống nghịch lí này để
chiêm nghiệm một triết lí về đời người.
Nhưng cũng chính lúc này, anh mới phát hiện ra vùng đất bên kia sông- nơi bến quê
quen thuộc của quê vợ - một vẻ đẹp bình mà hết sức quyến rũ mà anh chưa một lần đặt


chân đến. Và cũng chính lúc này, nhận được sự chăm sóc ân cần, chu đáo của vợ, anh
mới nhận ra vẻ đẹp, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh thầm lặng của vợ. Và anh khát
khao cháy bỏng được đặt chân một lần lên bến quê - bờ bãi bên kia sống, cái miền đất
thật gần gũi mà bây giờ với anh trở nên xa lắc.


=> Phải chăng nhà văn đã đặt nhân vật Nhĩ – hay đang hoá thân vào nhân vật vào trong
tình huống với cả một chuỗi những nghịch lí như thế là nhằm hưóng người đọc đi đến
một nhận thức về cuộc đời : Cuộc sống và số phận con người chứa đựng đầy những điều
bất thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những điều dự định và ước muốn,
cả những hiểu biết và toan tính của người ta. Mặt khác còn là để khẳng định cái triết lí
mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả một đời người : Con người ta trên đường
đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình như đã nói ở trên.
2. Những cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật Nhĩ

a. Sự thức nhận của Nhĩ thể hiện qua sự cảm nhận của anh về thiên nhiên trong một sớm
đầu thu.
- Thiên nhiên trong buổi sớm đầu thu không đẹp như những bức tranh thiên nhiên trong
nhiều thi phẩm khác chẳng hạn như : Cô Tô - Nguyễn Tuân, hay « Sang thu » của Hữu
Thỉnh. Cảnh thiên nhiên được cảm nhận bằng cái nhìn đầy tâm trạng, bằng những cảm
xúc tinh tế của nhân vật Nhĩ, một con người sắp từ giã cõi đời nên cảnh vật ấy dần hiện ra
với những vẻ đẹp riêng. :
+ Những bông hoa bằng lăng tím cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ
lại đậm sắc hơn… để rồi cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối ».
Đâu phải là những màu sắc tươi tắn mà là những sắc màu của sự tàn phải, là dấu hiệu của
sự tiêu biến. Và cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm hơn bởi nó
gắn bó với tâm trạng của con người.


+ Đặc biệt là anh nhận ra vẻ đẹp của bến quê - đó là vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông :
H/a con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Ngay cả cái vòm trời mùa
thu như cao hơn : Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những
khoảng bờ bãi…. cả một vùng phù sa lâu đời cũng đang phô ra một thứ màu vàng thau
xen lẫn với màu xanh non.. những màu sức thân thuộc quá như da thịt, như hơi thở….
Đó là những hình ảnh rất thực, rất quen thuộc, gần gũi nhưng chỉ đến sáng hôm nay Nhĩ
mới cảm nhận ra được như một phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng. có cảm giác như

lần đầu tiên anh mới nhìn thấy.
+ Từ sự thức nhận những vẻ đẹp bình dị nơi bến quê, trong anh có sự so sánh, chiêm
nghiệm : « Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một
chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến » Phải chăng đây là tâm trạng
của một con người đang nặng trĩu những từng trải, đau thương : yêu quê hương nhưng
một đời người thường phải li hương, thường hờ hững và mắc vào cái điều vòng vèo,
chùng chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối, xa xôi.
- Và bằng trực giác, Nhĩ đã nhận ra mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Anh đang
phải đối mặt với hoàn cảnh bi đát không còn lối thoát. Tuy ngày nào cũng uống thuốc
nhưng bệnh tình không thuyên giảm, hôm nay « cũng chỉ cảm thấy như hôm qua ». Nhấc
mình ra được bên ngoài tấm nệm đang nằm, Nhĩ cảm thấy như mình « vừa bay được một
nửa vòng trái đất ». Lạc quan, hi vọng như Liên làm sao được. Anh chỉ còn biết hài hước
đùa vui để đêm đêm con người thực của anh thao thức, lắng nghe, cái âm thanh mà vợ
anh giả vờ không nghe : ấy là cái bờ đất lở phía bên này « cùng với con lũ nguồn đã bắt
đầu dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ. Có lúc Nhĩ thảng thốt, giật mình như bấm
đốt ngón tay : « hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ ? ». Trước những lời anh hỏi vợ và
sự im lặng của Liên, ta cảm nhận được cuộc sống buồn tẻ, chán ngắt và đầy tuyệt vọng,
cái chết đến dần với anh. Rõ ràng con người suy kiệt về thể xác nhưng lại tỉnh táo, sáng


suốt về tinh thần trong hoàn cảnh ấy rất dễ rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan, hoặc khao
khát, chiêm nghiệm về một cái gì lớn lao thuộc chân lí cuộc đời. Nhĩ ở trường hợp thứ
hai.
b. Cảm nhận của Nhĩ về Liên (vợ anh).
- Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm
vuốt ve bên vai của anh, và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh
thầm lặng của vợ.

