Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Tài liệu tham vấn tâm lý 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.87 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM- ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA TÂM LÝ – GIÁO DỤC

TÀI LIỆU BÀI GIẢNG

THAM VẤN TÂM LÝ

Đà Nẵng, 2017
1


Bài 1
TỔNG QUAN VỀ THAM VẤN
I. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA
THAM VẤN
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm tham vấn
Mỗi con người trong cuộc đời đều có thể gặp phải khó
khăn về sức khoẻ, công việc, tài chính, quan hệ xã hội… Trong
những tình huống đó có một số người rơi vào tình trạng mất cân
bằng tâm lý khiến họ có những cảm xúc, suy nghĩ, hành vi
không hợp lý và sự hoà nhập xã hội của họ gặp nhiều trở ngại.
Trong bối cảnh như vậy, họ đã không tự giải quyết được vấn đề
và phải cần sự trợ giúp từ bên ngoài. Ban đầu sự trợ giúp đó
mang tính tự phát, sau này trở nên khoa học hơn với tên gọi là
tham vấn (Tiếng Anh là Counseling).
Có rất nhiều các khái niệm về tham vấn đã được đưa ra.
Nhưng dù tiếp cận ở góc độ nào, các nhà chuyên môn đều đề cập
tới một số đặc trưng của tham vấn, đó là:
- Tham vấn là một quá trình
- Hoạt động tham vấn nhằm giúp con người tự giải quyết


vấn đề của chính họ.
- Thông qua tham vấn con người có khả năng nâng cao,
khả năng thích nghi và cải thiện cuộc sống.
- Nhà tham vấn cần được đào tạo, và trang bị kiến thức, kỹ
năng và thái độ nghề nghiệp tham vấn.
Từ những đặc trưng trên, ta có thể đi đến khái niệm tham
vấn như sau:
“Tham vấn là một quá trình trợ giúp tâm lý, trong đó nhà
tham vấn sử dụng kiến thức, kỹ năng chuyên môn và thái độ
2


nghề nghiệp để thiết lập mối quan hệ tương tác tích cực với thân
chủ nhằm giúp họ nhận thức được hoàn cảnh vấn đề để thay đổi
cảm xúc, suy nghĩ và hành vi và tìm kiếm giải pháp cho vấn đề
của mình”.
Đối tượng tác động trong tham vấn có thể là cá nhân, gia
đình hay nhóm người có cùng vấn đề hay mối quan tâm.
1.2. Phân biệt tham vấn với tư vấn
Tư vấn là một quá trình mà cá nhân dựa trên hiểu biết của
mình về một lĩnh vực nào đó đưa ra những hướng dẫn, chỉ bảo,
lời khuyên.
Giữa tham vấn và tư vấn có sự khác biệt rất cơ bản. Nếu tư
vấn hướng tới việc trả lời các tình huống nhằm giải quyết vấn đề
của người hỏi thì tham vấn là quá trình thu thập thông tin giúp cá
nhân tự tìm ra vấn đề và đề xuất giải pháp giải quyết. Mối quan
hệ của tư vấn là mối quan hệ của người uyên bác với nhiều thông
tin chuyên môn chuyên sâu với một người cần thông tin để giải
quyết vấn đề của chính họ. Ngược lại, mối quan hệ của tham vấn
là mối quan hệ ngang bằng, bình đẳng, đòi hỏi có sự tương tác rất

chặt chẽ và sự hợp tác tích cực giữa nhà tham vấn và thân chủ. Sự
thành công của tư vấn là do năng lực chuyên môn của người tư
vấn. Song với tham vấn, sự thành công lại được quyết định bởi kỹ
năng tương tác giữa nhà tham vấn và thân chủ.
2. Mục đích, ý nghĩa của tham vấn
2.1. Mục đích
Bản chất của tham vấn không phải là cho lời khuyên mà là
hoạt động nâng cao năng lực. Nó không chỉ giúp thân chủ có khả
năng giải quyết được vấn đề gặp phải trong cuộc sống mà còn
giúp họ phát triển khả năng đó. Hoạt động tham vấn có nhiều
mục đích khác nhau.
Xét một cách cụ thể hoạt động tham vấn nhằm:
- Giảm bớt cảm xúc tiêu cực trong hoàn cảnh khó khăn.
- Tăng cường hiểu biết về bản thân và nguồn lực của
3


chính mình.
- Giải quyết được vấn đề tâm lý xã hội đang tồn tại.
- Nâng cao sự tự tin, biết cách đưa ra những quyết định
lành mạnh và đưa ra những quyết định đó.
- Tăng cường khả năng ứng phó với hoàn cảnh có vấn đề
tại thời điểm đó cũng như trong tương lai.
Mục đích của tham vấn không phải là giúp đối tượng có lời
khuyên về giải pháp mà là giúp họ tăng cường hiểu biết về bản
thân, về môi trường xung quanh, từ đó thay đổi cảm xúc, thay
đổi hành vi tiêu cực. Tham vấn giúp cá nhân và gia đình tăng
cường khả năng giao tiếp, khả năng phân tích vấn đề, đưa ra giải
pháp hợp lý và thực hiện giải pháp một cách có hiệu quả. Nói
một cách ngắn gọn, tham vấn hướng tới giúp thân chủ hiểu được

suy nghĩ, cảm xúc và hành vi, từ đó có khả năng đưa ra quyết
định và thực hiện giải pháp làm nền tảng cho việc nâng cao chức
năng xã hội của cá nhân và gia đình.
2.2. Ý nghĩa
Hoạt động tham vấn giúp cá nhân và gia đình giải tỏa được
những cảm xúc tiêu cực, giúp họ trở nên sáng suốt hơn, có lý trí
hơn để nhìn nhận vấn đề và hoàn cảnh thực tại, từ đó đưa ra giải
pháp phù hợp nhất với điều kiện của mình.
Xã hội càng phát triển bao nhiêu thì các vấn đề tâm lý càng
trở nên phức tạp bấy nhiêu. Điều đó có nghĩa là các cá nhân và
gia đình phải đối mặt với chúng thường xuyên hơn trong cuộc
sống. Có những trường hợp khi cá nhân hoặc gia đình rơi vào tình
huống căng thẳng, họ đã vô cùng lúng túng và tìm đến những giải
pháp tiêu cực như tự sát, bạo lực hay ly tán… Sự có mặt của các
trung tâm tham vấn tại các khu dân cư đóng vai trò như một công
cụ quan trọng, không những giúp cá nhân và gia đình giải quyết
vấn đề kịp thời mà còn giúp họ phòng ngừa những hành vi tiêu
cực có thể bột phát trong tình huống khủng hoảng.
Không chỉ dừng lại ở mục đích giải quyết vấn đề, tham vấn
4


