Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phân tích những đặc điểm của doanh nhân việt nam trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.36 KB, 20 trang )

PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NHÂN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

I.

GIỚI THIỆU
Không ít người hiểu chung chung Doanh nhân là “Người làm nghề kinh

doanh”, “Người có nhiều tiền” hay “Người có nhiều mánh lới, thủ đoạn”. Đó là
cách hiểu hết sức sai lệch về Doanh nhân.
Mãi tới năm 1990, cùng với quá trình Đổi mới, sự ra đời của Luật Công ty
và Luật Doanh nghiệp tư nhân, tầng lớp Doanh nhân trong xã hội đã được công
nhận như một tầng lớp xã hội mang sứ mạng quan trọng và vẻ vang. Ngày
13/10/2004 đã được chính thức lựa chọn là Ngày Doanh nhân. Như vậy, doanh
nhân Việt Nam so với lực lượng doanh nhân của xã hội tư bản phát triển sau
hàng trăm năm, mới được xã hội dần dần định vị và tin cậy khoảng 20 năm qua.
Doanh nhân là những người giữ vị trí quan trọng, gây dựng nên các doanh
nghiệp. Doanh nhân tham gia doanh nghiệp theo hai hình thức: là chủ sở hữu, cổ


đông lớn của doanh nghiệp hay là thành viên ban Giám đốc đảm nhiệm công
việc quản trị điều hành doanh nghiệp.
Doanh nhân là những người làm nghề kinh doanh một cách chuyên
nghiệp, là một chuyên gia về quản lý kinh doanh, là một nhà trí thức lao động trí
óc và sử dụng tổng hợp kiến thức đa lĩnh vực, đa nguồn.
Doanh nhân là người biết tập hợp, kết hợp các nguồn lực khác nhau của
xã hội và điều phối các nguồn lực này vào các hoạt động sản xuất, dịch vụ của
doanh nghiệp.
Song song với việc làm giàu cho bản thân, với vai trò cá nhân, doanh nhân
tham gia các hoạt động xã hội hoặc thông qua doanh nghiệp của mình làm cho
xã hội tốt đẹp hơn. Nhờ doanh nhân chèo lái doanh nghiệp, nhân lực vật lực của


xã hội ngày một phát triển. Hàng hóa, dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu phát triển xã
hội, công ăn việc làm cho người lao động, lợi nhuận, thiết bị- công nghệ mới, tri
thức và thực tiễn kinh doanh mới… đó là những đóng góp cụ thể của các doanh
nhân.
Từ thực tiễn Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã tổng kết đặc điểm chung
của doanh nhân Việt Nam thành đạt là: Tâm – Tài – Trí - Dũng. Tâm là có khả
năng lãnh đạo, trung thực, không vụ lợi cá nhân, có trước có sau, tạo được niềm
tin của đối tác và đồng nghiệp. Tài là có trách nhiệm, lòng say mê trong công
việc, biết tuỳ cơ ứng biến, có thể kết hợp được các sức mạnh và nguồn lực lại
với nhau. Trí là có trình độ, thông minh, tự tin. Dũng là biết chấp nhận rủi ro
mạo hiểm, có quyết tâm và khát khao thành công, dũng cảm, dám theo đuổi đến
cùng, có tính sáng tạo tiên phong về công nghệ hay sản phẩm, có nhiều ý tưởng
khác lạ độc đáo đồng thời phải quyết đoán lựa chọn cơ hội.
II.

PHÂN TÍCH
Sự thành đạt của doanh nhân chỉ có thể là sự thành công thông qua cạnh

tranh gay gắt trên thương trường, qua sự nghiêp, qua sự thừa nhận của cộng
2


đồng trong nước và quốc tế. Trên thế giới ngày nay, những doanh nhân lớn thành
đạt, có tiềm lực rất mạnh về vốn, khoa học, công nghệ, được các nước mời đến
đầu tư, kinh doanh đối xử như quốc khách. Đó cũng là sự công nhận đóng góp
của doanh nhân đối với xã hội.
Đã kinh doanh thì phải mưu cầu lợi nhuận. Lợi nhuận chân chính chỉ có
thề đạt được trong quá trình lao động sáng tạo, làm được những gì khác người và
hơn người tìm được những nhu cầu chưa được đánh thức và những mảng thị
trường chưa được khai phá. Ngày nay, đạt được lợi nhuận trên thương trường

chủ yếu phải phát huy trí tuệ, khoa học, công nghê, trong đó có khoa học kinh tế
và quản lý.
1. Mức độ dám chấp nhận rủi ro

