Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Đồ Án Môn Học Plkdvn Thủ Tục Phá Sản Trong Doạnh Nghiệp.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.43 KB, 60 trang )

ĐỒ ÁN MÔN HỌC PLKDVN
THỦ TỤC PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP


Đề án môn học
PLKDVN

Thủ tục phá sản doanh
nghiệp

A Lời mở đầu
Từ khi Nhà nớc ta chủ trơng phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trờng và
định hớng xã hội chủ nghĩa; ở nớc ta xuất hiện nhiều loại
hình doanh nghiệp khác nhau nh: doanh nghiệp nhà nớc,
doanh nghiệp t nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, các hợp
tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, các doanh
nghiệp nhỏ theo nghị định 66 HĐBT... Pháp luật cho phép
các doanh nghiệp kinh doanh bình đẳng với nhau trên
thơng trờng và tự do cạnh tranh với nhau. Đã có cạnh tranh
tất nhiên sẽ dẫn đến xu hớng mạnh
đợc yếu thua. Khi một doanh nghiệp không còn đáp ứng
đợc những đòi hỏi khắt khe, nghiệt ngã của thơng trờng,
doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải.
Trong nền kinh tế thị trờng với qui luật cạnh tranh,
chọn lọc và đào thải đợc ví nh một vòng đấu khốc liệt,
trong đó các doanh nghiệp chủ thể chính của các quan
hệ kinh tế chính là các đối thủ không cân sức, kẻ mạnh
thắng thế sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, còn những kẻ


yếu hơn nếu không muốn bị đào thải và loại ra khỏi cuộc
chơi phải chủ động tìm kiếm phơng án cơ cấu, tổ chức
lại, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt
động. Tuy vậy không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng
thành công trong việc tự cứu mình mà cần phải có sự trợ
giúp từ bên ngoài mới có thể thoát ra khỏi tình trạng bế
tắc, và ngay cả những doanh nghiệp vững mạnh, có tiềm
năng đôi khi cũng gặp khó khăn nghiêm trọng trong sản
xuất kinh doanh. Do vậy, phá sản là hiện tợng tự hiệu chỉnh
bên trong của nền kinh tế thị trờng.
Trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp đã làm ăn thua
lỗ liên tiếp, chỉ còn sống thoi thóp. Thậm chí đã có
những doanh nghiệp chấm dứt hoàn toàn mọi hoạt động,
lẽ ra phải đợc Toà án tuyên bố phá sản những lại lựa chọn
các phơng án khác nh: sáp nhập, hợp nhất, giải thể doanh
nghiệp.
Luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993), đợc áp dụng
vào thực tiễn kể từ ngày 1/7/1994, hiện có những bất cập
bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: do Luật còn xa rời thực
tiễn, không có tính khả thi, thiếu sự gắn kết, nhất quán
giữa các quy định trong cùng văn bản cũng nh với quy
định của các văn bản pháp luật khác có liên quan. Có thể
SV. Vũ Thị
Vân Huyền

Lớp: Luật Kinh doanh
- K42


Đề án môn học

Thủ tục phá sản doanh
PLKDVN
nghiệp
thấy những bất cập của Luật xuất
hiện ở hầu hết các giai

đoạn của thủ tục giải quyết tuyên bố phá sản doanh
nghiệp
từ khi yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp
đến khi tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Toà án.
Vì vậy, em đã chọn Thủ tục giải quyết yêu cầu
đề tài:
tuyên bố
phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Với mục đích là
Việt Nam.
tìm
hiểu sâu hơn và nâng cao trình độ nhận thức về pháp
luật phá sản nói chung và cụ thể là thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt
Nam hiện hành. Qua đó thấy đợc thực trạng những
điểm bất cập và hớng giải quyết những điểm bất cập ấy.
Bài viết hoàn thành đúng thời hạn, đợc tham khảo bởi
một số văn bản qui phạm pháp luật và các tài liệu khác có
liên quan; đăc biệt là đợc sự hớng dẫn, chỉ bảo tận tình
của thầy giáo Phạm Văn Luyện. Vì vậy, do yếu tố

SV. Vũ Thị
Vân Huyền

Lớp: Luật Kinh doanh

- K42


chủ quan về nhận thức và kinh nghiệm tự bản thân còn
hạn chế nên bài viết khó tránh khỏi những sai sót. Kính
mong đợc sự chỉ bảo và giúp đỡ của các thầy!
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm
2003.
SV: Vũ Thị Vân Huyền.