còn hướng tới việc giúp cá nhân tăng cường kỹ năng sống, biết
cách nhìn nhận vấn đề, tự tin vào chính mình. Bằng những kỹ
thuật chuyên môn, nhà tham vấn giúp thân chủ khơi dậy được
tiềm năng và sức mạnh nội tại. Đây là cơ sở để cá nhân, gia đình
không chỉ tăng cường khả năng giải quyết vấn đề đang phải đối
mặt mà còn tăng cường khả năng đối phó với những vấn đề có
thể xảy ra trong cuộc sống.
Tham vấn còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc tăng

cường khả năng thích nghi xã hội của cá nhân và gia đình.
Thông qua tham vấn, con người sẽ được bổ sung các kỹ năng
sống cũng như các kỹ năng giao tiếp xã hội, tạo nền tảng cho sự
nâng cao khả năng hoà nhập xã hội của mỗi cá nhân trong gia
đình cũng như trong cộng đồng.
Tham vấn với chức năng và nhiệm vụ đã được xác định
đang là một trong những lĩnh vực góp phần tích cực vào việc
nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, gia đình, cho
nền an sinh và sự ổn định xã hội
3. Phân loại tham vấn
3.1. Căn cứ theo nhóm đối tượng tham vấn
3.1.1. Tham vấn cá nhân
Là hình thức tham vấn được diễn ra với một cá nhân, giúp
cá nhân đó giải quyết vấn đề họ đang phải đối phó. Mối quan hệ
tương tác giữa nhà tham vấn với đối tượng là mối quan hệ 1-1.
3.1.2. Tham vấn gia đình
Tham vấn gia đình là quá trình tương tác với gia đình nhằm
giúp một hoặc nhiều thành viên trong một gia đình giải quyết
những vấn đề tâm lý xã hội của họ. Loại hình tham vấn này
được diễn ra qua các buổi làm việc thảo luận giữa các thành viên
trong gia đình, với sự điều phối của nhà tham vấn, gia đình và cá
nhân đưa ra và thực hiện những giải pháp cho vấn đề liên quan
tới gia đình và thành viên trong gia đình.
Mục đích của tham vấn gia đình giúp các thành viên trong
5


gia đình tăng cường giao tiếp giữa các cá nhân trong gia đình và
tăng cường liên kết gia đình.
3.1.3. Tham vấn nhóm

Tham vấn nhóm là quá trình tương tác của nhà tham vấn
với những cá nhân trong nhóm nhằm giúp họ giải quyết những
vấn đề tâm lý xã hội của mỗi cá nhân, đồng thời hỗ trợ họ phát
triển nhân cách cũng như các mối quan hệ xã hội tích cực.
Trong tham vấn nhóm, nhà tham vấn sử dụng các kỹ năng
điều phối nhóm để giúp các thành viên trong nhóm đáp ứng nhu
cầu hoặc giải quyết những vấn đề của mình thông qua sinh hoạt
nhóm.
Sự phân biệt các hình thức tham vấn trên chỉ mang tính
chất tương đối. Để giúp một cá nhân giải quyết được vấn đề nào
đó thì nhà tham vấn phải linh hoạt, khéo léo kết hợp giữa các
hình thức tham vấn để tạo được hiệu quả cao trong công việc
cũng như quá trình trợ giúp thân chủ.
3.2. Căn cứ theo hình thức can thiệp
3.2.1. Tham vấn trực tiếp
Đây là hình thức diễn ra trong sự tương tác trực tiếp giữa
nhà tham vấn và đối tượng (cá nhân, gia đình, hay nhóm người
cần tham vấn).
3.2.2. Tham vấn gián tiếp
Đó là hình thức tham vấn qua hệ thống trợ giúp như mạng,
điện thoại… Hình thức tham vấn này khá phổ biến, tuy nhiên do
hạn chế về thời gian và sự trao đổi gián tiếp nên thường diễn ra
với khoảng thời gian ngắn và sự tương tác giữa hai phía không
được sâu sắc như tham vấn trực tiếp.
II. MỐI QUAN HỆ VÀ MỘT SỐ NGUYÊN TẮC ĐẠO
ĐỨC NGHỀ NGHIỆP TRONG THAM VẤN
1. Mối quan hệ giữa nhà tham vấn và thân chủ trong
tham vấn
Tính chuyên môn của hoạt động tham vấn còn thể hiện
6



qua mối quan hệ tương tác giữa một bên là nhà tham vấn được
đào tạo và một bên là người cần sự trợ giúp mà người ta thường
gọi là thân chủ.
Người tham vấn có thể là nhà tham vấn chuyên nghiệp hay
bán chuyên nghiệp, được đào tạo một cách bài bản, chuyên sâu,
có chứng chỉ hành nghề tham vấn hay trị liệu và được coi là nhà
trợ giúp chuyên nghiệp. Họ có thể là nhà tâm lý học, nhà trị liệu
hay cán bộ xã hội. Những người tham vấn bán chuyên nghiệp là
người sử dụng tham vấn như một phần trong công việc của mình
dựa trên nền tảng những kiến thức và kỹ năng tham vấn nhất
định đã được trang bị. Họ có thể là giáo viên, y tá, bác sỹ, hay
những người làm công tác phụ nữ, thanh niên, tình nguyện
viên… và thường được gọi với cái tên là người trợ giúp hay
người tham vấn không chuyên nghiệp.
Đối tượng được tham vấn có thể là một cá nhân, gia đình
hay một nhóm người. Trong tình huống có vấn đề, họ thường bị
mất cân bằng về tâm lý, khó khăn trong hòa nhập xã hội.
Mối quan hệ giữa nhà tham vấn và thân chủ là mối quan
hệ nghề nghiệp đặc biệt. Nó đòi hỏi sự bình đẳng, chân thành,
thấu hiểu đối tượng và tương tác tích cực giữa nhà tham vấn và
đối tượng vì nó là nền tảng cho việc tạo ra cảm giác an toàn và
tin tưởng để đối tượng chia sẻ, hợp tác, là công cụ để nhà tham
vấn cùng đối tượng khai phá thông tin, khơi dậy tiềm năng và
“chẩn đoán” chính xác nguồn gốc của vấn đề, từ đó có những
giải pháp hiệu quả.
2. Một số nguyên tắc đạo đức trong tham vấn
2.1. Nguyên tắc tôn trọng, chấp nhận đối tượng
- Một trong những nguyên tắc cơ bản trước tiên mà nhà