Khả năng chấp nhận rủi ro là một bản tính quan trọng của nhà kinh doanh.
Trên thương trường, rủi ro gắn với lợi nhuận. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận cũng
sẽ càng cao. Tại sao không ít người Việt chúng ta chỉ thích gửi tiền tiết kiệm vào
ngân hàng hoặc mua vàng cất vào trong tủ hơn là tổ chức kinh doanh hoặc đầu
tư? Đơn giản là vì phần lớn chúng ta không phải là các nhà kinh doanh. Phần lớn
chúng ta không dám chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng lực lượng
doanh nhân của nước ta chỉ mới bắt đầu hình thành từ thời kỳ đổi mới đến nay.
Hầu hết doanh nhân Việt Nam đều dám chấp nhận rủi ro, tuy nhiên cũng
có một bộ phận không nhỏ thiếu hẳn tính sáng tạo, đổi mới, dám nghĩ dám làm.
Họ đưa ra quyết định kinh doanh dựa trên tâm lý bầy đàn: Bỏ lĩnh vực kinh
doanh truyền thống của doanh nghiệp để đầu tư vào chứng khoán, bất động sản...
Có thể họ lý giải rằng đó là sự chấp nhận rủi ro để chuyển đổi lĩnh vực kinh
doanh, nhưng bản chất chỉ là sự liều, hành động một cách mạo hiểm, thiếu tính
toán với hy vọng sẽ đem lại lợi nhuận một cách nhanh chóng.

3


Có một số loại rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp có thể kể ra: Rủi
ro về chính sách, rủi ro về chính trị, rủi ro về thị trường, rủi ro về thanh khoản,
rủi ro về lãi suất, rủi ro về công nghệ… Mỗi một cơ hội đầu tư luôn mang theo
những rủi ro tiềm ẩn. Trong một số thương vụ đầu tư, một loại rủi ro nhất định
có thể chiếm ưu thế hơn, và những rủi ro khác chỉ là thứ yếu. Hiểu đầy đủ về
những loại rủi ro chính yếu là cần thiết để mạo hiểm có tính toán và đưa ra
những quyết định đầu tư nhanh nhạy.
Trên thực tế, rất khó để tất cả các loại rủi ro kể trên xảy ra cùng lúc. Tuy

nhiên những doanh nhân phải đánh giá, nhận thức một cách cẩn trọng sự ảnh
hưởng của mỗi loại rủi ro trong từng quyết định đầu tư. Chấp nhận rủi ro là một
chuyện, những doanh nhân cần phải có tính toán để giảm thiểu và phân tán rủi
ro.

a. So sánh về tuổi tác và giới tính
- Lứa tuổi dưới 45:



Với độ tuổi dưới 45, con người có rất nhiều hoài bão, ước mơ, và họ tìm
mọi cách để hiện thực hóa những điều đó. Tầng lớp doanh nhân cũng vậy,
đây là độ tuổi họ tràn đầy nhiệt huyết, và quan trọng hơn nếu họ mắc sai
lầm, họ còn có nhiều thời gian ở phía trước để sửa sai và làm lại. Bên
cạnh đó đây là khoảng thời gian mới bắt đầu kinh doanh nên sự tích lũy về
tài chính, các mối quan hệ, kinh nghiệm sống, quản lý… chưa nhiều nên
họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để có thể trở thành những doanh nhân thành
đạt.

- Lứa tuổi trên 45:



4


Ở lứa tuổi này, những doanh nhân đã gặt hái được một số thành công nhất
định. Bắt đầu có những suy nghĩ nếu thất bại, ta có thể làm lại được
không, gia đình ta sẽ như thế nào, uy tín cá nhân có bị ảnh hưởng… nên
họ sẽ thận trọng hơn hay nói một cách khác họ sẽ ít chấp nhận những dự

án đầu tư với độ rủi ro cao.

