Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.21 KB, 96 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA N
**********

PHẠM THỊ THƠM

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRO

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI H

Chuyên ngành: Văn học nước ngo

HÀ NỘI - 2009


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***********

PHẠM THỊ THƠM

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NGÔN NGỮ
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA LỖ TẤN
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Người hướng dẫn khoa học
TH.S NGUYỄN VĂN MỲ

HÀ NỘI - 2009



Mở đầu

1.Lý do chọn
đề tài

Quắc mắt coi khinh
nghìn lực sĩ Cúi đầu
làm ngựa chú nhi đồng.

Đó chính là những vần thơ nổi tiếng đợc truyền tụng nh
một châm ngôn sáng ngời của văn hào vĩ đại thế kỉ XX - Lỗ
Tấn (1881- 1936). Ông đợc ngợi ca là vị chủ tớng trên mặt trận
văn hóa - t tởng, đạt đợc thành tựu lớn nhất trong nền văn
học hiện đại Trung Quốc - một nền văn học thuộc về quần
chúng, gánh vác sứ mệnh phục vụ cách mạng của dân tộc
Trung Hoa. Bởi trong những cây bút xuất sắc đóng góp lớn
lao cho việc xây dựng và phát triển nền văn học ấy, Lỗ Tấn
không chỉ là ngời mở đờng, ngời đặt nền móng cho tòa nhà
văn học hiện đại Trung Quốc mà bóng dáng của ông còn bao
trùm lên cả thế kỉ XX.
Theo điện của Trung Ương Đảng cộng sản Trung Quốc,
Lỗ Tấn đợc
đánh giá là ngời thầy của cách mạng Trung Quốc, ngôi sao vĩ
đại nhất trên văn
đàn Trung Quốc, tấm gơng sáng cho tất cả ngời con của dân
tộc Trung Hoa, nhà văn mẫu mực trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và hòa bình.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Lỗ Tấn đã để lại di
sản đồ sộ, không phải chỉ vì toàn tập hai mơi tập, mỗi tập

gần nghìn trang mà vì mỗi truyện, mỗi bài tạp văn, mỗi bài
thơ đều nh lấp lánh một âm thanh và màu sắc riêng. Cái vĩ
đại của Lỗ Tấn chính là ở sự đa dạng của phong cách. Điều này
cho thấy Lỗ Tấn là một cây bút tạp văn sắc sảo, một ngòi bút
truyện ngắn cự phách, một hồn thơ ý vị đậm đà, một nhà
viết kịch sáng tạo, một nhà phê bình nổi tiếng.
Đặc biệt đáng chú ý là truyện ngắn của ông. Truyện
ngắn đợc coi là một bộ phận khá quan trọng, là những


truyện ngắn có kích thớc truyện dài ( Nguyễn Tuân), trong
đó chứa đựng những t tởng tâm huyết, tài năng của ngời kỹ
s tâm hồn dân tộc - Lỗ Tấn. Đọc truyện của Lỗ Tấn ngời đọc
nh thấy nhà nghệ sĩ ấy đã cố ý đem cả khối nhiệt tình mà
kiến trúc lại để cho lý trí có thể vận dụng những điều quan
sát vào trong khái quát nghệ thuật để mô tả sự vật thực tế
theo những nét bút sâu sắc, bạo dạn, rắn rỏi nh ngọn dao
nhà điêu


khắc... Lỗ Tấn đã nén hẳn mối cảm tình chủ quan để có
gan mà viết những câu văn âm thanh đầy đặn có thể xúc
động cả tâm cơ độc giả - (Lỗ Tấn - thân thế và văn nghiệp,
Đặng Thai Mai, Nxb thời đại, 1944).
Là một nhà văn yêu nớc và cách mạng, Lỗ Tấn đã luôn luôn
quan tâm
đến vận mệnh Tổ Quốc, đời sống nhân dân do đó Lỗ Tấn
đã dùng ngòi bút làm vũ khí tham gia vào cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc. Lỗ Tấn từng học khai khoáng, từng học y khoa,
cuối cùng nắm lấy vũ khí văn nghệ bởi theo ông thức tỉnh