tham vấn cần phải đảm bảo đó là tôn trọng nhân phẩm của
thân chủ. Điều này thể hiện ở cách đối xử với họ như một cá
nhân với nhân cách độc lập: họ có giá trị riêng, có cách nhìn
nhận riêng và có khả năng thay đổi. Khi đến với nhà tham
7


vấn, họ có thể có những hành vi, suy nghĩ mà những người
bình thường không chấp nhận được, thậm chí còn lên án
những hành vi hay suy nghĩ đó. Tuy nhiên điều đó không có
nghĩa rằng nhà tham vấn đồng tình với điều mà họ làm, cách
mà họ nghĩ hay cách mà họ đánh giá hiện tượng và người
khác. Cần nhìn nhận rằng những hành vi, suy nghĩ tiêu cực đó
là hậu quả của một nguyên nhân nhất định chứ không phải do
chính họ gây ra. Nhiệm vụ của nhà tham vấn là giúp họ tháo
bỏ những rào cản xã hội để họ thay đổi hành vi, suy nghĩ đó
cho phù hợp với thực tiễn. Đây cũng chính là mục tiêu của
nhà tham vấn. Nhà tham vấn cần phải có lòng tin ở họ, tin
rằng họ có khả năng thay đổi. Việc chấp nhận đối tượng trong
suy nghĩ và thể hiện bằng hành vi thân thiện, không phân biệt
đối xử sẽ là yếu tố tiền đề cho sự giúp đỡ chân thành của nhà
tham vấn đối với thân chủ và vấn đề của họ. Việc chấp nhận
vô điều kiện và sự trung thực, chân thành của nhà tham vấn
với thân chủ được coi như là kỹ thuật cơ bản cho quá trình
tương tác với thân chủ, đồng thời cũng là hai trong ba điều
kiện tiên quyết cho sự thành công của quá trình giúp đỡ.
2.2. Không phán xét đối tượng
Không phán xét đối tượng thể hiện ở việc không chỉ trích
hành vi, suy nghĩ của họ, dù họ có những điều mà họ việc làm
không đúng, cách họ suy nghĩ hoặc cảm nhận là không hợp lý.

Nguyên tắc này có mối liên quan mật thiết với nguyên tắc trên.
Nhà tham vấn cần chân thành và không lên án họ khi mắc những
sai lầm. Việc chấp nhận đối tượng đi cùng với việc không phán
xét những hành vi, suy nghĩ tiêu cực ở họ. Khi đối tượng đến với
nhà tham vấn, họ mong muốn được thông cảm, lắng nghe và
thấu hiểu. Đó chính là sự khác biệt của nhà tham vấn với những
người giúp đỡ thông thường, và cũng vì vậy mà họ cần sự giúp
đỡ từ nhà tham vấn chứ không phải những người khác.
2.3. Giành quyền tự quyết cho đối tượng
Trong tham vấn chuyên nghiệp, nhà tham vấn không quyết
8


định thay thân chủ mà để họ tự đưa ra quyết định, có sự lựa chọn
cách giải quyết vấn đề của riêng họ trên cơ sở những thông tin,
kết quả trao đổi với nhà tham vấn. Nhà tham vấn chỉ đóng vai
trò là người xúc tác và giúp đỡ thân chủ đưa ra các giải pháp và
lựa chọn một hướng đi phù hợp nhất với hoàn cảnh của bản thân.
Đòi hỏi nhà tham vấn cần có niềm tin vào khả năng tự giải quyết
của đối tượng, cần kiên trì với sự tiến bộ từng bước, thậm chí
thất bại của thân chủ.
Việc thân chủ tự đưa ra quyết định còn có tác dụng giúp
cho họ có trách nhiệm với lựa chọn của mình cũng như sự tham
gia tích cực vào giải quyết vấn đề. Việc không lệ thuộc của thân
chủ vào nhà tham vấn thể hiện rằng sự tự tin ở họ đã được tăng
cường. Chính điều này sẽ giúp họ học được cách thức giải quyết
vấn đề.
2.4. Đảm bảo tính bí mật
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tham
vấn. Mọi thông tin mà thân chủ chia sẻ với nhà tham vấn cần

được đảm bảo kín đáo. Nhà tham vấn không được tiết lộ những
thông tin liên quan về thân chủ với những người khác khi chưa
có ý kiến chấp thuận của họ.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt khi tính
mạng của thân chủ hay người khác bị đe dọa, nhà tham vấn có
thể trao đổi với những cơ quan hay cá nhân có liên quan mà
không cần sự chấp thuận của đối tượng (theo quy định của
pháp luật).
III. TIẾN TRÌNH THAM VẤN
1. Khái niệm
Tiến trình tham vấn là một tập hợp các hoạt động tương tác
giữa nhà tham vấn và thân chủ, trong đó nhà tham vấn sử dụng
các kiến thức, kỹ năng chuyên môn tham vấn, các giá trị đạo đức
nghề nghiệp để giúp đỡ thân chủ - người đang trong tình huống
có vấn đề để giải quyết vấn đề của họ.
9


2. Các bước của tiến trình tham vấn
Theo E. D. Neukrung, tiến trình tham vấn gồm 6 bước:
1. - Xây dựng mối quan hệ
2. - Xác định vấn đề ban đầu
3. - Hiểu sâu vấn đề hơn và xác định mục tiêu
4. - Thực hiện kế hoạch
5. - Kết thúc
6. - Theo dõi
Theo tác giả Nelson - Jones J.Richard lại đưa ra mô hình
tham vấn gồm 3 giai đoạn:
1.- Thiết lập mối quan hệ: nhà tham vấn cùng thân chủ tạo
ra mối quan hệ tin tưởng và chia sẻ làm nền tảng cho các hoạt