B Nội dung
I Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá
sản.
1 Phá sản.
1.1 Lý luận chung về phá sản.
Phá sản, mặc dù đợc lý giải rất khác nhau về xuất xứ,
song khái niệm phá sản đợc sử dụng để chỉ sự đổ vỡ
trong hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Phá
sản với tính chất là một hiện tợng có tính qui luật trong cơ
chế kinh tế thị trờng, trong một thời gian dài đã đợc
nhiều Nhà nớc khuyến khích vì hiểu theo nghĩa lợi ích
chung của nền kinh tế thì đây là hiện tợng có ích, vì
qua đó nó điều chỉnh lại cơ cấu nền kinh tế quốc dân
thông qua việc nhổ đi những cây cỏ dại trong vờn hoa
đẹp. Tuy nhiên sang những năm đầu thập kỷ 80 của thế
kỷ XX, sự vận động của nền kinh tế phát triển và nền kinh
tế thế giới làm cho nhiều quốc gia phải hoài nghi về lợi ích
do phá sản đem lại. Quá trình phân công lao động ngày

càng cao theo chiều rộng và chiều sâu ở mỗi thị trờng
quốc gia và thị trờng toàn cầu đã làm tính phụ thuộc
giữa các doanh nghiệp ngày càng lớn. Sự xuất hiện các công
ty đa quốc gia cùng với quá trình toàn cầu hoá đã từng bớc
xoá nhoà đờng biên giới về thị trờng giữa các quốc gia trên
thế giới và vì vậy làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau giữa
các doanh nghiệp ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn
bao giờ hết. Trong bối cảnh nh vậy, phá sản không còn là
công việc riêng của doanh nghiệp phá sản. Sự cho phép
rút lui một cách đột ngột của một doanh nghiệp ra khỏi
thơng trờng bằng cơ chế phá sản không phải bất cứ trờng
hợp nào cũng là giải pháp đợc Nhà nớc lựa chọn sau khi đã
cân nhắc đầy đủ và thận trọng các hệ quả về mặt kinh
tế, chính trị và xã hội. Để ngăn chặn và kiểm soát một
cách có hiệu quả những hậu quả bất lợi của việc phá sản
doanh nghiệp, cơ chế phá sản hiện đại đã chủ động can
thiệp bằng pháp luật từ khi doanh nghiệp có những dấu
hiệu lâm vào tình trạng phá sản.
1.2 Phá sản và xử lí phá sản:
Phá sản thuộc lĩnh vực kinh tế xã hội phức tạp, liên
quan đến nhiều đời sống xã hội. Vấn đề đầu tiên thấy
nhng khó giải quyết ở mọi quốc gia - đó là vấn đề thất
nghiệp của những ngời lao động trong doanh nghiệp bị


phá sản, gây hậu quả khôn lờng cho xã hội. Nh vậy phá sản
thuộc lĩnh vực xã hội.
Mỗi khi một doanh nghiệp bị phá sản thì những
doanh nghiệp bạn hàng cũng chịu ảnh hởng sấu theo kiểu
dây truyền và đã gây ảnh hởng sấu

đến tiến trình sản xuất của xã hội. Xét về mặt này thì
phá sản thuộc lĩnh vực kinh tế.
Phá sản còn liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế,
pháp luật. Vì mỗi khi doanh nghiệp bị phá sản thì phải
nhờ toà án xét sử các vụ tranh chấp về công nợ khi giữa chủ
nợ và con nợ khônh hoà giải đợc với nhau. Nh xậy phá sản
liên quan đến hình luật.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi khi bị thiếu
vốn các doanh nghiệp thờng phải vay tiền của Ngân hàng
hoặc các quỹ tín dụng và phải có


tài sản để thế chấp. Vậy phá sản liên quan đến lĩnh vực
Ngân hàng và luật cầm cố. Nếu vật cầm cố là bất động
sản thì phá sản còn liên quan đến luật đất
đai và kinh doanh nhà đất.
ở mọi quốc gia mỗi công dân hay kiều dân muốn
đứng ra kinh doanh một mặt hàng hay dịch vụ nào đấy,
thì đều phải xin phép kinh doanh và phải chịu thuế theo
luật định, còn khi bị phá sản thì phải báo cáo với cơ quan
có trách nhiệm để khỏi phải nộp thuế và phải chịu các
nghĩa vụ xã hội khác. Xét về mặt này thì phá sản liên
quan đến Luật thơng mại và Luật thuế.
Mỗi khi doanh nghiệp bị phá sản, thì số ngời thất
nghiệp lại tăng lên. Vì vậy phá sản còn liên quan đến Luật
lao động và bảo hiểm bảo đảm xã hội.
Nh vậy phá sản là một hiện tợng kinh tế xã hội phức
tạp, đó là tình tràng không có khả năng nộp thuế, không
còn khả năng thanh toán công nợ trong một thời hạn quy
định. Vậy nên đã có nhiều biện pháp khác nhau để sử lí