- Doanh nhân là phụ nữ:



Mặc dù chưa có số liệu thống kê chính xác về tỷ lệ doanh nhân la nữ so
với nam, nhưng theo tìm hiểu thực tế thì số lượng doanh nhân nữ ít hơn
nhiều. Mặc dù đã có sự thay đổi lớn về quan điểm trọng nam khinh nữ
nhưng do truyền thống văn hóa thì người phụ nữ á đông danh nhiều thời
gian cho gia đình hơn là những hoạt động xã hội. Về mặt tâm lý thì phụ
nữ có sự cẩn trọng, ít bốc đồng hơn nam giới. Tuy nhiên những doanh
nhân nữ lại là những người có cá tính mạnh, ít bị lệ thuộc về lễ giáo nên
mức độ chấp nhận rủi ro ở họ cũng tương đối cao.

- Doanh nhân là nam giới:



Họ ở phái mạnh, là trụ cột của gia đình, muốn được xã hội công nhận nên
mức độ chấp nhận rủi ro là rất cao.

b. So sánh về khu vực kinh tế
- Khu vực kinh tế tư nhân:



Thành công hay thất bại của doanh nghiệp cũng chính là thước đo thành
đạt của những doanh nhân tại doanh nghiệp đó. Do đó họ sẵn sàng chấp
nhận rủi ro cao để khẳng định mình.

5


- Khu vực kinh tế nhà nước:



Thành công của doanh nghiệp thường có vai trò của những người quản lý,
tuy nhiên họ được hưởng ít hơn rất nhiều hiệu quả mà họ mang lại và nếu
có thất bại thì họ là những người đầu tiên phải chịu trách nhiệm. Do đó
trong tư tưởng họ hình thành tư tưởng cố gắng làm tốt nhất trong điều
kiện hiện có, được đến đâu hay đến đó nên họ sẽ hầu như không chấp
nhận rủi ro.

- Doanh nghiệp nước ngoài, liên doanh:



Đây là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi chính sách nên mức độ chấp
nhận rủi ro của họ ở trạng thái trung bình.

c. So sánh về ngành nghề hoạt động và quy mô doanh nghiệp
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ:



Tiềm lực tài chính yếu nên họ chịu nhiều rủi ro về thanh khoản cũng như
lãi suất. Do đó mức độ chấp nhận rủi ro của đối tượng này ở trạng thái
trung bình.


- Doanh nghiệp lớn:



Họ có đủ tiềm lực để đầu tư theo cách “trứng không để chung một rỏ”, do
đó sẽ giảm thiểu được rủi ro trong kinh doanh. Chính vì vậy, mức độ chấp
nhận rủi ro của doanh nhân trong những doanh nghiệp lớn là khá cao.

6


- Hoạt động thương mại: 4đ
Họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để nhập những mặt hàng mới, hàng đặc biệt
về để phân phối. Với những mặt hàng này họ có thể có lợi nhuận lớn hơn,
trong trường hợp xấu nhất có thể hạ giá bán để thu hồi vốn. Do đó những
doanh nhân trong lĩnh vực này có mức độ chấp nhận rủi ro tương đối cao.

- Hoạt động sản xuất:



Trong lĩnh vực sản xuất thì rủi ro lớn nhất là về công nghệ và thị trường.
Đây là những loại rủi ro ít có thể định lượng được. Do đó những doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này tại Việt Nam có xu hướng đầu tư dần,
nâng cấp trang thiết bị hiện có chứ ít mạo hiểm thay đổi toàn bộ công
nghệ cũng như sản phẩm.

2. Tính đổi mới sáng tạo
Có một thực tế cần phải nhìn nhận thẳng thắn là tính đổi mới và sáng tạo
trong một bộ phận không nhỏ doanh nhân Việt còn ở mức rất thấp. Chúng ta hay

tự nhận xét rằng người Việt thông minh, sáng tạo, nhưng nhiều khi các sáng tạo
đó mang nặng tính đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.
Trình độ của nhiều doanh nhân còn hạn chế, kỹ năng kinh doanh thấp. Đó
là lỗ hổng rất lớn, hạn chế khả năng và tầm nhìn của doanh nhân trong thời đại
kinh doanh hiện đại ngày nay và do đó giảm hiệu quả và tính sáng tạo của doanh
7


