Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tác động của khủng hoảng từ khu vực kinh tế chung châu âu đến hoạt động đầu tư và thị trường tài chính châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.09 KB, 11 trang )

Tác động của khủng hoảng từ khu vực kinh tế chung Châu Âu đến hoạt động đầu tư
và thị trường tài chính Châu Á.
1. Cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu đã bắt đầu như thế nào?
2. Tại sao Châu Á nên quan tâm đến cuộc khủng hoảng này của khu vực Châu Âu ?
3. Cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu ảnh hưởng như thế nào đến các thị trường tài
chính ?
4. Tại sao lợi ích trái phiếu tăng phản ứng lại cuộc khủng hoảng này và điều này hàm
chứa ý nghĩa gì?
5. Liệu cuộc khủng hoảng niềm tin của Châu Âu có lan sang Châu Á không ?
6. Bạn cho rằng: “ Đồng đô la Châu Á có thể không phải là lựa chọn đúng đắn” ?

LỜI NÓI ĐẦU
Việc Châu Âu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế làm suy thoái không chỉ
tác động tiêu cực tới kinh tế Mỹ và cả kinh tế châu Á cũng như thế giới. Không một
nơi nào được cho là miễn dịch với một "thế giới phẳng", một nền kinh tế thế giới mở
như hiện nay.
Sau khi đã hứng chịu những khó khăn từ nền khủng hoảng kinh tế từ Châu Âu,
suy giảm ở Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ, nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới Nhật Bản cũng
đang đối mặt với rủi ro bị suy thoái kinh tế sau khi kinh tế nước này giảm 3,5% trong
quý 3/2012, mức suy giảm mạnh nhất kể từ sau thảm họa động đất và sóng thần
tháng 3/2011.
Nếu tiếp tục suy giảm trong quý 4/2012 thì kinh tế Nhật sẽ chính thức suy thoái
như nền kinh tế Châu Âu và theo các nhà kinh tế, điều này là khó tránh khỏi khi
Châu Âu và Trung Quốc hiện là đối tác thương mại chủ yếu của Nhật Bản.
"Dựa vào những số liệu kinh tế, có khả năng thực tế rằng kinh tế Nhật Bản đang
ở trong giai đoạn suy thoái," .

Trang 1


Nếu nền kinh tế Châu Âu khủng hoảng trở lại đây sẽ là đợt suy thoái thứ 3 của


nhật bản kể từ năm 2008. "không có bất cứ nơi nào tránh khỏi khi suy thoái kinh tế
tại Châu Âu và nhiều nền kinh tế phát triển khác, và những bất ổn về "bờ vực tài
khóa" mỹ sẽ tiếp tục lan tới châu Á.
Có thể nói hầu hết các quốc gia đều có nợ công, dù ít hay nhiều, tạm thời hay
mãn tính. Nợ công đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển nhưng sẽ trở
thành quốc nạn khi bắt đầu gây tổn hại đến nền kinh tế. Nó có thể dẫn đến lạm phát,
làm cho quốc gia mất khả năng thanh toán và các nhà đầu tư mất niềm tin.
Hơn bao giờ hết, trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, nợ công đang là vấn đề
nóng bỏng của nhiều nước. Không chỉ các nước nghèo, đang phát triển mà ngay cả
Mỹ và một số nước đã phát triển trong Cộng đồng chung châu Âu cũng gặp phải vấn
đề này. Nhận thức được đây là một đề tài lớn, rộng và mang tính kỹ thuật, từ những
tư liệu tham khảo và sưu tầm trên các tạp chí và mạng internet, tôi làm đề tài “Tác
động của khủng hoảng từ khu vực kinh tế chung Châu Âu đến hoạt động đầu tư và
thị trường tài chính châu Á”.

1. Cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu đã bắt đầu như thế nào?
Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Hy Lạp: Chính phủ Hy Lạp phạm sai lầm trong
quản lý và không trung thực khi thông báo số liệu kinh tế trong nhiều năm. Chính sự
mất niềm tin làm cho Hy Lạp giải quyết khủng hoảng càng khó khăn. Bất kỳ quyết
định nào của chính phủ Hy lạp về giải quyết vấn đề ngân sách đều bị hoài nghi, do
đó càng khó cho giải quyết khủng hoảng. ngoài việc vốn đầu tư chạy khỏi Hy Lạp,
khoảng 30% hoạt động của nền kinh tế nước này có gian lận, 90% những người có
thu nhập cao khai thu nhậm dưới 30.000 Euro/năm nhằm tránh nộp thuế. Cả nước
Hy Lạp chỉ có 15.000 người khai thu nhập trên 100.000 Euro/năm. Bộ trưởng tài
chính Hy Lạp Papaconstantinou cho biết không ai có thể tin ở Hy Lạp chỉ có 15 000
người có thu nhập trên 100 000 Euro/năm. Bên cạnh đó, chính phủ Hy Lạp coi lĩnh
vực công là nhân tố bảo hộ chứ không phải là động lực của nền kinh tế. một vấn đề

Trang 2



liên quan đến tài chính khác của Hy Lạp là việc Nhà thờ, một trong những chủ sở
hữu quỹ đất lớn nhất quốc gia này, lại không phải trả một đồng thuế nào. Mặc dù các
nhà dân chủ xã hội đã yêu cầu Nhà thờ phải trả thuế như mọi người khác, nhưng cho
đến nay chưa thấy có biện pháp nào được đưa ra áp dụng.

Các chính phủ thu không đủ chi: các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng, khủng
hoảng nợ công ở châu Âu là do chi tiêu của các chính phủ quá lớn,thậm chí còn cho
rằng, những chính phủ đó không có trách nhiệm khi quyết định chi tiêu quá lớn so
với nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế của chính nước mình. Việc chi tiêu quá lớn đã
tạo ra thâm hụt ngân sách và khủng hoảng nợ công (lương cao cho các nhà chính trị,
công chức, hệ thống an sinh xã hội và lao động, chế độ nghỉ hưu sớm).
Vấn đề tổ chức tài chính và điều hành kinh tế của Châu Âu: Ngân hàng Trung
ương Châu Âu(ECB) cũng phản ứng chậm với các nền kinh tế khi gặp khủng hoảng.
Bên cạnh đó, nhà kinh tế học Joseph Stiglitz, người đoạt giải thưởng Nobel kinh tế
năm 2001 cho rằng, các biện pháp của các chính phủ hiện nay tập trung vào giảm
thâm hụt ngân sách nên có thể đây cũng là nguyên nhân làm gia tăng rủi ro.
Áp lực của các nhóm tài phiệt: các nhà đầu cơ, các tổ chức tài chính lớn và các
trung tâm quyền lực kinh tế kinh tế đã thuyết phục được các chính phủ chỉ điều
chỉnh thể chế chứ không áp dụng các biện pháp cải cách các thể chế. Chính phủ các
nước phải tốn nhiều tỷ Euro hỗ trợ các ngân hàng và cho các chương trình hỗ trợ
hoạt động kinh tế nhằm cứu ngân hàng và nền kinh tế không bị đổ vỡ điều này
không tránh khỏi việc nợ công gia tăng. Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân nhận
tiền với lãi suất thấm, khoảng 1%, từ các ngân hàng trung ương với mục đính cung
cấp tài chính cho các doanh nghiệp và tư nhân phát triển sản xuất nhưng lại dùng tiền
đó để mua nợ của các chính phủ với lãi suất 4% hoặc 5%.
Trang 3


Vấn đề chính sách kinh tế tự do mới: Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng

cuộc khủng khoảng hiện nay là do chính sách kinh tế tự do gây ra. Do vậy, các quốc
gia muốn thoát khỏi cần phải từ bỏ chính sách kinh tế tự do mới và chuyển sang
chính sách kinh tế của Keynes, chính sách kích cầu.
Hoạt động đầu cơ tài chính: HIện tại Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đang
phải đối mặt với hoạt động đầu cơ tài chính rất cao. Những nạn nhân tiếp theo có thể
sẽ là Aixơlen và Italia. Mục đính của đầu cơ là làm tăng lãi suất trái Phiếu chính phủ
cao nhất có thể để thu lời. Thủ tướng Hy Lạp Papandreu công bố báo cáo cho biết,
thâm hụt công của nước này năm 2009 gấp 3 lần so với mức chính phủ đã công bố
trước đó và đạt tới 12.7% GDP, nợ công sẽ hơn 120% GDP năm 2010 và 135% GDP
năm 2011. Chỉ riêng năm 2009 nợ công của Hy Lạp tăng 80 tỷ Euro, nợ nước ngoài
lên 125% GDP.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng nợ công ở châu Âu được các
chuyên gia chỉ rõ. Với từng quốc gia, đó là khả năng quản trị công yếu kém, chi tiêu
thiếu hợp lý, hoặc mất kiểm soát các hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng...
Với cả khu vực, đó là thói quen "chi nhiều hơn thu" kéo dài và hệ thống phúc lợi xã
hội ngày càng phình to. Ðể đối phó cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008,
châu Âu dễ dàng vay mượn quá mức, không tương thích tốc độ tăng trưởng kinh tế
và vì thế đẩy tình trạng thâm hụt ngân sách và mức nợ công tăng chóng mặt, vượt
khả năng kiểm soát.
Tóm lại, cuộc khủng hoảng nợ của các nước châu Âu bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân, cả bên trong lẫn bên ngoài. Âm mưu và ý đồ của giời tài phiệt tiếp tục gây áp
lực lên thị trường tài chính nhằm đầu cơ kiếm lời trong ngắn hạn. Gói cứu trợ 750 tỷ
Euro có tác dụng trong ngắn hạn, nhưng về trung hạn, nguy cơ tiềm ẩn vẫn còn cao,
vẫn còn có nghi ngờ về các món nợ công và sự bất ổn tài chính. Tình hình này có thể
ảnh hưởng đến nền kinh tế châu Âu, nhưng cũng có thể gây ra hiệu ứng đối với cả
thế giới.
2. Tại sao Châu Á nên quan tâm đến cuộc khủng hoảng này của khu vực
Châu Âu.

Trang 4



Bởi vì cuộc khủng hoảng ngân hàng tài chính đang ngày một xấu đi ở châu Âu,
cùng việc kinh tế Mỹ phục hồi chậm chạp sẽ là những yếu tố gây áp lực cho triển
vọng phát triển của châu Á.
Châu Á thực hiện rất nhiều giao dịch thương mại với châu Âu Liên minh châu
Âu ( là nhóm của 27 quốc gia thuộc khu vực sử dụng đồng euro) là nền kinh tế lớn
nhất trên thế giới, chiếm 27% GDP toàn cầu. Trong khi đó, Hoa Kỳ là 23% GDP
toàn cầu. Châu Á (trừ Nhật Bản và Australia, nhưng bao gồm cả Trung Quốc và Ấn
Độ) chiếm 18% GDP của nền kinh tế thế giới. Châu Á xuất khẩu đạt $541 tỷ đô la
vào Liên minh châu Âu trong năm 2010. Châu Âu chiếm 16% kim ngạch xuất khẩu
trực tiếp của châu Á – trước khi tính đến giao dịch thương mại trong nội bộ châu Á
mà cuối cùng là nguồn cung cấp cho nhu cầu của các nước Châu Âu (ví dụ Hàn
Quốc xuất khẩu các thành phần nguyên liệu đến Thái Lan, sau đó xuất khẩu thành
phần đến châu Âu).
Khi nhìn vào tài khoản vốn của châu Á, dễ dàng nhận thấy rằng khu vực đồng
tiền chung châu Âu là một nhà đầu tư quan trọng của châu Á trong một vài năm gần
đây – cả về các tài sản tài chính và đầu tư trực tiếp. Việc sự kiện khủng hoảng đồng
euro, các nhà đầu tư khu vực đồng tiền euro quan tâm đến vốn ở dạng tài sản có tính
thanh khoản, đồng euro, và lấy lợi nhuận bất cứ nới nào có thể, Tất cả 3 yếu tố cho
thấy sự trở về với các thị trường tài chính châu Á.
3. Khủng hoảng nợ châu Âu ảnh hưởng như thế nào đến các thị trường tài
chính ?
Khả năng lây lan đã làm cho cuộc khủng hoảng nợ châu Âu như một điểm đầu
mối quan trọng cho các thị trường tài chính thế giới trong giai đoạn 2010 – 2012.
Với những biến động thị trường năm 2008 và 2009 khá gần đây trong bộ nhớ, phản
ứng của các nhà đầu tư với những thông tin xấu từ châu Âu xảy ra nhanh chóng bán
bất cứ cái gì nguy hiểm, và mua trái phiếu chính phủ ở những quốc gia lớn nhất và
có tài chính tốt nhất. Thông thường, cổ phiếu ngân hàng châu Âu và các thị trường
châu Âu nói chung – diễn biến tồi tệ hơn nghiều so với các đối tác toàn cầu của họ