- Anh nói với chị Liên : « Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm mà em vẫn nín thinh ». Còn
Liên đã trả lời : « Có hề sao đâu, miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của

anh trong gian phòng này »..
- Nhìn vợ bước xuống cầu thang với tiếng bước chân « rón rén quen thuộc suốt cả một
đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm », anh đã xót xa vô cùng. Cái bậc gỗ ấy đã
mòn lõm, Nhĩ mới có điều kiện để lắng nghe bước chân thân thuộc ấy và nhớ đến vợ anh
thời con gái còn mặc áo nâu, chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữ thị thành mà cuộc
đời nào có khấm khá gì hơn. Điều đó không khỏi làm Nhĩ ngạc nhiên và buồn bã. Giờ
đây, anh mới thực sự thấu hiểu và biết ơn sâu sắc người vợ của mình : « Cũng như cảnh
bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo
và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày
tháng bôn tẩu tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những
ngày này »
- Thật là đau đớn với anh vì đời người sắp hết mới nhận ra sự thờ ơ của mình trong quãng
đời còn trẻ với những người thân thuộc nhất. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát hiện từ sớm
để được suốt đời trân trọng, yêu thương như tình yêu mà Quỳ đã dành cho nhân vật « anh
ấy » (Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành ). Hay nói như tác giả đã viết trong truyện


ngắn « Cỏ lau » : người chết thì đã chết (mà Nhĩ cũng đã biết mình sắp chết)… Vậy anh
hãy nói điều gì cho người sống được yên tâm. Sao Nhĩ vẫn lặng thinh ? Vẫn cứ chùng
chình, im lặng ? Nhưng dẫu sao sự thức nhận muộn màng ấy vẫn còn lấp lánh vẻ đẹp của
lương tâm bởi tuổi trẻ có phải ai cũng nghĩ ra đâu ?
c. Sự thức nhận ấy đã đọng lại trong niềm khát khao cháy bỏng của anh.
- Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông để được chiêm ngưỡng và tận
hưởng vẻ đẹp rất đỗi bình dị và gần gũi mà có một thời Nhĩ đã lãng quên nó. Sang được
bờ sông bên kia , với Nhĩ vừa là mơ ước, vừa là suy ngẫm về cuộc đời.
- Tính biểu tượng từ « cái bên kia sông » mở ra hai tầng ý nghĩa, trước hết, nó là một ước
mơ : con người ta hãy đi đến cái « bên kia sông » của cuộc đời mà mình chưa tới. Hình
ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là
con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà thôi. Muốn đến với cái thế giới mơ ước
kia đừng có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Miền đất ấy là ước mơ. Miền đất ấy cũng gợi

trong Nhĩ bao nhiêu suy ngẫm về cuộc đời có thực. Hình ảnh có thực về cuộc đời chứ
không phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh, cuộc đời có thực ấy thật nguyên
vẹn, thật dung dị « cả trong những nét tiêu sơ ».
- Thế giới ước mơ ấy chẳng qua chỉ là trong tâm tưởng của con người nên có thể nó sẽ là
một ước mơ tuyệt mĩ hoặc chẳng là cái gì cụ thể cả. Tuy vậy nó lại là cái đích mà con
người ta phải bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chưa chắc đã
đến được. Cái vùng « mơ ước tâm tưởng » ấy không phải ai cũng hiểu được nếu chưa ở
độ chín của sự từng trải hoặc quá ngây thơ. Chẳng hạn như Tuấn, con trai anh, do không
hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi nhưng không hề biết vì sao
nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ. Nó sẵn sàng và sà vào đám người chơi phá cờ thế bên
hè » là lẽ dĩ nhiên. Còn Nhĩ, khi biết thằng bé đã đi, tâm hồn anh trào dâng bao nhiêu náo
nức. Nó cũng là « một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên ». Những hành động, cử


chỉ của cậu con trai phải chăng chính là hình ảnh của Nhĩ thuở nào. Nhìn đứa con không
hiểu được điều anh nhờ nó, anh đã rút ra triết lí sâu xa đó như nỗi niềm đau đớn pha lẫn
sự ân hận của riêng anh : « con người ta trên đường đời khó tránh được những cái điều
vòng vèo và chùng chình »