nghiệp. Ngày nay chúng ta thường nghe và được tiếp xúc tương đối nhiều đến
những lý thuyết trong quản trị doanh nghiệp: quản trị sản xuất, quản trị nhân sự,
quản trị chiến lược, quản trị marketing… Doanh nghiệp cần phải đưa ra thị
trường những sản phẩm tốt nhất, giá cạnh tranh nhất, phải xây dựng một đội ngũ
công nhân lành nghề, đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến.
Các doanh nghiệp cần chú trọng đến đến bộ phận nghiên cứu và phát triển
sản phẩm, đây là điểm quan trọng trong việc thiết kế và tạo ra một sản phẩm
mới. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa chú trọng hay nói cách
khác là chưa có bộ phận nghiên cứu phát triển. Những sản phẩm mang thương
hiệu Việt Nam (không phải những sản phẩm gia công hoặc sản xuất theo đơn đặt
hàng của nước ngoài) vẫn còn đơn điệu, chưa có sự đột phá. Các sản phẩm ít có
sự khác biệt, hàm lượng chất xám và công nghệ trong đó không cao.
Hệ thống phân phối
Không phải đơn giản để chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp sang kinh tế thị trường và cũng không dễ dàng chuyển từ khâu phân
phối theo kiểu “xin cho” sang kênh phân phối cạnh tranh hiện đại.
Thiết lập một hệ thống theo chuẩn mực, quản lý kênh phân phối và quản
lý lực lượng bán hàng hiệu quả là mấu chốt để cạnh tranh và giành thị phần. Đây
là mảnh đất mầu mỡ cho những ý tưởng sáng tạo trong việc: thiết lập kênh phân
phối theo dạng trực tiếp hay gián tiếp, đơn kênh hay đa kênh, độ dài của kênh và
các giải pháp khuyên khích bán hàng cũng như giảm thiểu các xung đột lợi ích
trong kênh.

Thương hiệu
Định vị được thương hiệu và xây dựng một thương hiệu mang tính nhất
quán và chuyên nghiệp là vấn đề không phải doanh nghiệp Việt nào cũng đã làm
được. Nhiều doanh nghiệp trong quá trình phát triển đã xa rời những giá trị cốt

8


lõi mà mình định ra rồi phát triển dần theo hướng “đa ngành, đa nghề” để rồi
đánh mất chính bản sắc của mình.
Đổi mới sáng tạo trong thời khủng hoảng kinh tế
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và cuộc khủng hoảng kinh tế của
Việt nam đang bước vào giai đoạn thử thách gay go nhất cho Chính phủ cũng
như giới doanh nghiệp. Khả năng dự báo, sự linh hoạt trong chiến lược kinh
doanh là những nhân tố mang tính sáng tạo cao của doanh nhân trong việc đưa
doanh nghiệp của mình vượt khó khăn.
Cuộc khoảng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra kéo theo một loạt các
định chế tài chính, các tập đoàn khổng lồ sụp đổ hoặc trên bờ vực phá sản.
Những lý thuyết kinh tế, tài chính, những chuẩn mực kinh doanh tưởng chừng
bền vững nhất, tiên tiến nhất thì nay lung lay dữ dội và gây ra sự hoài nghi cho
các nhà kinh tế. Và cùng lúc đó, thành công của các doanh nghiệp khi thực thi
công việc ngược lại với các chuẩn mực lại đem lại những thành công bất ngờ.
Warren Buffet rất thành công trên thị trường chứng khoán với phương
châm “hãy đầu tư khi thị trường run sợ …”. Tại Việt Nam, với tâm lý bầy đàn,
mọi người đổ xô đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, chứng khoán khi chúng tăng
giá, còn khi chúng xuống giá thì bán tháo và không tham gia vào thị trường. Vậy
chúng ta sao không làm ngược lại?
Từ đầu năm 2008, khi kinh tế đất nước bước vào giai đoạn lạm phát
nghiêm trọng thì Nhà nước đã đúng khi tăng lãi suất cơ bản lên và đã phần nào
kìm hãm được lạm phát. Nhưng có điều là đáng tăng lãi suất với mức vừa phải,