trong suốt thời gian khi cuộc khủng hoảng ở trung tâm. Các thị trường trái phiếu của
các quốc gia bị ảnh hưởng cũng thực hiện kém, vì gia tăng lãi suất có nghĩa là giá
đang giảm. Đồng thời, lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ giảm xuống mức thấp kỷ lục
trong lịch sử trong sự phản ánh của các nhà đầu tư là “ chuyến bay đến nơi an toàn”.
Trang 5


Những tháng cuối năm 2011, khủng hoảng nợ ở châu Âu vào giai đoạn nguy
hiểm, lan từ các nước vùng ngoại vi vào các nền kinh tế trung tâm Khu vực đồng
tiền chung ơ-rô (Eurozone). Các gói cứu trợ khổng lồ của Liên hiệp châu Âu (EU) và
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dành cho các nền kinh tế ngập trong nợ, như Hy Lạp, Ailen, Bồ Ðào Nha chưa đủ để dập tắt nguy cơ khủng hoảng nợ lan tới các nền kinh tế
chủ chốt của Eurozone, như Pháp,

I-ta-li-a và Tây Ban Nha. Bài toán chung là sự

giằng co giữa sức ép giảm thâm hụt ngân sách với các biện pháp thắt lưng buộc bụng
không được giải quyết đã kéo đổ chính phủ ở năm nước gồm Ai-len, Bồ Ðào Nha,
Hy Lạp, I-ta-li-a và Tây Ban Nha. Sau mười năm đưa vào lưu hành, đồng ơ-rô vốn
được coi là biểu tượng rõ nét nhất về hình mẫu hội nhập của châu Âu lại bị đem ra
mổ xẻ, thậm chí bị chỉ trích nặng nề. Liên minh tiền tệ duy nhất ở châu Âu cận kề bờ
vực phá sản, khiến nhiều người đã bàn tới các kịch bản tan rã của Eurozone với hậu
quả đủ lớn có thể gây ra sự hỗn loạn trên các thị trường tài chính.
Cuộc khủng hoảng nợ làm lộ rõ sự chia rẽ sâu sắc trong EU, sau gần 20 năm
hiệp ước EU được ký kết và là tiền đề hình thành khối ơ-rô sau này. Sức ép về nhu
cầu thống nhất chính sách tài chính chung khiến Pháp và Ðức muốn sửa đổi Hiệp
ước Li-xbon, vốn phải trải qua quá trình soạn thảo và thông qua gần một thập kỷ.
Một số quốc gia thành viên đổ lỗi cho năng lực yếu kém của một vài chính phủ kéo
cả khu vực vào vòng xoáy khủng hoảng, phải san sẻ rủi ro và chấp nhận thiệt hại từ
lỗi không do mình gây ra. Những nước nghèo ở phía đông cũng phải đóng góp cho
quỹ cứu trợ các nước giàu hơn ở phía tây ngập trong nợ nần. Ðể bảo vệ lợi ích quốc

gia, Anh đã đứng ngoài các nỗ lực chung của khối. Dù đã thông qua "công ước tài
chính" nhằm tạm thời đẩy lùi nguy cơ sụp đổ đồng ơ-rô, nhưng Hội nghị cấp cao EU
đầu tháng 12 vẫn bỏ lỡ "cơ hội cuối cùng" nhằm cải cách triệt để một "châu Âu
thống nhất"...