các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Đối với những xí nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài do
đâù t từ trớc năm 1990 không đúng hớng, nhng cũng
không có hớng chuyển đổi kinh doanh phù hợp với yêu cầu
của thị trờng thì cho phép bán đấu giá.
Đối với những xí nghiệp có thể chuyển hớng hoạt động
nhng tạm thời bị thua lỗ thì đợc hởng các chính sách u đãi
và hỗ trợ cần thiết.
Đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, không
có khả năng thanh toán, đã dùng nhiều biện pháp hỗ trợ
nhng không vực dậy đợc thì có bốn quyết điịnh để xử
lí theo quyết định 315- HĐBT theo trật tự: Sát nhập, cho
thuê, nhợng bán và giải thể.
Căn cứ vào tình hình sản xuất cụ thể, đòi hỏi phải
chọn lọc và sắp xếp lại, phải có những phơng án sử lí đa
dạng và thích hợp. Tuy vậy viẹc chon lọc và sắp xếp lại các
xí nghiệp vẫn gặp nhiều lúng túng do thiếu những quy
định và hớng dẫn cụ thể. Nhiều doanh nghiệp t nhân
hoặc liên doanh với nớc ngoài cũng gặp những khó khăn
về tài chính, mắc nợ hoặc không thanh toán
đợc các khoản nợ đến hạn và đang đứng bên bờ phá sản.
Vì vậy cần phải có một đạo luật phá sản áp dụng chung
cho tất cả các loại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác nhau.


2- Pháp luật về phá sản.
2. 1- Sự cần thiết phải có luật phá sản ở Việt nam
Nhà nớc chủ trơng thực hiện phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trờng; đồng thời

cho phép các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế
khác nhau hoạt động bình đẳng và tự do cạnh tranh lẫn
nhau trên thị trờng. Cạnh tranh tất yếu sẽ dẫn đếỡnu hớng
mạnh đợc- yếu thua. Vì vậy hiện tợng phá sản các doanh
nghiệp trong cơ chế thị trờnglà xu hớng tất yếu của quá
trình cạnh tranh, đồng thời cũng là quá trình đào thải tự
nhiên các doanh nghiệp yếu kém ra khỏi nền kinh tế,
để hình thành các doanh nghiệp mới hoạt động có hiệu
quả hơn.


Trớc năm 1993, đối với các doanh nghiệp bị phá sản
hoặc đang đứng bên lề phá sản thì cha có một văn bản
nào của nhà nớc quy định về phá sản và thủ tục phá sản.
Vì vậy việc sử lý đối các doanh nghiệp đó gặp rất nhiều
khó khăn. Việc sử lý các doanh nghiệp phá sản phải áp dụng
những quy điịnh có tính chất hành chính trong các văn
bản pháp quy hiện hành về giải thể xí nghiệp thì đỡ dẫn
đến tuỳ tiện, xoá nợ để chốn tránh trách nhiệm, tham ô
chia chác, Song việc áp dụng các quy định đó để xử lý

phá sản doanh
nghiệp vừa dẫn đến các lại vừa không phù hợp với thông lệ
quốc tế. Ngoài ra có nhiều doanh nghiệp t nhân, cá nhân
và nhóm kinh doanh do cha có luật pháp thích ứng để xử
lý các trờng hợp vỡ nợ, nên nhiều trờng hợp đã phải tự xử lý
theo luật rừng, gây nên rối loạn kinh tế và trật tự xã hội.
Vì vậy việc ban hành kuật phá sản doanh nghiệp là
rất cần thiết đối với tất cả các doanh nghiệp đợc đăng kí
theo pháp luật hiện hành và đang hoạt

động trên lãnh thổ Việt Nam, kể cả doanh nghiệp nhà
nớc, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có
vốn đầu t nớc ngoài. Nó sẽ góp phần cùng với các biện
pháp khác để lập lại trật tự lỷ cơng trong thanh toán nợ,
thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ngăn
ngừa các hiện tợng tiêu cực, tuỳ tiện, làm ăn phi pháp. Tuy
nhiên chỉ sau khi áp dụng các biện pháp cần thiết mà
doanh nghiệp vẫn không thoát khỏi tình trạng mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn mới tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
2.2- Luật phá sản doanh nghiệp( 31/12/1993)
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ,
doanh nghiệp mắc nợ và những ngời có liên quan, xác
định trách nhiệm của doanh nghiệp mắc nợ khi giải quyết
việc phá sản doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quảvà đảm bảo trật tự, kỷ cơng
xã hội: Căn cứ vào
Điều 84 của Hiến pháp nớc CHXHCNVN năm 1992: Luật
phá sản doanh nghiệp đã đợc Quốc hội nớc CHXHCNVN
khoá IX, kỳ họp thứ t thông qua ngày 31/12 1993.
Pháp luật phá sản là một tổng thể thống nhất các quy
phạm pháp luật nhằm hớng đến việc giải quyết đúng
đắn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong đó
luật phá sản đống vai trò trung tâm vì nó quy định
những vấn đề có tính nguyên tắc của trình tự, thủ tục


giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp nh:
Phạm vi áp dụng của Luật, điều kiện mở thủ tục phá sản,
trình tự và các giai đoạn của quá trình giải quyết yêu cầu

tuyên bố phá sản doang nghiệp, thứ tự yêu tiên thanh toán
khi phân chia giá trị tài sản phá sản.
Pháp luật phá sản luôn là một hệ thống mở và luôn
vận động cho phù hợp với các yêu cầu cho mỗi nền kinh tế
trong các giai đoạn phát triển khác nhau. Tuy nhiên sự hình
thành nhanh chóng của các công ty xuyên quốc gia cùng với
tiến trình toàn cầu hoá trong điều kiện hiện nay đang
đòi hỏi các nền kinh tế phải có cách nhìn nhận hiện tợng
phá sản thống nhất, sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia
để đảm bảo an ninh kinh tế chung trên cơ sở hạn chế
đến mức tối đa những hậu quả bất lợi do phá sản đem lại.


Biết rằng, Luật phá sản áp dụng đối với những đôí
tợng nào là phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi
nớc:
Luật phá sản của Anh, Mĩ, úc áp dụng cho tất cả các
cá nhân, pháp nhân bất luận là nhà kinh doanh hay
không là nhà kinh doanh nếu không thanh toán đợc nợ
đến hạn đều có thể tuyên bố phá sản.
Luật phá sản Liên Bang Nga áp dụng chỉ với nhà kinh
doanh, gồm doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh mới có
thể bị tuyên bố phá sản.
Riêng ở Việt Nam, Luật phá sản thể hiện rõ đặc trng
về đối tợng áp dụng của nó qua tên gọi: Luật phá sản
doanh nghiệp. Nh vậy chỉ doanh nghiệp mới chịu sự chi
phối của Luật phá sản. Sở dĩ có qui định nh vậy là khi xây
dựng Luật phá sản chúng ta cho rằng nên tập trung sự quan
tâm và các
đối tợng là các doanh nghiệp, bởi lẽ đây là chủ thể kinh

doanh chủ yếu trên thơng trờng, hơn nữa Toà án kinh tế
mới đợc thành lập nên ngại rằng việc đa ra tất cả các cá
nhân và nhóm kinh doanh theo Nghị định 66 HĐBT vào
đối tợng điều chỉnh của Luật phá sản thì Toà án kinh tế
không thể giải quyết
đợc khối lợng công việc đồ sộ này.
Tuy nhiên, việc đa Luật phá sản doanh nghiệp Việt
Nam đi vào thực tiễn cuộc sống là vấn đề hoàn toàn
mâu thuẫn với quan điểm xây dựng luật. Số vụ việc yêu
cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp so với thực tế
là quá ít. Luật có hiệu lực từ năm 1994, trong 6 năm thực
hiện, tính đến năm 2000, trên toàn quốc, các Toà án mới
chỉ giải quyết cha đầy 100 vụ yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp. Trong đó số vụ ra quyết định bởi Toà án lại
càng ít. Sở dĩ có tình trạng đó là do rất nhiều nguyên
nhân, mà không thể nói
đến nguyên nhân từ Luật.
Tuy vậy, với tính cách là một bộ phận pháp luật trong
pháp luật về môi trờng kinh doanh, pháp luật phá sản
có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ với các chủ thể
kinh doanh mà còn đối với toàn bộ trật tự kinh tế xã hội nói
chung. Vai trò đó đợc thể hiện ở những mặt sau:
- Pháp luật phá sản trớc hết là công cụ bảo vệ quyên và lợi
ích hợp pháp của chính doanh nghiệp mắc nợ.
- Pháp luật phá sản là công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ.


- Pháp luật về phá sản góp phần bảo vệ quyền và lợi ích ngời
lao động.

- Pháp luật phá sản góp phần bảo vệ trật tự kỉ cơng của xã
hội.
Nh vậy Luật phá sản doanh nghiệp (21/12/1998) ra đời
và đợc áp dụng vào thực tiễn, bên cạnh những vai trò to lớn
vẫn còn những điểm bất cập gây khó khăn đối với các cơ
quan Nhà nớc khi xét xử.
2.3 Một số văn bản qui phạm pháp luật có liên quan
đến phá sản doanh nghiệp.
- Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 của
chính phủ hớng dẫn thi hành Luật phá sản DN.
- Nghị định số 92/CP ngày 19/12/1995 của chính phủ về
giải quyết quyền lợi của ngời lao động trong doanh nghiệp
bị tuyên bố phá sản.