vừa tăng vừa “lựa” thì họ lại tăng với một tốc độ chóng mặt. Một hệ lụy xảy ra
là chỉ vài tháng sau hàng loạt doanh nghiệp Việt nam đứng trên bờ phá sản vì
không chịu được mức lãi suất lên tới 21%/ năm (thực trạng hiện nay lãi suất cho
vay còn cao hơn, mức cho vay tối đa đã lên tới 25%/năm). Chi phí sản xuất tăng
cao, hàng hóa không bán được, xuất khẩu suy giảm nghiêm trọng, hàng trăm
9


nghìn người mất việc làm. Đôi khi phải biết chấp nhận hy sinh một thứ để đạt
được thứ khác tốt hơn, không thể cái gì cũng muốn được. Chính phủ Việt Nam
vừa muốn kìm chế lạm phát, vừa muốn tăng trưởng kinh tế cao, bền vững dường
như mâu thuẫn với nhau. Chính sách hỗ trợ lãi suất đã tiêu tốn rất nhiều tiền của
nhưng hiệu quả thì thực sự không cao. Chính phủ tăng lãi suất cơ bản, hạn chế
tín dụng để kiềm chế lạm phát trong khi lại phải bơm ra một lượng tiền rất lớn
(khoảng 500.000 tỷ đồng) để cho vay hỗ trợ lãi xuất, điều này dường như không
có sự nhất quán về điều hành vĩ mô của chính phủ.
Trong việc điều hành, các doanh nhân nhất thiết phải có sự linh hoạt để
ứng phó với mọi tình huống, không nhất thiết phải theo những chuẩn mực để
tránh đưa ra những quyết định một cách cứng nhắc. Đôi khi chúng ta phải biết
hy sinh cái lợi trước mắt để đạt được mục tiêu tổng thể trong tương lai.
a. So sánh về tuổi tác và giới tính
- Lứa tuổi dưới 45: 4đ
Đây là giai đoạn mà bộ não con người tiếp thu được nhiều thông tin và xử
lý những thông tin đó hiệu quả nhất. Do đó khả năng tư duy, sáng tạo
trong độ tuổi này là tương đối cao.

- Lứa tuổi trên 45: 2đ
Ở độ tuổi này, con người trở nên cứng nhắc, bảo thủ hơn. Họ hành động
theo kinh nghiệm là chủ yếu nên mức độ sáng tạo là tương đối thấp.


- Doanh nhân là phụ nữ: 3đ
Chỉ số thông minh, sự năng động của nữ doanh nhân không thua kém so
với nam giới. Tuy nhiên do hạn chế hơn về mặt quan hệ xã hội, do tham
10


gia vào lĩnh vực kinh doanh châm hơn nam giới nên khả năng sáng tạo ở
mức độ trung bình.

- Doanh nhân là nam giới:



Tham gia kinh doanh sớm hơn, quan hệ xã hội nhiều hơn nhưng chính vì
thế lại hay bị ảnh hưởng bởi hành vi số đông mà mất đi sự sáng tạo đổi
mới.

b. So sánh về khu vực kinh tế
- Khu vực kinh tế tư nhân:



Ở khu vực kinh tế tư nhân, do hạn chế về năng lực quản lý cũng như tiềm
lực tài chính nên họ không có nhiều sự đột phá về sản phẩm. Do khó khăn
về tài chính nên hầu hết đều ít sử dụng đòn bẩy tài chính trong kinh doanh
vì tính rủi ro trong thanh khoản nên dẫn tới hạn chế việc mở rộng kênh
phân phối. Việc nhiều nhà quản lý chưa được đào tạo bài bản về quản lý
kinh tế nên cũng chưa nhìn nhận ra tầm quan trọng của hoạt động khuếch
trương. Do đó khả năng sáng tạo đổi mới của doanh nhân trong khu vực
này ở mức độ trung bình.


- Khu vực kinh tế nhà nước:



Như đã phân tích ở phần trên, đây là khu vực kinh tế ít năng động. Tuy
nhiên ở khu vực này có một số tập đoàn, tổng công ty lớn đã bắt đầu quan
tâm tới đổi mới sản phẩm, mở rộng kênh phân phối cũng như tăng cường
các hoạt động khuếch trương.