tinh thần dân chúng, cải tạo và nâng cao đời sống tinh thần
con ngời là nhiệm vụ cấp bách của sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội: Ông đã hát cho đồng bào mình nghe
bài hát lạc điệu của bản thân họ, chỉ cho họ thấy những bớc
đi sai nhịp trên con đờng hành quân tiến về tơng lai[14.15].
Hai tập Gào thét (1918 - 1922) và Bàng hoàng (1924 1926) là hai tập truyện ngắn tiêu biểu nhất của nhà văn. Hai
tập truyện này đã phản ánh những vấn đề trọng đại của xã
hội Trung Quốc trong giai đoạn chuyển mình từ cách mạng
dân chủ cũ sang cách mạng dân chủ mới cụ thể là những năm
trớc và sau cách mạng Tân Hợi (1911) đến cao trào cách mạng
(1925 -1926). Các tác phẩm
đã tái hiện nỗi đau khổ cùng cực của ngời nhân dân Trung
Quốc một cách sâu sắc trớc khi đợc sự giác ngộ của giai cấp vô
sản, vạch ra tiền đề cách mạng với một niềm tin tởng ở tơng lai.
Đặc biệt qua những đoản thiên tiểu thuyết này, Lỗ Tấn
đã nêu lên một chân lý: giá trị của một nhà văn không phải ở
chỗ đề cập đến những chủ đề trớc mắt hay lâu dài. Vấn
đề cơ bản vẫn là sự thống nhất giữa nội dung sâu sắc và
nghệ thuật điêu luyện. Đọc truyện ngắn Lỗ Tấn, chúng ta bắt
gặp một tài năng nghệ thuật độc đáo kết tinh giữa chiều
sâu của nhà t tởng, nhiệt tình của nhà yêu nớc và sự chắt lọc
của những cây bút cổ văn Trung Hoa.


Vì vậy, có thể nói Lỗ Tấn đã có những đóng góp rất lớn
về mặt thi pháp và thể loại cho nền văn học không chỉ nớc
Trung Hoa. Đó là những đóng góp nâng tạp văn thành một thể
loại văn học và về đặc sắc ở bút pháp nghệ thuật truyện
ngắn trong đó có nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật
rất tinh tế và sắc sảo. Sự đóng góp ấy cho thấy Lỗ Tấn đã trở

thành một vị dũng tớng tiên phong mở
đờng nh ông từng tuyên bố nếu không có một vị dũng tớng có
khả năng đột


phá mọi t tởng và thủ pháp truyền thống thì Trung Quốc không
thể có một nền văn học mới đích thực. Bên cạnh đó, Phađêep
(nhà văn Xô Viết) đã đánh giá tài năng nghệ thuật của nhà văn
họ Chu: Lỗ Tấn là nhà văn Trung Quốc một trăm phần trăm.
Ông đã cống hiến cho nhân loại những hình thức dân tộc
không bắt chớc đợc....
ở Việt Nam, Lỗ Tấn là một trong số tác gia văn học nớc
ngoài rất đợc chú ý và quan tâm. Nhiều tác phẩm của nhà
văn họ Chu này đã đợc đa vào giảng dạy và nghiên cứu ở chơng trình giáo dục của các bậc phổ thông, cao
đẳng, đại học. Nhất là các truyện ngắn Thuốc, Cố hơng, và
các trích đoạn của truyện ngắn AQ chính truyện đã đợc đa
vào tìm hiểu ở chơng trình phổ thông trung học.
Vậy nên, việc học tập và nghiên cứu, tìm hiểu về Lỗ
Tấn sẽ giúp cho ngời viết khóa luận không những có cái nhìn
đầy đủ hơn về xã hội Trung Quốc thời Lỗ Tấn, về tài năng
nghệ thuật với nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật cũng
nh t tởng của văn hào vĩ đại thế kỉ XX Lỗ Tấn, đồng thời thực
tế hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy văn học nớc ngoài sau này ở trờng phổ thông.