- Đó là triết lí của một người đã trải nghiệm « Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng
in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp
của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia », đã có ước muốn xa vời mà cuộc đời
khi còn trẻ vô tình bỏ qua những cái bình dị ngay bên ta. Vậy là không phải triết lí của
một mà của hai thế hệ anh nhìn thấy nên nó có tính chất quy luật tâm lí của con người.
Hiểu được triết lí ấy ta mới hiểu được ý tưởng sâu xa của tác giả như muốn khuyên mỗi
chúng ta đừng lãng phí thời gian vào những điều vòng vèo chùng chình mà cần trân trọng
những giá trị bền vững, những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời ở ngay bên ta.
d. Hành động cuối truyện :
- Đây là hình ảnh cuối cùng của nhân vật để lại một ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc trong
lòng người đọc. Tác giả miêu tả một nét chân dung khác thường với một cử chỉ cũng rất

khác thường của nhân vật. Giờ đây, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời,
Nhĩ mới thấm thía. ». Phát hiện ra cuộc đời ở chiều sâu, được đi tìm nó đối với Nhĩ là
một sự hồi hộp vô biên. Cho nên hai con mắt của con người say mê và đau khổ ấy sáng
lên « long lanh » một cách khác thường. Anh đang cố gắng bấu chặt tay vào cửa sổ như
bám chặt lấy niềm hạnh phúc cuối cùng. Anh run lên trong nỗi xúc động, nỗi mê say đầy
đau khổ. Phải chăng lúc này, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như tờ giấy ?
Phải chăng anh đang cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời người ? Thời gian không thể
chờ đợi anh thêm một chuyến đò khác ! Vì thế anh lấy hết sức « đu mình, nhô người ra
ngoài cửa sổ » như để được đến gần hơn với miền đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như


khẩn thiết ra hiệu cho con trai hãy tiến lên thực hiện niềm mong ước cuối cùng này của
mình hay như muốn chạm vào, muốn với đến miền đất mơ ước ? Cánh tay vẫy vẫy đó
cũng như đang vẫy chào con đò, tạm biệt con đò quen thuộc đã chở nặng mơ ước của
Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang sông trong tâm tưởng, với niềm mê say đầy đau khổ với quê
hương, với cuộc sống. Cái vẫy tay ấy như lời vĩnh biệt của anh, vĩnh biệt tất cả những gì
là thân thuộc, gần gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của đời sống mà nhiều khi những bận rộn
lo toan, mục đích của cuộc sống đã che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi
nhận ra thì cũng là lúc anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa, day dứt của
Nguyễn Minh Châu tới tất cả chúng ta : hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều
vòng vèo, chùng chình, những cám dỗ, hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt
đẹp, hãy dứt khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi và bền
vững của gia đình và quê hương.
3. Ý đồ của nhà văn khi xây dựng nhân vật Nhĩ :
- Nhân vật Nhĩ trong truyện cũng như nhiều nhân vật khác trong truyện của « Nguyễn
Minh Châu sau năm 1975 là kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, nghĩ suy để tự
nhận thức chính mình, tự nhận thức về cuộc đời. Tác giả đã gửi gắm qua nhận vật nhiều
điều quan sát, suy ngẫm, triết lí : nhân vật Nhĩ không đại diện cho một ai mà là cho tất cả.
Chính những chiêm nghiệm, những triết lí đã được chuyển hoá vào trong đời sống nội
tâm của nhân vật thông qua những diễn biến của tâm trạng, dưới sự tác động của hoàn

cảnh đã được miêu tả tinh tế, hợp lí làm cho tác phẩm mang tính luận đề một cách tự
nhiên mà sâu sắc.
C. Kết luận.
- Có thể nói Nguyễn Minh Châu đã rất thành công khi miêu tả tinh tế tâm trạng, cảm nghĩ
của nhân vật Nhĩ. Nhà văn đã đặt nhân vật vào trong những tình huống đầy nghịch lí để
khắc hoạ tính cách, tư tưởng và để thể hiện cái triết lí về cuộc đời.


- Từ những « nhận thức đau đớn và sáng ngời » của Nhĩ, người đọc nhận ra một triết lí
sâu sắc ở đời : Con người trên đường đời thường mắc phải cái vòng vèo hoặc chùng
chình ». Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trọng những giá trị và vẻ đẹp
bình dị, đích thực và bền vững của cuộc sống, của quê hương ».
- Mỗi chúng ta hãy luôn tự ngẫm về mình, ngẫm về cuộc đời và những hành động của
mình trong lúc chưa quá muộn.



×