11


- Doanh nghiệp nước ngoài, liên doanh:



Do chính sách phát triển của Công ty mẹ cũng như có kỹ năng quản trị
điều hành tốt hơn nên các doanh nghiệp nước ngoài, liên doanh rất chú
trọng tới việc đổi mới sáng tạo từ sản phẩm, mẫu mã hàng hóa đến các
hoạt động khuếch trương.

c. So sánh về ngành nghề hoạt động và quy mô doanh nghiệp
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ:



Vì tiềm lực của doanh nghiệp còn hạn chế nên phần nào cũng ảnh hưởng
đến kế hoạch đổi mới sáng sản phẩm, mở rộng kênh phân phối cũng như
tăng cường các hoạt động khuếch trương.


- Doanh nghiệp lớn:



Kỹ năng quản trị điều hành của doanh nhân Việt Nam tại những doanh
nghiệp lớn đã được cải thiện rất nhiều trong thời gian gần đây. Họ cũng đã
xác định rõ ràng để tồn tại và phát triển thì cần phải liên tục đổi mới về
sản phẩm, mở rộng thị trường và tăng cường công tác khuếch trương. Đã
có rất nhiều doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện đang hoạt động rất thành
công như tập đoàn Hòa Phát, Vincom, Hoàng Anh Gia Lai…

- Hoạt động thương mại:



12


Do những doanh nghiệp này chỉ làm trung gian phân phối sản phẩm từ
nhà sản xuất đến người tiêu dùng nên họ được thừa hưởng kết quả
marketing từ nhà sản xuất. Trong thời gian gần đây, những doanh nghiệp
này đã bắt đầu chú trọng nhiều hơn đến việc mở rộng kênh phân phối
cũng như khuếch trương hình ảnh doanh nghiệp.

- Hoạt động sản xuất:



Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này hầu hết đều phải tìm cách

để mở rộng kênh phân phối, đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm và
hoạt động khuếch trương. Tuy nhiên tính đổi mới sáng tạo chỉ thực sự rõ
nét tại những doanh nghiệp sản xuất lớn, hàng hóa có chất lượng tốt và
mang tính cạnh tranh cao như Tập đoàn Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai,
Vigracera, gạch Đồng Tâm…

3. Tính tiên phong, đi trước đối thủ trong các hoạt động kinh doanh
Khi nói về doanh nghiệp, chúng ta thường nhấn mạnh đến vai trò đầu tàu
trong tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu xã hội… Khi
Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, chúng ta có cái nhìn logic hơn
về mối quan hệ cung – cầu, sự ảnh hưởng của giá đến cầu của hàng hóa. Khi các
siêu thị Metro, Vincom, BigC, Nguyễn Kim, Parkson… đưa ra những chương
trình siêu khuyến mãi, chúng ta mới nhận thức một cách đầy đủ về sự linh hoạt
cũng như đi trước đối thủ trong hoạt động kinh doanh. Những cửa hàng kinh
doanh những mặt hàng điện tử, đồ gia dụng trên mặt phố giờ đây phải chịu sự
cạnh tranh khốc liệt từ các hệ thống siêu thị đang ngày càng được mở rộng.
Cùng với động lực mở rộng thị trường, doanh nhân có nhu cầu sử dụng
những biểu tượng văn hóa dân tộc. Họ là sứ giả đưa những tinh hoa Việt Nam ra
13


thế giới. Những Café Trung Nguyên, dép Bitis, bánh kẹo Kinh Đô, … xuất hiện
ở nhiều châu lục, khiến Việt Nam gần gũi hơn trong con mắt bạn bè thế giới.
Tính tiên phong cũng là nhân tố quan trọng bậc nhất trong chiến lược cạnh
tranh vượt lên đối thủ. Khi doanh nghiệp tung ra một sản phẩm mới được khách
hàng chấp nhận, họ có thể dùng chiến lược “hớt váng sữa” trong giai đoạn đầu,
đến khi các doanh nghiệp khác tung ra những sản phẩm tương tự thì họ hạ giá
thành để cạnh tranh.
Doanh nghiệp hoạt động phải thể hiện được tính tiên phong về sản phẩm,
dịch vụ mới; tiên phong về công nghệ; tiên phong về phương pháp quản trị

doanh nghiệp và tiên phong về văn hóa tri thức.
Hoạt động của doanh nhân còn mở rộng ra thị trường nhân lực, buộc các
trường đại học, viện nghiên cứu phải đổi mới phương pháp giáo dục, nghiên cứu
khoa học theo hướng coi trọng thực hành hơn.