2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lỗ Tấn là danh nhân văn hóa thế giới, là kĩ s tâm hồn của
nhân dân, thời
đại mình (Lơng Duy Thứ). Ông đã tiếp thu sàng lọc đủ mọi
thứ t tởng triết học và văn học xuất hiện ở Trung Quốc vào
đầu thế kỉ XX để có thể hình thành một t tởng văn nghệ và

một phong cách văn chơng của riêng mình. Dọc theo chiều dài
của thế kỉ XX đến nay, t tởng văn nghệ và phong cách văn
chơng ấy của Lỗ Tấn còn in đậm dấu ấn trong hàng loạt tác
phẩm và sự nghiệp của các thế hệ nhà văn Trung Hoa. Do đó,
Lỗ Tấn và sáng tác của ông dờng nh đã trở thành nam châm


thu hót sù chó ý cña c¸c nhµ nghiªn cøu, nhµ phª b×nh v¨n häc
trong níc còng nh trªn thÕ giíi.


Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật trong truyện
ngắn của Lỗ Tấn là một vấn đề không mới. Ngời viết có thể
dẫn ra một số công trình nghiên cứu về vấn đề này:
Lịch sử văn học Trung Quốc (Nguyễn Khắc Phi, Lu Đức
Trung, Trần Lê Bảo) đã khẳng định tính hàm súc trong khi sử
dụng ngôn ngữ của Lỗ Tấn: Ngòi bút Lỗ Tấn điêu luyện tinh
tế, biết thâu tóm những đặc trng sự vật, lời ít, ý nhiều,
phác họa vài ba nét mà thành bức tranh, một đoạn văn ngắn
mà chứa đựng nhiều ý nghĩa.
Đồng thời, các tác giả cũng đánh giá cao tài năng nghệ
thuật của Lỗ Tấn với đề tài phong phú, xây dựng hình tợng
điển hình, tính chất châm biếm và u mua khá nổi bật, tác
phẩm đậm chất trữ tình. Tất cả những điều này luôn đi kèm
với việc: Ông tiếp thu tinh hoa của văn ngôn pha lẫn với bạch
thoại, thứ bạch thoại ông dùng cũng không phải thứ khẩu ngữ
chung chung mà là ngôn ngữ nghệ thuật giàu phong cách độc
đáo, vừa dồi dào vừa giản dị, vừa khái quát vừa cụ thể, ngắn
gọn


nhng

không giản

đơn,

sinh

động

chứ

không

giả

tạo[9.214].
Mặt khác, các tác giả còn nêu lên dụng ý nghệ thuật của
Lỗ Tấn khi xây dựng ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm của
mình:
Trong truyện Lỗ Tấn thờng lặp đi lặp lại lời nói của nhân
vật để xoáy đi xoáy lại vết thơng lòng của họ [9.215].
Trong Lỗ Tấn phân tích tác phẩm của tác giả Lơng Duy
Thứ nhận định: Qua đối thoại giữa các nhân vật, qua hành
động và ngôn ngữ từng nhân vật dần dần giới thiệu rõ tính
cách nhân vật phát hiện đầy đủ chủ đề và t tởng chủ đề
của tác phẩm. Và đối thoại giữa các nhân vật thờng ngắn
gọn, đúng nh ngôn ngữ giao tiếp đầu miệng[14.68].
Trong Mấy vấn đề thi pháp Lỗ Tấn và việc giảng dạy Lỗ
Tấn trong trờng phổ thông của GS Lơng Duy Thứ đã đề cập