động tiếp theo của ca tham vấn.
2.- Hiểu biết: thông qua khai thác và chia sẻ thông tin, nhà
tham vấn và đối tượng dần hiểu rõ vấn đề (tình huống có vấn
đề).
3.- Thay đổi: nhà tham vấn giúp đối tượng thay đổi cách
thức giao tiếp, tìm kiếm các giải pháp lựa chọn giải pháp hợp lý
và thực hiện.
Tương tự, Chalse Zastrow cũng đề xuất quá trình tham vấn
gồm 3 giai đoạn từ góc độ tham vấn, đó là:
1.- Thiết lập mối quan hệ
2.- Khám phá vấn đề
3.- Hỗ trợ đối tượng tìm kiếm các giải pháp
Nhưng dù theo cách nào thì tiến trình tham vấn đều bao
gồm các khâu cơ bản như tạo lập mối quan hệ, thu thập thông tin
nhằm xác định vấn đề và thực hiện giải pháp cho vấn đề đang
tồn đọng.
Mọi ca tham vấn bao giờ cũng phải đi đến kết thúc dù vấn
đề có được giải quyết hay không. Trong giai đoạn kết thúc ca
tham vấn có nhiều công việc được thực hiện nhằm giúp cho đối
10


tượng nhận biết sự thay đổi sau tham vấn, những vấn đề cần làm
tiếp theo và chuẩn bị tinh thần cho một giai đoạn mới khi không
còn sự trợ giúp của nhà tham vấn.
Lượng giá là hoạt động thường xuyên được thực hiện trong
suốt quá trình tham vấn nhưng nó đặc biệt được lưu ý vào giai
đoạn cuối của quá trình tham vấn. Kết quả của hoạt động này
giúp thân chủ và nhà tham vấn xác định mức độ đạt được của
mục tiêu và làm cơ sở cho việc ca tham vấn đó có tiếp tục được

hay không, và đi theo hướng nào./.

11


Bài 2
THAM VẤN CÁ NHÂN
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THAM VẤN CÁ NHÂN
Phần lớn mọi người đều có thể gặp phải một số vấn đề
trong cuộc đời của họ về học tập, kinh tế, quan hệ gia đình, xã
hội, tình yêu, hôn nhân, sức khỏe, công việc… khi đó họ thường
có khó khăn về tâm lý và trở nên không sáng suốt để có thể tự
giải quyết được vấn đề đang phải đối mặt. Thêm vào đó họ
thường có tâm trạng bất ổn hay hành vi bất bình thường khiến họ
gặp khó khăn trong lao động, học tập, sinh hoạt hàng ngày và
hòa nhập xã hội. Thông qua sự chia sẻ và trợ giúp của nhà tham
vấn - người có kiến thức, kỹ năng chuyên môn trợ giúp, sẽ giúp
cá nhân tìm lại được sự thăng bằng trong cuộc sống và làm tốt
chức năng xã hội của họ, góp phần ổn định, nâng cao chất lượng
cuộc sống của cá nhân, gia đình và xã hội.
Như vậy, tham vấn giúp cá nhân trong tình trạng có vấn đề:
- Thay đổi cảm xúc, hành vi hay suy nghĩ không hợp lý.
- Tăng cường sức mạnh để đối phó với vấn đề đang gặp
phải.
- Cải thiện mối quan hệ với những người xung quanh.
- Tìm lại sự cân bằng và ý nghĩa của cuộc sống.
- Tìm kiếm sự thích nghi xã hội.
- Đưa ra quyết định hợp lý.
Tham vấn cá nhân là quá trình trao đổi tương tác tích cực
giữa nhà tham vấn - người được đào tạo và cá nhân - người có

vấn đề mà họ không tự giải quyết được, để giúp họ thay đổi cảm
xúc, hành vi và suy nghĩ, tìm ra giải pháp cho vấn đề đang tồn
tại.
Cá nhân cần tham vấn là bất kỳ ai, có thể là nam hay nữ,
bất cứ độ tuổi nào. Tất cả số họ đều là người đang có vấn đề mà
12


không tự giải quyết được và cần tới sự trợ giúp của người bên
ngoài, trong đó có sự trợ giúp mang tính chuyên môn đó là sự
can thiệp của nhà tham vấn.
II. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VÀ CÁCH TIẾP CẬN
TRONG THAM VẤN
1. Lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow
Abraham Maslow cho rằng, con người cần được đáp ứng
những nhu cầu cơ bản để tồn tại và phát triển, đó là nhu cầu thể
chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu tình cảm xã hội (tình yêu
thương), nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được hoàn thiện.
Ông cho rằng các nhu cầu này được sắp xếp theo thứ tự
bậc thang, từ nhu cầu cơ bản nhất, có vị trí nền tảng và ý nghĩa
quan trọng nhất với con người tới nhu cầu cao hơn và ở vị trí thứ
bậc tiếp theo. Vì vậy người ta còn gọi lý thuyết của ông là bậc
thang nhu cầu, gồm:
- Nhu cầu thể chất (nhu cầu sinh lý)
- Nhu cầu an toàn
- Nhu cầu tình cảm xã hội
- Nhu cầu được tôn trọng
- Nhu cầu được hoàn thiện và phát triển
Đó là nhu cầu được đến trường, được nghiên cứu, lao động
và sáng tạo để phát triển toàn diện. Sau khi tiến hành một nghiên

cứu trên nhóm người mà ông cho là đã đạt được sự phát triển
tương đối hoàn chỉnh, ông đưa ra một số nhu cầu này như: lý
tưởng, tính thực tế trong cuộc sống, tinh thần đồng đội, nhu cầu
về sự riêng tư cá nhân, nhu cầu về sự độc lập và khả năng kiểm
soát bản thân, lòng tin và sự dân chủ… Nhu cầu này được
Abraham Maslow cho là nhu cầu có ý nghĩa quan trọng song
chúng được xếp ở bậc thang cuối cùng bởi nó chỉ được đề cập
tới khi những nhu cầu cơ bản ở các bậc thang nền tảng đã được
đáp ứng.
13


2. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển của Erik
Erikson
Erik Erikson - nhà tâm lý học phân tâm đánh giá cao tác
nhân xã hội với sự phát triển tâm lý con người. Ông phân chia
đời người thành 8 giai đoạn. Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi
một dạng tâm lý xã hội xuất phát từ sự xung đột giữa nhu cầu
của cá nhân và yêu cầu của xã hội. Nếu khủng hoảng này được
giải quyết nó sẽ là tiền đề cho sự phát triển tâm lý của cá nhân,
cho sự chuyển hóa lên một trình độ phát triển mới trong giai
đoạn tiếp theo. Ngược lại, nếu con người thất bại trong giải
quyết xung đột đó thì sự thất bại này sẽ gây nên những rối loạn
trong những giai đoạn về sau.
2.1. Giai đoạn 1: Tin tưởng và không tin tưởng (0 tới 1,5
tuổi)
Trong giai đoạn này trẻ có quan hệ chủ yếu là với bố, mẹ
đặc biệt là người mẹ và mọi người trong gia đình. Sự quan tâm
chăm sóc của bố, mẹ tạo nên cho trẻ lòng tin, cảm giác được
thỏa mãn. Sự phát triển trí tuệ của trẻ thông qua tìm hiểu thế giới

bằng cảm giác vận động. Trong giai đoạn này trẻ rất cần tới tình
yêu thương của bố mẹ, sự tiếp xúc thân thể với bố mẹ; đây là cơ
sở để tạo cảm giác an toàn.
2.2. Giai đoạn 2: Tự chủ >< nghi ngờ (1,5 - 3 tuổi)
Đây là giai đoạn hình thành tính tự chủ, ý thức độc lập,
mong muốn có quyền riêng ở đứa trẻ. Trong giai đoạn này, trẻ
vẫn gắn bó chặt chẽ với bố mẹ, người thân trong gia đình. Tuy
nhiên cũng đã xuất hiện sự hợp tác với người khác mặc dù phần
lớn là giả bộ, tưởng tượng qua đồ chơi, trò chơi. Sự kiên nhẫn
với tính tò mò, bướng bỉnh và thừa nhận những cố gắng độc lập
ở trẻ là cần thiết. Những hành vi ngăn cấm và hạn chế sự thể
hiện tính độc lập của trẻ dễ nảy sinh cảm giác nghi ngờ, xấu hổ
dẫn đến nhút nhát và lệ thuộc vào người khác.
2.3. Giai đoạn 3: Khả năng khởi sự công việc >< mặc cảm
14


(3 - 6 tuổi)
Giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn của óc sáng kiến giai đoạn của sự sáng tạo, bởi trẻ khá tò mò muốn tìm hiểu thế
giới xung quanh bằng nhiều con đường. Chính vì vậy chúng
thường có những trò chơi nguy hiểm, hay đặt ra nhiều câu hỏi
“tại sao?”. Cần động viên, khuyến khích trí tưởng tượng, tò mò
của trẻ dưới sự kiểm soát của người lớn và tạo cơ hội cho sự
phát triển trí sáng tạo. Nếu không được khuyến khích, không có
cơ hội để khám phá, trẻ sẽ không biết làm, có xu hướng rụt rè và
cảm giác tội lỗi.
2.4. Giai đoạn 4: Siêng năng >< kém cỏi (6 - 12 tuổi)
Trẻ ở giai đoạn này thường cần cù, chăm chỉ, hào hứng tiếp
thu những kỹ năng mới. Chúng thích tham gia vào các hoạt động
thi đua, cạnh tranh. Quan hệ của trẻ với bạn bè bắt đầu chiếm tỷ

trọng lớn. Cơ thể của trẻ phát triển chưa cân đối, sự phối hợp
chân tay chưa nhịp nhàng và ăn khớp. Không nên la mắng trẻ
mà hãy khích lệ trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động nhóm,
để trẻ có cơ hội học hỏi và đây là tiền đề cho việc hình thành
cảm giác thành công của trẻ.
2.5. Giai đoạn 5: Bản sắc >< sự lẫn lộn về vai trò (vị
thành niên)
Giai đoạn này cơ thể trẻ đã phát triển nhanh, cân đối dần và
đây là thời kỳ quá độ từ trẻ em sang người lớn. Một mặt trẻ đang
muốn thể hiện sự “người lớn” ở mình nhưng đôi khi cũng có
những biểu hiện thoái bộ về thời nhỏ. Quan hệ xã hội của trẻ hầu
hết là hướng tới quan hệ với bạn bè cùng lứa tuổi và được chúng
coi trọng hơn cả so với quan hệ trong gia đình. Trong ứng xử với
trẻ ở lứa tuổi này cần cảm thông với những xử sự đôi khi mang
tính trẻ con của trẻ, đồng thời tạo điều kiện để trẻ cảm nhận sự
tôn trọng. Trẻ vị thành niên rất cần có sự hướng dẫn để phát triển
khả năng suy luận và xử lý những khó khăn một cách đúng đắn,
cũng như giúp đỡ tham vấn kịp thời khi trẻ rơi vào tình trạng có
15


vấn đề.
2.6. Giai đoạn 6: Gắn bó >< cô lập (mới trưởng thành)
Đây là lứa tuổi thanh niên và bước vào giai đoạn trưởng
thành. Erik Erikson xem đây là tuổi của yêu thương và lao động,
của học hành và lập nghiệp. Trong giai đoạn này, khả năng độc
lập, tự chủ, ý chí tự lực, tinh thần trách nhiệm của cá nhân là khá
cao.
Tình yêu thương từ những giai đoạn trước là cơ sở quan
trọng cho sự phát triển nhân cách ở các giai đoạn tiếp theo.

2.7. Giai đoạn 7: Sáng tạo >< ngừng trệ (trung niên)
Ở lứa tuổi này phần lớn cá nhân đã có sự hoàn thiện về gia
đình, nghề nghiệp, quan hệ xã hội. Những người ở lứa tuổi này
đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm sống cũng như kinh nghiệm
trong công việc. Vì vậy, đây được coi là giai đoạn của tư duy
sáng tạo, của sự hoàn thiện với tính độc lập cao, khả năng tự chủ
và sự cống hiến cho khoa học kỹ thuật cũng như cho gia đình và
xã hội. Nếu như cá nhân nào trong giai đoạn này chưa đạt được
các yêu cầu về gia đình, xã hội và nghề nghiệp, thì họ thường rơi
vào tình trạng ngưng trệ, thường có cảm giác như không có khả
năng làm được việc gì đó quan trọng cho bản thân, gia đình và
xã hội.
2.8. Giai đoạn 8: Hoàn thành >< thất vọng (cao tuổi)
Khi đã vào giai đoạn này con người thường có những
thay đổi lớn theo hướng giảm sút về sức khỏe, về thu nhập và
các mối quan hệ xã hội. Việc con cái trưởng thành, lập gia
đình và sống độc lập, hay chấm dứt lao động để về hưu dễ làm
họ có cảm giác hụt hẫng, thậm chí cảm thấy cô đơn, lo lắng.
Nếu người già mãn nguyện với những gì họ đã đạt được ở giai
đoạn trước thì họ dễ dàng chấp nhận những giảm sút về sức
khỏe, thu nhập và địa vị xã hội. Ngược lại, những người thấy
mình chưa làm được nhiều điều, chưa hoàn thành “nghĩa vụ”
đối với gia đình và xã hội khi về già họ thường kém thích nghi
16


với những thay đổi, quá trình lão hóa ở họ diễn ra nhanh hơn
và họ thường hối tiếc về quá khứ. Do vậy sự trợ giúp đối với
người già là tạo điều kiện để họ có cảm giác an toàn, mối quan
hệ tôn trọng, bầu không khí gia đình hòa thuận và sự quan tâm