- Nghị định số 50/CP ngày 28/8/1996 của chính phủ về sửa
đổi và bổ xung một số điều của NĐ50 28/8/1996
- Thông t số 25 TC/TCDN ngày 15/5/1997 của Bộ Tài Chính
hớng dẫn trình tự, thủ tục, nguyên tắc xử lý tài chính
II Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp
theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
** Việc giải quyết tuyên bố phá sản dựa trên bốn nguyên
tắc cơ bản:
Thứ nhất: Ưu tiên việc hoà giải tự nguyện. Sau khi có
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Nhà nớc u
tiên cho việc hoà giải tự nguyện giữa chủ nợ và doanh
nghiệp mắc nợ, nhận bảo lãnh và mua lại các khoản nợ của
doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản đợc u tiên
giải quyết đến trớc ngày Toà án có quyết định mở thủ tục

giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thứ hai: Chỉ có T.A.N.D cấp tỉnh trở lên mới có thẩm
quyền tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thẩm quyền sử lý
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo Luật phá
sản doanh nghiệp qui định: Chỉ T.A.N.D cấp tỉnh,
T.A.N.D.T.C là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thứ ba: Nguyên tắc thi hành: phòng thi hành án thuộc
sở T pháp, Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc bộ t pháp
là cơ quan có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố
phá sản doanh nghiệp.
Thứ t: Nguyên tắc kiểm soát và giám sát việc xử lý
yêu câu phá sản. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở
nên mới có chức năng kiểm soát và giám sát việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết việc phá sản doanh
nghiệp theo qui định của pháp luật.
** Thủ tục làm đơn, nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thứ nhất: Thủ tục làm đơn của chủ nợ: Sau 30 ngày kể
từ khi gửi giấy
đòi nợ cùng hạn mà không đợc doanh nghiệp thanh toán,
hoặc doanh nghiệp không trả lơng cho ngời lao động 3
tháng liên tiếp thì các chủ nợ có quyền viết đơn nộp lên
toà án nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Thứ hai: Thủ tục làm đơn của chủ doanh nghiệp.
Trong trờng hợp đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó
khăn về tài chính và để thanh toán các khoản nợ đến hạn,
kể cả hoãn nợ mà doanh nghiệp không thoát khỏi tình



trạng mất khả năng trả nợ đến hạn thì chủ doanh nghiệp
hoặc ngời đại diện hợp pháp của họ làm đơn đến Toà án
nơi có trụ sở chính của doanh nghiệp xin tuyên bố phá
sản.
Thứ ba: Trách nhiệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản của Toà
án. Trong quá trình giải quyết các vụ án có liên quan đến
doanh nghiệp, nếu phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản thì Toà án báo cho các chủ nợ hoặc doanh
nghiệp đó biết để nộp đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố
phá sản doanh nghiệp. Nh vậy, Toà án cha có quyền giải
quyết khi cha có
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.


Thứ t: Trách nhiệm thông báo việc thụ lý đơn và yêu
cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ. Toà án thụ lý đơn phải
ghi vào sổ và cấp cho ngời nộp đơn giấy báo đã nhận
đợc đơn và các giấy tờ gửi kèm. Trong thời hạn 7 ngày, kể
từ ngày nhận đơn Toà án thông báo bằng văn bản cho
doanh nghiệp mắc nợ biết, có bản sao đơn và các tài liệu
liên quan kèm theo. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ khi nhận
đợc thông báo của Toà án, doanh nghiệp đó phải gửi báo
cáo về khả năng thanh toán nợ. Trong trờng hợp thừa nhận
mình đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì gửi các
tài liệu nh yêu cầu đối với việc doanh nghiệp tự làm đơn
xin tuyên bố phá sản.
Th năm : Thẩm quyền từ chối mở thủ tục giải quyết
đơn. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn. Chánh
toà kinh tế cấp tỉnh xem xét đơn và các tài liệu liên quan,

nếu xét thấy không đủ căn cứ thì ra quyết định không
mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp. Quyết định này phải nêu rõ lý do, gửi cho ngời
làm đơn và các doanh nghiệp mắc nợ biết. Trong thời hạn
15 ngày, sau khi nhận đợc quyết định từ chối giải quyết
của Chánh toà kinh tế cấp tỉnh thì các bên có quyền
khiếu nại lên Chánh án TAND cấp tỉnh về quyết định này.
Trong vòng 7 ngày, kể từ khi nhận đợc
đơn khiếu nại, chánh án TAND cấp tỉnh phải ra một trong
các quyết định sau:
- Giữ nguyên quyết định của Chánh toà kinh tế.
- Huỷ quyết định của Chánh toà kinh tế và yêu cầu
xem xét lại. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày chánh
án TAND cấp tỉnh ra quyết
định trên thì Chánh Toà án kinh tế phải ra quyết định mới
và gửi cho chánh
án cũng nh các đơng sự. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận đợc quyết
định khác của Chánh Toà kinh tế nếu các bên còn khiếu
nại thì Chánh án TAND cấp tỉnh xem xét. Trong thời hạn
7 ngày phải ra quyết đinh khác, quyết định lần này có
hiệu lực thi hành.
Nh vậy, việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp phải dựa trên một số nguyên tắc và tuân
theo những thủ tục nhất định.
Qua việc khảo sát pháp luật phá sản của một số nớc có
nền kinh tế thị trờng phát triển trên thế giới có thể đi
đến kết luận: thủ tục phá sản trong pháp luật các quốc