đến ngôn ngữ của ngời kể chuyện rất sắc nét: khi sử dụng
ngôn ngữ ngời kể chuyện cho dù chỉ một nhận xét ngắn


gọn, sơ sài cũng phải là ngôn ngữ có hình tợng gợi lên một
hình ảnh, phát hiện một tính cách chứ không phải là một nhận
xét đơn thuần[12.50]. Bên cạnh
đó, tác giả đã có những đánh giá rất sâu sắc về ngôn ngữ
đối thoại của nhân vật: Qua đối thoại giữa các nhân vật, qua
hành động của nhân vật dần dần giới thiệu


rõ tính cách của nhân vật, phát triển chủ đề của tác phẩm.
Và nhấn mạnh rõ sự lặp đi lặp lại trong ngôn ngữ nhân vật,
qua vài dòng đối thoại độc đáo mà phản
ánh đợc cả thề giới tâm hồn nhân vật.
Trong Lỗ Tấn- tác phẩm và t liệu Lơng Duy Thứ đã trích
dẫn bài viết của Nguyễn Tuân trong đó Nguyễn Tuân đã
phân tích một cách sâu sắc ngôn ngữ đối thoại giữa nhân
vật Tờng Lâm và nhân vật tôi trong truyện ngắn Chúc
phúc đã có một vang hởng thống thiết vào lòng ngời đọc.
Sách gập lại rồi mà vẫn văng vẳng d âm những lời của Tờng
Lâm.
Tác giả Phơng Lựu trong Lỗ Tấn - nhà lý luận văn học
Nxb ĐH và THCN đề cập đến các truyện ngắn của Lỗ Tấn
nh: Cố hơng, Một câu chuyện nhỏ, Trong quán rợu...đợc kể
bằng ngôn ngữ ngời kể chuyện xng tôi làm nổi bật hình tợng ngời trí thức. Đó có thể coi là những lời tự bạch, những
mảnh kí ức của nhà văn.
Ngoài ra, còn có một đội ngũ các dịch giả, các nhà
nghiên cứu, phê bình các tác phẩm của Lỗ Tấn với những tên

tuổi nh: Phan Khôi, Trơng Chính, Phạm Tú Châu, Lê Nguyên
Cẩn, Lý Hà Lâm...trong các công trình nghiên cứu của mình
các tác giả nhìn nhận vấn đề nghệ thuật đặc biệt là nghệ
thuật xây dựng ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của
Lỗ Tấn ở nhiều góc độ khác nhau: ngôn ngữ đối thoại của
nhân vật ngời trí thức, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật ngời nông dân, ngôn ngữ ngời kể chuyện...
Tuy vậy cho đến nay, vẫn cha có công trình nào đi sâu
vào nghiên cứu và làm rõ vấn đề này một cách tách bạch, cụ
thể nh một phơng diện góp phần thể hiện giá trị nội dung tác
phẩm. trong Vì sao tôi viết tiểu thuyết Lỗ Tấn đã từng nói:
yêu cầu để cho t tởng một địa bàn rộng, cho ngôn ngữ một
địa bàn hẹp
bởi ông nói Tôi tránh lối hành văn dài dòng, chỉ cần cảm thấy
truyền đợc đủ ý


cho ngời khác thì nhất thiết không thêm bớt gì nữa. Nói
nh vậy không có nghĩa là việc tìm hiểu ngôn ngữ của tác
phẩm là không quan trọng. Vấn đề Nghệ thuật xây dựng
ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn của Lỗ Tấn có một
ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu tác phẩm của
nhà văn bởi bên cạnh một nội dung sâu sắc là một nghệ thuật
điêu luyện mà ngôn ngữ nhân vật là một yếu tố rất cần
thiết. Trên cơ sở những nhận định, đánh giá có tính chất
mở