đúng mực của xã hội.
3. Cách tiếp cận phân tâm
Đại diện của cách tiếp cận này là Sigmund Freud (1856 1939), người sáng lập ra lý thuyết phân tâm học vào cuối thế
kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Trong lý thuyết của ông, con người
tiếp tục thỏa mãn những mong muốn của họ theo cách mà họ
tương tác với người khác trong quá khứ hay cách mà họ thỏa
mãn những mong muốn của mình thời thơ ấu. Những vấn đề
quan trọng được đề cập tới trong lý thuyết của Sigmund Freud
như sau:
3.1. Bản năng
- Bản năng sống: là sự đói, khát, tình dục. Những bản
năng này định hướng hành vi của con người tới những hành
động để duy trì giống nòi cũng như trong cuộc sống của mỗi
người.
- Bản năng chết: là những bản năng hướng tới sự phá bỏ,
tiêu diệt cuộc sống. Những hành vi gây thương tích, tự hủy
hoại bản thân ở con người… được coi là bản năng chết của
con người.
3.2. Các cơ chế tự vệ
Các cơ chế tự vệ có vai trò bảo vệ con người khỏi những lo
âu phát sinh bởi những mâu thuẫn giữa các yếu tố bản năng, bản
ngã và siêu ngã.
Các cơ chế tự vệ bao gồm:
- Sự dồn nén: Kiềm chế những lo lắng lại, che giấu không
để lộ ra ngoài.
- Sự phóng chiếu: Chuyển những cảm xúc của mình lên
người khác.
17



- Sự chối bỏ: Từ chối, không chấp nhận những lo lắng, sợ
hãi đang tồn tại trong bản thân.
- Sự thoái bộ: Thoái lui về giai đoạn trước, có những hành
vi thuộc về lứa tuổi trước đó (hiện tượng trẻ con hóa).
- Sự tạo lập hành động (phản ứng): Chuyển những cảm
xúc lo âu thành hành động.
- Sự phá bỏ: Chuyển cảm xúc lo âu thành sự hung dữ.
- Sự thăng hoa: Chuyển lo âu, sợ hãi thành các sản phẩm
có ích cho xã hội.
- Sự mơ mộng: Thỏa mãn những mong muốn trong giấc
mơ.
4. Cách tiếp cận lấy thân chủ làm trọng tâm
Cách tiếp cận lấy thân chủ làm trọng tâm được ra đời và
phát triển vào những năm cuối của thập kỷ 40 thế kỷ XX.
Lý thuyết này cho rằng cá nhân có khó khăn tâm lý xã hội
là do họ tập nhiễm những cách ứng xử không phù hợp. Họ cần
được giúp đỡ để phát triển tiềm năng tâm lý một cách hiệu quả.
Nhiệm vụ của nhà tham vấn trong quá trình giúp đỡ là hỗ trợ họ
tháo bỏ những rào cản trong môi trường xã hội, giúp họ hiểu
được chính mình, chấp nhận hoàn cảnh và tự điều chỉnh bản
thân để đạt được trạng thái cân bằng.
Trị liệu thân chủ trọng tâm dựa trên quan điểm tích cực của
con người rằng mỗi thân chủ luôn vận động để hoàn thiện bản
thân. Do vậy trong quá trình tham vấn, nhà tham vấn cần chú
tâm vào thân chủ.
Mục đích lớn nhất của tương tác là phải tạo ra được bầu
không khí an toàn và tin tưởng, giúp họ tự khám phá bản thân, tự
ý thức được hoàn cảnh, vấn đề và tiềm năng của mình. Điều này
giúp thân chủ thích nghi hơn với hoàn cảnh hiện có.
Nhiệm vụ của nhà tham vấn là giúp thân chủ nhận biết

được tiềm năng của chính mình, đồng thời giúp họ có được môi
18


trường thuận lợi để sự hiện thực hóa những tiềm năng đó thông
qua việc cải thiện môi trường xã hội của thân chủ.
Sự thành công của quá trình can thiệp là phụ thuộc vào tính
chất của mối quan hệ được thiết lập giữa nhà tham vấn với thân
chủ và nó có những đặc điểm sau:
- Sự chân thành và sẵn sàng giúp đỡ từ phía nhà tham vấn.
- Thân chủ đang trong tình trạng có vấn đề và có nhu cầu
cần sự trợ giúp.
- Nhà tham vấn thực sự muốn tham gia vào sự can thiệp.
- Nhà tham vấn có cái nhìn tích cực đối với thân chủ.
- Nhà tham vấn phải hiểu thấu đáo cảm xúc, suy nghĩ, cách
nhìn của thân chủ.
- Sự tương tác với thân chủ mang tính thấu hiểu và tự tôn
trọng.
Với mối quan hệ trên, nhà tham vấn có thể giúp thân chủ:
- Trải nghiệm và hiểu được những tác nhân vô thức đang
đè nén.
- Tăng cường sự tự tin và tự chủ hơn.
- Trở nên thành thực và hành động tích cực hơn.
- Cởi mở và sẵn sàng chia sẻ.
- Hiểu người khác và chấp nhận người khác.
- Học cách đương đầu với vấn đề quan trọng trong cuộc
sống.
5. Cách tiếp cận hành vi
Lý thuyết cho rằng, hành vi của con người có thể thay đổi,
điều chỉnh qua học tập có điều kiện. Vì vậy tham vấn theo cách