gia đó rất thống nhất với nhau mặc dù còn rất khác nhau
về mặt nội dung điều chỉnh pháp luật. Sở dĩ nh vậy là
pháp luật của
Các nớc đó có những quan niệm tơng đồng về những
nhóm lợi ích cần
đợc bảo vệ và phơng pháp bảo vệ một cách có hiệu quả
những lợi ích đó bao gồm các giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở
thụ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn điều tra, đánh giá khả
năng thanh toán nợ của doanh nghiệp.
Giai đoạn thứ ba: - Nếu doanh nghiệp có khả năng
phục hồi, toà án sẽ mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp thông
việc tổ chức hội nghị chủ nợ. Nếu hội nghị chủ nợ tổ chức
không thành thì toà án sẽ mở thủ tục tiếp theo.


- Nếu doanh nghiệp không có khả năng phục hồi, Toà
án sẽ mở thủ tục phá sản nhằm thanh lý tài sản của doanh
nghiệp.
Khác với thủ tục phá sản của các nớc kể trên, pháp luật
phá sản Việt Nam đợc thiết kế theo một thủ tục duy nhất
áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp mắc nợ. Theo
đó, việc phục hồi doanh nghiệp thông qua thiết chế Hội
nghị chủ nợ là một thủ tục có tính chất bắt buộc trong
trình tự phá sản của một doanh nghiệp. Và nh vậy, thủ
tục phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam trải qua các bớc:
Bớc 1: Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Bớc 2: Điều tra, đánh giá khả năng thanh toán nợ của

doanh nghiệp. Bớc 3: Phục hồi doanh nghiệp thông
qua thiết chế Hội nghị chủ nợ. Bớc 4: Tuyên bố phá
sản và thanh lý tài sản doanh nghiệp.


S¬ ®å kh¸i qu¸t tr×nh tù thñ tôc gi¶i quyÕt ph¸ s¶n doanh
LDN: nghiÖp theo


Nộp đơn

Chủ nợ (ko có bảo đảm,có
bảo đảm một phần, đại
diện Công đoàn), chủ DN,
đại diện hợp pháp DN

( 30
ngày)
Thời hạn 30 ngày

Toà Kinh tế TAND tỉnh
thụ lý (nếu HS hợp lệ và
nộp đủ lệ phí theo qui
định)
Không

Có dấu hiệu phá sản

Quyết định ko mở yêu
cầu tuyên bố phá

sản DN 15 ngày


7 ng

( 30 ngày)
7 ng

Quyết định mở yêu
cầu tuyên bố phá
sản DN

Quyết định ko mở yêu cầu tyuên bố phá sản DN

Khiếu nại

- Chỉ định thẩm phán
- Thành lập tổ quản lý tài sản
- Ân định thời điểm ngừng thanh toán
- Đăng báo (3 số báo liên tiếp T.Ư, ĐP)
- Khoá DS chủ nợ (60 ngày kể từ ngày đăng báo
đầu tiên)

Hội nghị chủ nợ hợp lệ
lần 1 ( 1/2 số chủ nợ
đại diện, 1/3 tổng
số nợ ko có bảo
đảm)

Không

( 30
ng)

Đăng báo T.Ư, ĐP 3 số báo liên tiếp

Hội nghị chủ nợ hợp lệ
lần 2 (chủ nợ đại diện
2/3 tổng số nợ ko có
bảo đảm)

Không

Đình chỉ giải
quyết



Hoà giải và đa ra giải pháp tổ chức
lại DN
Hoà giải thành và đa ra
giải pháp tổ chức
lại DN
Khôngbố phá
Quyết định tuyên
sản DN