a. So sánh về tuổi tác và giới tính
- Lứa tuổi dưới 45:



Đây là lứa tuổi mà hầu hết các doanh nhân mới khởi nghiệp kinh doanh.
Hạn chế về vốn, công nghệ, kỹ năng quản trị điều hành làm cho các doanh
nhân ít có khả năng đi trước những đối thủ cạnh tranh. Có thể họ là những
doanh nhân trẻ nên sẽ có những đổi mới về phương pháp quản trị và văn
hóa tri thức nhưng không thực sự rõ rệt.

- Lứa tuổi trên 45:



Đây là lứa tuổi mà doanh nhân đã gặt hái được những thành tựu nhất định.
Họ có nhiều điều kiện hơn để nghiên cứu, định hướng phát triển mới cho
14


doanh nghiệp. Tuy nhiên những hạn chế về vốn, công nghệ cũng như
nguồn nhân lực đã phần nào ảnh hưởng tới tính tiên phong của doanh
nhân ở lứa tuổi này.

- Doanh nhân là phụ nữ:




Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng những doanh nhân là phụ nữ có xu
hướng tiên phong hơn nam giới trong lĩnh vực kinh doanh của họ. Họ có
khả năng cải tiến về mẫu mã hợp với thị hiếu khách hàng hơn, có cách
thức quản trị doanh nghiệp uyển chuyển linh hoạt hơn, họ ít bị chi phối
bởi tình cảm cá nhân trong công tác quản trị điều hành.

- Doanh nhân là nam giới



Nam giới thường là những người có cá tính mạnh, tương đối quyết đoán
những cũng dễ bị lay động. Tâm lý bầy đàn vẫn còn rất nặng trong tâm trí
giới doanh nhân nói chung hay nói một cách khác thì hầu hết các doanh
nghiệp vẫn đang làm ăn theo phong cách chộp giật, thiếu định hướng lâu
dài, chưa thực sự chú trọng xây dựng cho mình một con đường riêng để
phát triển.

b. So sánh về khu vực kinh tế
- Khu vực kinh tế tư nhân:



Nhược điểm lớn nhất ở khu vực kinh tế này vẫn là tiềm lực còn hạn hạn
chế và thiếu sự điều hành quản trị một cách bài bản. Thực sự rất khó khăn
cho khu vực này khi thay đổi về phương thức sản xuất để có thể đi trước

15



những đối thủ khác vì liên quan nguồn vốn đầu tư vào công nghệ mới để
có thể đưa ra được những sản phẩm thực sự nổi trội.

- Khu vực kinh tế nhà nước:



Hầu hết những lĩnh vực kinh tế then chốt đều thuộc sự quản lý điều hành
của nhà nước. Do đó tính tiên phong về sản phẩm, công nghệ cao hơn so
với khu vực kinh tế tư nhân.

- Doanh nghiệp nước ngoài, liên doanh:



Với lợi thế về tiềm lực tài chính, về công nghệ, về việc trú trọng công tác
nghiên cứu phát triển nên họ hầu như là những người luôn đi tiên phong
trong các lĩnh vực từ sản phẩm, công nghệ, quản trị điều hành cho tới văn
hóa tri thức.

c. So sánh về ngành nghề hoạt động và quy mô doanh nghiệp
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ:



Với tiềm lực hạn chế, thực khó khăn để họ có thể đi tiên phong trong lĩnh
vực sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên nếu có sự sáng tạo và vận dụng linh
hoạt những chính sách phát triển cho từng thời kỳ thì những doanh nghiệp

này cúng có thể tạo ra những bước đột phá về sản phẩm cũng như chất
lượng dịch vụ.

- Doanh nghiệp lớn:



16


Đây là những doanh nghiệp có hệ thống phân phối tương đối lớn, sản
phẩm mang tính cạnh tranh cao nên họ có nhiều lợi thế để tung ra thị
trường những sản phẩm mới thông qua hệ thống phân phối và hoạt động
Marketing.