4. Tại sao lợi tức trái phiếu tăng phản ứng lại cuộc khủng hoảng này và
điều này hàm chứa ý nghĩa gì ?

Trang 6


Lý do cho lãi suất trái phiếu tăng cao rất đơn giản : nếu các nhà đầu tư nhìn thấy
nguy cơ cao liên quan đến việc đầu tư vào trái phiếu của một quốc gia, họ sẽ đòi lợi
nhuận cao hơn để bù đắp cho rủi ro đó. Điều này bắt đầu một vòng lẩn quẩn, đòi hỏi
lãi suất cao hơn tương đương với chi phí đi vay cao hơn cho quốc gia trong cuộc
khủng hoảng, dẫn đến căng thẳng tài chính hơn nữa, khiến các nhà đầu tư yêu cầu lãi
suất thậm chí còn cao hơn, và cứ tiếp tục như vậy. Một mất mát chung cho niềm tin
của các nhà đầu tư thường gây ra ảnh hưởng không chỉ cho quốc gia đang bàn đến
mà còn quốc gia khác có nền tài chính yếu tương tự -một hiệu ứng thường được gọi
là “lây lan”.
5. Liệu cuộc khủng hoảng niềm tin của Châu Âu có lan sang Châu Á
không ?
Nhà phân tích tín dụng của Standara & Poor, Elena Okorotchenko nói, “Kênh
chính của sự lây lan là chi phí tài trợ cao hơn. Điều đó nói rằng, chúng tôi không kỳ
vọng mức độ suy giảm như nhau cho các điều kiện tài trợ đối với các nước châu Á”.
“Trong số các nước châu Á với gánh nặng nợ tương đối cao, Nhật Bản, Ấn độ,
và Đài Loan vay chủ yếu trong nước và không phải chịu đựng những biến động
trong tâm lý của các nhà đầu tư như những người đi vay bên ngoài”.
Theo các chuyên gia kinh tế, khủng hoảng lây lan khiến niềm tin trên thị trường
suy giảm từ phạm vi một nền kinh tế và lan rộng sang các nền kinh tế khác thông

qua các hoạt động kết nối thương mại, sự tương đồng về kinh tế hay liên kết tài
chính.

Phát biểu tại một diễn đàn ở Singapore, Phó Giám đốc điều hành IMF Naoyuki
Shinohara nhấn mạnh những diễn biến nguy hiểm ở châu Âu hiện nay có thể làm
gián đoạn thương mại toàn cầu, ảnh hưởng đến châu Á do khu vực này vẫn phụ
thuộc nặng nề vào nhu cầu bên ngoài.

Trang 7


Cụ thể, trong lĩnh vực tài chính, những rắc rối tín dụng có thể lan sang châu Á
thông qua các kênh cấp vốn, cuộc khủng hoảng nợ công ở một số nước thuộc khu
vực đồng euro có thể gây hiệu ứng "domino" sang châu lục này.
Bên cạnh đó, mặc dù châu Á đang thu hút được nhiều vốn đầu tư (do có triển
vọng tăng trưởng, mức lãi suất thấp...), song một số nền kinh tế lớn trong khu vực lại
đối mặt với nguy cơ phát triển quá nóng, cần có những chính sách hợp lý. Mặt khác,
tâm lý sợ rủi ro có thể khiến cho luồng vốn đổ vào châu Á nhanh chóng đổi hướng.
Theo ông Shinohara, chính phủ các nước châu Á cần thận trọng trước những
nguy cơ tiềm tàng từ cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu và sẵn sàng hành động khi cần
thiết.
Ông khẳng định do châu Á có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh nên những lựa
chọn chính sách được đưa ra tại khu vực này ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế toàn
cầu.
6. Bạn có cho rằng : “ Đồng đô la Châu Á có thể không phải là lựa chon
đúng đắn”
Đồng tiền chung Châu Á là vấn đề đã được đề cập khá nhiều trong các Hội nghị
quốc tế và khu vực, kể từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ 1997-1998. Theo Kế hoạch
Hành động Hà Nội (tháng 12/1998) và Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 ở Manila
(tháng 11/1999), và ASEAN+3 ở Chiềng Mai (Thái Lan - tháng 5/2000). Ý tưởng về

việc hình thành đồng tiền chung châu Á (AS) là rất tích cực trong xu thế liên kết khu
vực, một mặt thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, tăng khả năng cạnh tranh, mặt khác
sẽ giúp các quốc gia Châu Á hạn chế sự lệ thuộc quá nhiều vào USD và tránh được
những biến động trên thị trường tiền tệ quốc tế.