tiếp cận hành vi tập trung chủ yếu vào việc thay đổi hành vi hiện
tại và tạo lập chương trình hành động. Mục đích là giúp thân chủ
có những khuôn mẫu hành vi hợp lý thay thế cho những hành vi
có vấn đề. Tuy nhiên có thể thay đổi hành vi cũ, thiết lập một hệ
thống hành vi mới cần có một quá trình với những tác động tích
19


cực theo trình tự:
- Tiếp xúc, trò chuyện với thân chủ để tạo lập mối quan hệ.
- Xác định những hành vi bất thường và phân loại đánh giá
mức độ vấn đề của thân chủ.
- Xác định rối nhiễu, hành vi ưu tiên cần can thiệp.
- Can thiệp những yếu tố tác động.
- Tiến hành can thiệp.
- Đánh giá sau can thiệp.
III. QUY TRÌNH THAM VẤN CÁ NHÂN
1. Giai đoạn: Tạo lập mối quan hệ và lòng tin
Tham vấn viên phải tạo được lòng tin của thân chủ đối với
mình.
Đây được xem như một trong những yếu tố tiền đề cho quá
trình tương tác giữa nhà tham vấn và thân chủ. Hoạt động hợp
tác sẽ không diễn ra được khi mối quan hệ thân thiện chưa được
thiết lập, chưa có sự sẵn sàng hợp tác của thân chủ. họ mới sẵn
sàng chia sẻ thông tin, cũng Chỉ khi nhà tham vấn tạo dựng được
niềm tin thì họ mới trở nên tự tin trong ra quyết định và thực
hiện những quyết định của mình.
Để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với thân chủ nhà tham
vấn cần:
- Tạo ra bầu không khí thoải mái giúp người được tham

vấn cảm thấy an toàn để nói ra những khó khăn của họ, chấp
nhận những cảm xúc của họ.
- Ngay bước đầu, nhà tham vấn cần nhận thức được rằng
thân chủ là người có khả năng tự giúp chính mình.
- Cần bình tĩnh, không đùa cợt hoặc tỏ ra lo sợ khi mà thân
chủ bắt đầu kể về vấn đề của họ.
- Không phán xét và bình luận hay lên án đạo đức đối với
thân chủ. Tôn trọng các giá trị, quan điểm của thân chủ và tránh
tranh luận sự khác biệt các giá trị của thân chủ với các quan
20


điểm giá trị của nhà tham vấn. Vì các quan điểm của nhà tham
vấn chưa chắc đã tốt và phù hợp cho người khác trong những
tình huống khác nhau. Hãy để họ tự quyết định quá trình các
hoạt động sau khi đã khám phá vấn đề và các giải pháp có thể.
- Thể hiện sự bình đẳng với thân chủ.
- Sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu.
- Âm giọng cần tỏ ra thấu hiểu và hiểu biết, quan tâm tới
cảm xúc của thân chủ, không bắt chước âm điệu của thân chủ.
- Giữ bí mật điều mà thân chủ trao đổi. Nếu họ thấy rằng
những riêng tư của họ bị xâm phạm thì quan hệ với nhà tham
vấn sẽ bị ảnh hưởng.
- Nếu tham vấn cho người thân, người quen như họ hàng,
bạn bè thì không có lợi vì thiếu tính khách quan và bị ảnh hưởng
bởi tâm trạng, cảm xúc cá nhân. Trong những trường hợp này
nên đưa họ tới nhà tham vấn khác để có sự trợ giúp.
2. Giai đoạn: Xác định vấn đề - giúp thân chủ phát hiện
vấn đề đang tồn tại đối với họ
Sau khi đã tạo lập được mối quan hệ, nhà tham vấn cần thu

thập đầy đủ các thông tin về thân chủ, về vấn đề của thân chủ
cũng như các thông tin có liên quan. Các thông tin nền tảng là
sức khỏe, tình trạng tâm thần, tiểu sử gia đình, các mối quan hệ
xã hội như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…
Việc khai thác những suy nghĩ cảm xúc của thân chủ
không những giúp nhà tham vấn phát hiện được nguồn gốc của
vấn đề mà còn giúp thân chủ tự hiểu được chính họ và vấn đề
thực tế của họ.
Một thông tin quan trọng không thể bỏ qua và đóng vai
trò như một định hướng cho sự can thiệp đó là nhu cầu, mong
muốn của thân chủ, tiềm năng sẵn có của họ. Một trong những
nguyên tắc trong can thiệp là bắt đầu từ thân chủ, do vậy những
thông tin này có ý nghĩa quan trọng đối với việc hỗ trợ thân chủ,
lựa chọn giải pháp phù hợp nhất với điều kiện và hoàn cảnh của
21


họ.
Cách xác định vấn đề của nhà tham vấn với thân chủ gồm
các bước sau:
- Xác định một cách tổng thể các hành vi không bình
thường của thân chủ.
- Nhóm những vấn đề đó lại một cách logic.
- Nhóm các vấn đề đó theo hướng sâu hơn
- Thu hẹp các nhóm dấu hiệu theo những khó khăn nhất
dựa trên các định hướng tiếp cận.
Một số gợi ý cho các nhà tham vấn trong quá trình giúp đỡ
thân chủ thăm dò và khám phá vấn đề:
- Cần khám phá chiều sâu của vấn đề và tránh vội vàng đưa
ra những giải pháp ngay khi thân chủ mới đang trình bày khó

khăn của họ.
- Khi khám phá chiều sâu của vấn đề, nhà tham vấn và thân
chủ cần đề cập tới mức độ của vấn đề, thời gian tồn tại, nguyên
nhân, cảm xúc của thân chủ về vấn đề của họ, các khả năng về
sức khỏe, tâm sinh lý và những điểm mạnh.
- Trong tình huống có nhiều vấn đề, nhà tham vấn phải
xem xét vấn đề nào nên giải quyết trước, vấn đề nào giải quyết
sau.
- Thể hiện sự thấu hiểu (thấu cảm) chứ không phải thông
cảm.
- Tin tưởng vào thân chủ.
- Khuyến khích thân chủ cung cấp thông tin nhưng cần hợp
lý về thời gian và tâm trạng của thân chủ.
- Sử dụng những câu hỏi thăm dò mang tính trung lập.
- Tóm tắt lại những điều thân chủ đang nói.
- Phản hồi lại những cảm xúc.
- Tiếp cận những vấn đề không tế nhị một cách tế nhị.
- Khi chỉ ra những nhược điểm của thân chủ, cũng nên
22