- Hoạt động thương mại:



Kết hợp với các hoạt động khuếch trương từ nhà sản xuất và tình hình bán
hàng thực tế, những doanh nghiệp hoạt động thương mại sẽ đưa ra những
phương thức bán hàng cho phù hợp với thị trường, thậm chí họ có thể đưa
ra những chương trình khuyến mãi, bốc thăm trúng thưởng để thu hút
khách hàng, tạo ra sự khác biệt với những đối thủ cạnh tranh.

- Hoạt động sản xuất:



Rất nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam gia công sản phẩm cho các doanh

nghiệp nước ngoài, đối với những doanh nghiệp này, họ chỉ có thể nâng
cấp đầu tư vào thiết bị và nhà xưởng để tăng năng xuất. Đối với những
doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm riêng biệt, họ cũng cố gắng để những
sản phẩm làm ra được thị trường chấp nhận. Tuy nhiên sự khác biệt về sản
phẩm hầu như chưa cao và thiếu tính cạnh tranh với những sản phẩm thay
thế được nhập khẩu.

III.

KẾT LUẬN

17


Điều mà doanh nhân Việt nam rất cần là sự đoàn kết. Vốn liếng chưa
nhiều, năng lực cạnh tranh chưa cao, mà lại không thể cởi mở, đoàn kết với
nhau, thậm chí có khi còn chơi xấu, cạnh tranh không lành mạnh thì khó mà phát
triển được.

Một điểm yếu nữa của nhiều doanh nhân Việt Nam giai đoạn này là thiếu
tính chuyên nghiệp, không được đào tạo bài bản căn cơ. Việc nâng cao kiến
thức, kỹ năng quản lý hiện đại để nâng cao tính chuyên nghiệp là điều cấp bách.
Mọi người đều hy vọng vào lớp doanh nhân trẻ sau này, những người được đào
tạo hoàn chỉnh, có "tri thức" kinh doanh.

Trong tương lai gần sẽ không còn chỗ đứng cho những doanh nghiệp làm
ăn mà không học hành đàng hoàng, chỉ dựa vào kinh nghiệm, cảm tính.
Điều cuối cùng, đó là nhiều người trong hàng ngũ doanh nhân hưởng thụ sớm
quá, phung phí, tự mãn sớm quá. Điều này làm hỏng đi hình ảnh của các doanh
nhân, mất đi tính chiến đấu và khả năng cạnh tranh. Cần phải chắt chiu từng

đồng tiền có được để đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh.

Trước khi kết thúc bài viết, tôi xin nêu lên 9 đặc điểm của người Việt Nam
được Viên nghiên cứu xã hội Mỹ đưa ra:

1. Cần cù lao động, song dễ thỏa mãn nên thường xuất hiện tâm lý hưởng thụ và

đòi hỏi dẫn đến không chịu làm việc

2. Thông minh sáng tạo song chỉ có tính chất đối phó , nên thiếu tầm tư duy dài
hạn và chủ động trong công việc
18


3. Khéo léo nhưng không chịu tư duy đến cùng

4. Suy nghĩ vừa thực tế và vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng suy
nghĩ đó thành lý luận để áp dụng.

5. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu kiến thức mới nhanh, nhưng động cơ học
tập không phải vì mục đích tự thân phát triển nên ít khi chịu học đến đầu đến
đuôi, dẫn đến kiến thức có được không có hệ thống, không cơ bản.

6. Có tính hiếu khách nhưng không lâu bền

7. Có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái song hầu như chỉ trong hoàn cảnh
khó khăn, bần hàn. Trong điều kiện sống tốt hơn , tinh thần này ít khi xuất hiện

8. Yêu hòa bình khi suy nghĩ cho đại cục, song lại có tính hiếu thắng khi giải
quyết mang tính chất giữa hai cá nhân với nhau.


9. Thích tự lập nhưng thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh tập thể (cùng 1 việc,
nếu 1 người làm thì tốt, 3 người cùng làm thì kém, và nhiều người cùng làm thì
hỏng).

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu quản trị Marketing – chương trình đào tạo Griggs.
-
-
- Tham khảo từ một số doanh nhân và từ thực tế.

20



×