Trang 8


Nhưng khó khăn lớn nhất cho việc ra đời AS là sự khác biệt lớn giữa các thành
viên và cốt lõi của quá trình chuẩn bị cho aszone là đạt được sự thống nhất trong sự
khác biệt quá lớn này. Do tính đa dạng về kinh tế, văn hóa, chính trị giữa các quốc
gia Châu Á cũng hình thành nhiều cấp độ phát triển kinh tế khác nhau trong khu vực,
tạo nên khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của quốc gia. Chênh lệch về
trình độ phát triển kinh tế dẫn đến việc xác định khác nhau giữa các lợi ích và vấn đề
ưu tiên trong hợp tác. Khoảng cách chênh lệch trên cũng tạo bất lợi đối với các nước
kém phát triển trong phân công lao động quốc tế, do các nước lớn có lợi thế hơn về
vốn, công nghệ và khả năng cạnh. Đến nay, việc công bố sử dụng ACU (2006) khá
tương tự như ECU( vii), thành lập Quĩ châu Á, cho ra đời thị trường trái phiếu châu
Á, qui định các điều kiện chuẩn bị gia nhập khu vực… dường như mô phỏng lại quá
trình hình thành eurozone. Vì vậy, rút kinh nghiệm từ eurozone, vấn đề nhất thể hoá
tiền tệ, phối hợp chính sách tài khoá với một lộ trình phù hợp với xu thế quốc tế
luôn thay đổi, phải được xử lý ngay trong quá trình chuẩn bị ra đời aszone. Đây là
một trong những nội dung trọng tâm của đồng tiền chung Châu Á.
Tóm lại, thời đại ngày nay luôn biến đổi, sự biến đổi là vô hạn, còn dự báo luôn
là hữu hạn. Do vậy việc tính toán và dự báo về việc nhất thể hoá tiền tệ và việc ra đời
AS sẽ là hợp qui luật, sẽ là rất hấp dẫn, sẽ rất quan trọng, nếu chuẩn bị lộ trình và
bước đi cho aszone hợp lý, trong đó khởi đầu phải là thể chế cho các bước tiếp
theo./.
7. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Âu ảnh hưởng như thế nào đến Việt
Nam?


Cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính Châu Âu đã ‘đốt’ đi khoảng 1/3 tài sản thế
giới, nhưng không phải vậy mà vốn đầu tư bị kiệt quệ, ngược lại dòng tiền nhàn rỗi

Trang 9


trên thế giới đang tăng mạnh với số vốn được rút ra khỏi thị trường Châu Âu, Mỹ sau
những biến cố vừa rồi. Dòng tiền này chọn những cơ hội đầu tư nào mang đến lợi
nhuận cao và rủi ro thấp, tin tưởng là thị trường của những nền kinh tế mới nổi sẽ
mang lại những gì họ mong muốn. Trong đó Việt Nam đã được xếp vào hạng những
mãnh thổ của những nước mới nổi. Đó là một cơ hội rất tốt mà ta cần nắm bắt vì
nước ta đang cần những nguồn vốn khổng lồ để tái cấu trúc nền kinh tế và giữ được
mức độ phát triển của những năm vừa rồi. Cơ hội này hoàn toàn trong tầm tay, nếu ta
chứng tỏ được sự ổn định của nền kinh tế quốc gia cũng như khả năng ngăn chặn
lạm phát, hiện đang ở mức kỷ lực trong vùng.
Về hậu quả tiêu cực phát sinh từ những diễn biến tình hình thế giới thì chủ yếu
là trên lãnh vực ngoại thương. Tất nhiên, khi kinh tế thế giới gặp khó khăn, xuất
khẩu của ta cũng sẽ gặp khó khăn, với phần cầu yếu đi thì sự cạnh tranh trên thị
trường thế giới sẽ khốc liệt hơn và với những mặt hàng không có chất lượng cao (so
với các đấu thủ cạnh tranh) ta sẽ phải giảm giá. Kết cuộc, ngay như giữ được xuất
khẩu khối lượng như xua, nhưng kim ngạch sẽ giảm (lý luận này không áp dụng cho
một số mặt hàng thô, nhất là về nông lâm sản, giá cả thị trường đá tăng rất nhanh
trong thời gian vừa qua). Hiện tượng mất giá của đồng đô cũng có hậu quả không tốt,
khi giá cả của những mặt hàng định trên đồng USD tăng nhanh, đó là hiện tượng lạm
phát do nhập khẩu mà chúng ta phải đối mặt.

Trang 10



Các tài liệu tham khảo:
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp quốc tế: Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Giang
/>
/>
Trang 11



×