30 ngày


Đ
ĂNG

BAO

Không quá 2 năm

Hết hạn hoà giải, vợt quá tình
trạng phá sản và ko có khiếu
nại của chủ nợ

Kháng nghị, khiếu nại
quyết
định tuyên bố phá sản DN


60 ngày

(10
ngày)
Ra quyết định phúc thẩm (Toà Kinh tế T.A.N.D.T.C)

không

Thi hành quyết định tuyên bố phá sản DN


1 Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Việc nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh

nghiệp là quyền của các chủ nợ. Riêng đối với doanh nghiệp
mắc nợ thì đó vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ.
1.1 Chủ nợ:
ở nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trờng phát triển,
việc phân loại chủ nợ chỉ đợc tiến hành khi mở thủ tục phá
sản, dựa trên cơ sở có hay không có tài sản bảo đảm tại
thời điểm mở thủ tục phá sản.
Chủ nợ không có bảo đảm là những chủ nợ trong quan
giao dịch với doanh nghiệp mắc nợ không có sự bảo đảm
hoàn trả nợ bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
Chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có khoản nợ đợc
bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ mà giá trị
tài sản đảm bảo ít hơn khoản nợ
đó.
Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ đợc bảo
đảm bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ nh: đã thế
chấp cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản khi vay mợn, mua, sang
nhợng tài sản khác.
Vậy trong số những chủ nợ này thì những ai có quyền
nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo qui
định pháp luật. Theo Điều 7 Luật phá sản doanh nghiệp
(30/12/1993) thì chỉ có chủ nợ không có bảo đảm và chủ
nợ có bảo đảm một phần mới có quyền nộp đơn lên Toà án
nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp để yêu cầu Toà án
giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Nếu sau
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà
không đợc doanh nghiệp thanh toán nợ.
Khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
chủ nợ phải gửi kèm theo bản sao giấy đòi nợ, các giấy tờ,
các tài liệu chứng minh doanh nghiệp mất khả năng thanh

toán nợ đến hạn. Và các chủ nợ còn phải nộp tiền tạm ứng lệ
phí trong trờng hợp này theo qui định của pháp luật.
Tuy vậy trên thực tế việc xác định và tiến hành phân
loại chủ nợ không phải là một công việc dễ dàng đối với toà
án trong quá trình giải quyết tuyên bố phá sản doanh
nghiệp. Mặt khác thì việc xác định chủ nợ có bảo đảm
một phần dựa trên giá trị tài sản đợc dùng để bảo đảm
nghĩa vụ tại thời điểm xác lập giao dịch, mà nh hiện nay
là không phù hợp vì trớc sự vận động và phát triển nhanh
chóng của nền kinh tế thị trờng thì nó đã gây ra các thiệt


hại cho các chủ nợ. Vì vậy, có lẽ đó chỉ là giải pháp có tính
chất quá độ ở nớc ta khi các thị trờng hình thành cha
đồng bộ và đặc biệt là thị trờng về các yếu tố sản xuất.
Ngời lao động cũng có quyền đệ đơn yêu cầu giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp với tính cách
là chủ nợ không có bảo đảm. Điều 8 Luật phá sản doanh
nghiệp (30/12/1993) qui định: Trong trờng hợp doanh
nghiệp không trả đợc lơng cho ngời lao động 3 tháng liên
tiếp thì đại diện công đoàn hoặc đại diện ngời lao
động nơi cha có tổ chức công đoàn có quyền nộp đơn
đến Toà án nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính yêu cầu
giải


quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Sau khi nộp
đơn, đại diện công
đoàn đợc coi là chủ nợ (chủ nợ không có bảo đảm) khác với
chủ nợ khác, ngời lao động không phải nộp tiền tạm ứng lệ

phí.
1.2 Doanh nghiệp mắc nợ:
Theo Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993):
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh
nghiệp gặp khó khăn hoặc bi thua lỗ trong hoạt động
kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần
thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Con nợ đợc hiểu là ngời chủ doanh nghiệp không có
khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Trong Luật phá
sản doanh nghiệp (31/12/1993) của nớc ta coi con nợ chính
là Doanh nghiệp mắc nợ họ có thể tiếp tục tham gia tố
tụng hoặc có thể uỷ quyền cho ngời khác mà pháp luật
gọi là Đại diện hợp pháp của doanh nghiệp là ngời đợc
chủ sở hữu doanh nghiệp uỷ quyền theo qui định của
pháp luật < Khoản 4 Điều 3 Luật phá sản doanh nghiệp
(31/12/1993) >.
Theo khoản 1 Điều 9 Luật phá sản doanh nghiệp
(31/12/1993): Trong trờng hợp đã thực hiện các biện pháp
khắc phục khó khăn về tài chính để thanh toán các
khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà doanh nghiệp vẫn
không thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn, thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện
hợp pháp của doanh nghiệp phải nộp đơn đến Toà án nơi
đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu việc tuyên bố
phá sản doanh nghiệp. Đơn phải ghi rõ: Tên và địa chỉ trụ
sở chính của doanh nghiệp, họ và tên của chủ doanh
nghiệp hoặc ngời đại diện hợp pháp của doanh nghiệp;
các biện pháp mà doanh nghiệp đã thực hiện nhng không
thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn;
kèm theo đơn phải có danh sách các chủ nợ và số nợ phải