nhắc tới những điểm tốt của họ.
- Chú ý tới những phản ứng phi ngôn ngữ như cử chỉ, nét
mặt, điệu bộ, tư thế, giọng nói, âm điệu.
- Chú ý lắng nghe những vấn đề thân chủ đang trình bày.
3. Giai đoạn: Lựa chọn giải pháp
Thân chủ luôn có quyền tự quyết định hướng đi của họ.
Tự lựa chọn một trong số những phương án được đưa ra. Chỉ
chính khi thân chủ quyết định giải pháp cho bản thân thì họ mới
có trách nhiệm với lựa chọn đó và tham gia tích cực để theo đuổi

giải pháp đó. Bên cạnh đó nó còn tránh được nguy cơ ỷ lại ở
thân chủ hay sự đổ lỗi cho nhà tham vấn nếu như giải pháp đó
không thành công.
Vai trò của nhà tham vấn là hỗ trợ thân chủ làm sáng tỏ
và giúp họ hiểu được những hậu quả có thể của mỗi phương án
mà họ đưa ra, chứ không phải là đưa ra lời khuyên hoặc chọn
giải pháp thay cho thân chủ.
Quá trình tham vấn là quá trình làm cùng với thân chủ
chứ không phải làm thay với cho thân chủ.
Quyền tự quyết của thân chủ sẽ không thực hiện được
trong trường hợp sự lựa chọn của thân chủ có khả năng làm tổn
thương những người khác hoặc cho chính cá nhân thân chủ. Lúc
này rất cần có sự can thiệp tức thời của nhà tham vấn dựa trên
nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp và yếu tố pháp luật.
- Cần có sự thống nhất rõ ràng, cụ thể với thân chủ. Khi
thân chủ lựa chọn một giải pháp, họ nên rõ ràng về mục tiêu,
những việc cần phải làm và làm như thế nào và ai sẽ thực hiện
mỗi phần nhỏ của công việc.
Thân chủ cần được khuyến khích tự đưa ra kế hoạch
hành động. Có khi thân chủ đồng ý làm việc gì đó nhưng sau đó
lại từ chối và không thực hiện. Nguyên nhân là do nhà tham vấn
chưa khích lệ họ xây dựng kế hoạch cụ thể với các hoạt động rõ
ràng và những điều kiện để thực hiện.
23


4. Giai đoạn: Triển khai giải pháp
Trong giai đoạn này, nhà tham vấn cần sử dụng những kỹ
năng chuyên môn để thúc đẩy tiến trình, đôi khi cũng cần phải rà
soát lại mục tiêu đã đặt ra trong giai đoạn trước. Thân chủ cần có

trách nhiệm thực hiện kế hoạch. Nhà tham vấn đóng vai trò xúc
tác và trợ giúp thân chủ giải quyết vấn đề. Khi thân chủ đạt được
mục tiêu thì họ cần được khích lệ một cách kịp thời. Đôi khi
thân chủ thiếu tự tin để thực hiện nhiệm vụ, trong trường hợp
này nên sắm vai để giúp họ diễn tập hành vi mới.
Không phải nhà tham vấn nào cũng có thể giúp được tất cả
mọi người. Nếu nhà tham vấn thấy mình không thể giúp thân
chủ được thì không nên tiếp tục ca tham vấn mà nên giới thiệu
họ tới người tham vấn khác có kinh nghiệm hơn.
5. Giai đoạn: Kết thúc
Có nhiều lý do để kết thúc ca tham vấn, đó là: Vấn đề đã
được giải quyết; thân chủ đã trưởng thành, có khả năng xử lý
những vấn đề có thể xảy ra trong tương lai, hoặc hoạt động tham
vấn không đi đến kết quả cần có sự chuyển giao sang nhà tham
vấn khác.
Một sự kết thúc có hiệu quả khi:
- Thân chủ cảm thấy thoải mái để thảo luận về việc kết
thúc.
- Thân chủ nhận thức được quá trình tương tác đang dần đi
vào kết thúc dựa trên cơ sở, mục đích đưa ra rõ ràng từ ban đầu.
- Nhà tham vấn tôn trọng sự mong muốn của thân chủ đồng
thời cảm thấy thoải mái thảo luận về vấn đề này.
- Mối quan hệ khi kết thúc vẫn cần đảm bảo tính nghề
nghiệp chứ không phải quan hệ thân mật như bạn bè.
- Thân chủ biết được họ có khả năng quay trở lại bất cứ khi
nào họ cần có sự trợ giúp của nhà tham vấn.
- Thân chủ lượng giá những gì họ đã đạt được trong quá
24



trình tương tác.
- Thân chủ sẵn sàng thảo luận những cảm xúc hẫng hụt khi
kết thúc.
Khi quá trình giúp đỡ đi vào giai đoạn kết thúc, một vấn đề
nảy sinh là thân chủ cũng như nhà tham vấn có thể cảm thấy
hẫng hụt, do vậy cả hai phía cần phải nhận thức được cảm xúc
này và có hướng xử lý. Trước hết, quá trình kết thúc cần diễn ra
từ từ để thân chủ và nhà tham vấn thích nghi dần với sự chia tay.
Thời gian cho sự kết thúc cũng là thời gian để cho nhà tham vấn
và thân chủ cùng lượng giá mức độ đạt được mục đích.
6. Giai đoạn: Theo dõi
Kết thúc quá trình giúp đỡ không có nghĩa là chấm dứt.
Thân chủ có thể quay trở lại với những vấn đề mới hoặc xem lại
vấn đề cũ của họ hoặc muốn đi vào sâu hơn nữa. Đôi khi thân
chủ quay trở lại với nhà tham vấn cũ đồng thời lại tìm kiếm
thêm một nhà tham vấn mới.
Hoạt động theo dõi là xem liệu thân chủ có quay trở lại
không, họ có cần sự chuyển giao nào nữa không và chất lượng
dịch vụ thế nào. Việc theo dõi cho phép nhà tham vấn đánh giá
được mức độ thay đổi ở thân chủ. Giai đoạn này có thể cần tới
vài tuần để đánh giá những kỹ thuật nào đó có hiệu quả và đã tạo
ra được sự thay đổi nào, những dịch vụ nào đã đưa ra mà có hiệu
quả. Kỹ thuật theo dõi có thể được thực hiện qua điện thoại, thư
từ, hoặc điều tra, phỏng vấn trực tiếp.v.v./.

25


×