trả cho các chủ nợ, địa chỉ của các chủ nợ, bản tờng trình
về trách nhiệm của giám đốc, các thành viên của Hội đồng
quản trị của doanh nghiệp đối với tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn, báo cáo tình hình kinh doanh 6
tháng trớc khi không trả đợc nợ đến hạn, báo cáo tổng kết 2
năm cuối cùng, nếu doanh nghiệp hoạt động cha đến 2
năm thì gửi báo cáo tổng kết tài chính của cả thời gian
hoạt động và các hồ sơ kế toán liên quan ( Theo Khoản 2
Điều 9 LPSDN 31/12/1993). Thêm vào đó thì các doanh


nghiệp còn phải nộp tiền tạm ứng lệ phí theo qui định của
pháp luật.
Tuy nhiên, trên thực tế, các doanh nghiệp khi đã lâm
vào tình trạng phá snả thì hầu hết không đủ điều khiện
để thực hiện đúng trình tự theo quy
định của Luật phá sản doanh nghiệp (31/12/1993).
Hơn nữa, khi hớng dẫn các toà kinh tế thuộc Toà án
nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân tối cao yêu cầu: mọi
trờng hợp khi có đơn tới Toà án để yêu cầu giải quyết tuyên
bố phá sản doanh nghiệp thì đều phải có xác nhận của
cơ quan kiểm toán đối với báo cáo tài chính của doanh
nghiệp. Khi cha có xác nhận của cơ quan kiểm toán thì
Toà án không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp. Song tài liệu để phục vụ kiểm toán rất
nan giải vì không ít các doanh nghiệp không có hoặc
không còn sổ sách kế toán, đặc biệt là các doanh nghiệp
t nhân. Thêm nữa là chi phí kiểm toán rất



cao và các doanh nghiệp khi đang lâm vào tình trạng phá
sản không có khả năng nộp khoản lệ phí này nên dẫn
đến tình trạng không có tài liệu kiểm toán. Do vậy trên
thực tế, số doanh nghiệp trong tình trạng phá sản rất
nhiều nhng số vụ Toà án thụ lý lại rất ít. Bên cạnh đó thì
các Toà án không đủ kinh phí để chi phí cho việc giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thậm chí
cả chi phí đăng báo, chi phí phục vụ kiểm toán
1.3 Toà án thụ lý và giải quyết:
Theo qui định của luật phá sản doanh nghiệp
(31/12/1993): Toà án kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp
tỉnh là cơ quan thụ lý và giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp.
Toà án thụ lý đơn phải vào sổ và cấp cho ngời nộp
đơn giấy báo đã nhận đợc đơn và các giấy tờ kèm theo
đơn. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Toà án
phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp mắc nợ
biết, có bản sao đơn và các tài liệu liên quan kèm theo
<Theo Điều 12 LPSDN 31/12/1993>.
2- Điều tra, đánh giá khả năng thanh toán nợ của
doanh nghiệp:
Mục đích của việc điều tra, đánh giá khả năng
thanh toán nợ của doanh nghiệp là để ra quyết định mở
hay không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, chánh toà kinh tế toà
án nhân dân cấp tỉnh phải xem xét
đơn và các tài liệu có liên quan để ra một trong hai quyết
định:

Một là: quyết định không mở thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản nếu xét thấy không đủ căn cứ.
Quyết định này phải thực hiện thành văn bản, ghi rõ lý do
và đợc gửi cho ngời làm đơn cũng nh doanh nghiệp mắc
nợ.
Hai là: Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản nếu xét thấy đã đầy đủ căn cứ. Theo
Điều 15 LPSDN, quyết định này phải đảm boả nội dung
sau đây:
Thứ nhất là: Nêu rõ lý do mở thủ tục yêu cầu giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.


Thứ hai là: ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ của
doanh nghiệp.
Thứ ba là: Họ và tên của thẩm phán phụ trách việc yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và các nhân viên của
tổ quản lý tài sản chỉ định.
Mọi khiếu nại của đơng sự đối với quyết định mở
hay không mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản sẽ đợc
Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo trình
tự giải quyết khiếu nại (theo quy định trong Điều 15 LPSDN
31/12/1993).
2.1 Nhiệm vụ của thẩm phán và tổ quản lý tài sản:
Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp đợc tiến hành thông qua hoạt động của thẩm phán
và tổ quản lý tài sản. Tuỳ thuộc tính chất và qui mô của vụ
phá sản, Chánh toà án kinh tế Toà án nhân dân cấp tỉnh
chỉ
định một thẩm phán hay tập thể gồm 3 thẩm phán để

giải quyết. Trờng hợp


×