đờng, thiết nghĩ việc nghiên cứu vấn đề này trong tác phẩm
của Lỗ Tấn là một việc làm hết sức bổ ích và đáng lu tâm
nhất là cho việc giảng dạy tác phẩm của nhà văn trong trờng

phổ thông.
3.Mục đích nghiên cứu
Với khoá luận này, mục đích nghiên cứu của ngời viết là
mong muốn góp một phần nào đó vào việc tìm hiểu khám
phá nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật trong truyện
ngắn của Lỗ Tấn một cách cụ thể hơn, sâu sắc hơn. Qua
đó, ta thấy đợc tài năng nghệ thuật của thiên tài văn học Lỗ
Tấn đã ghi lại đợc những gì xảy ra xung quanh cuộc sống của
những con ngời trong ngôi nhà bằng sắt không có cửa sổ.
4.Nhiệm vụ nghiên cứu
Chọn đề tài Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật
trong truyện ngắn Lỗ Tấn, nhiệm vụ nghiên cứu là cần làm
sáng tỏ tài năng của Lỗ Tấn trong việc xây ngôn ngữ nhân
vật ở các phơng diện: ngôn ngữ đối thoại của nhân vật
(ngời nông dân và ngời trí thức), nghệ thuật xây dựng
ngôn ngữ nhân vật ngời kể chuyện. Mỗi nhân vật có một
ngôn ngữ riêng tùy theo thành phần xã hội ở điều kiện lịch sử
xã hội cụ thể, qua đó thể hiện tính cách tâm hồn của nhân
vật trong xã hội Trung Quốc vào giai đoạn chuyển mình.
5.Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tợng nghiên cứu
Trong khóa luận này, đối tợng mà ngời viết tập trung
tìm hiểu là nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật trong
truyện ngắn của Lỗ Tấn.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, ngời viết khóa luận
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số tác phẩm từ trớc đến nay
vẫn đợc coi là tiêu biểu trong truyện ngắn của Lỗ Tấn để làm
rõ một khía cạnh của nghệ thuật đó là ngôn ngữ nhân vật:
1.Thuốc


6. Khổng ất Kỷ


2.AQ chính truyện
mất

7. Tiếc thơng những ngày đã

3.Cố hơng

8. Ly hôn

4.Lễ cầu phúc

9. Nhật ký ngời điên


5.Ngày mai

10. Một gia đình hạnh phúc

6.Phơng pháp nghiên cứu
- Phơng pháp thống kê
- Phơng pháp phân tích, tổng hợp
- Phơng pháp so sánh, đối chiếu

7.Đóng góp của khóa luận
Với khóa luận này, ngời viết mong muốn đóng góp một
phần nào đó trong việc tìm hiểu tài năng xây dựng ngôn

ngữ nhân vật của nhà văn. Một xã hội Trung Quốc trớc và sau
cách mạng Tân Hợi, trớc và sau phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919),
Lỗ Tấn thấy không biết bao nhiêu là con bệnh thời đại, ngời
nớc và thế nớc đều chìm đắm trong u mê oan trái. Bóng tối lễ
giáo phong kiến trùm lên thời bệnh, xã hội nấu nung một áng
khổ, buồn, cái môi trờng ấy cứ ngày tấy lên nh một nhọt bọc
khổng lồ. Ông thầy thuốc Lỗ Tấn đã cầm bút. Lòng sôi lên yêu
dấu nhng tay lạnh lùng, óc tỉnh táo. Lỗ Tấn giải phẫu nghệ
thuật và phẫu thuật. Với một nghệ thuật điêu luyện, đặc biệt
là ngôn ngữ nhân vật sắc sảo, tinh tế, nhà văn họ Chu đã mổ
xẻ, phanh phui mọi thói h tật xấu của quảng đại quần chúng
nhân dân đang mê muội và bị lợi dụng. Đồng thời, giúp ta có
cái nhìn đầy đủ hơn về xã hội Trung Quốc thời kì Lỗ Tấn và
t tởng nhân
đạo sâu sắc của thiên tài Lỗ Tấn.
Về mặt thực tiễn, nghiên cứu đề tài này sẽ giúp cho
những giáo viên dạy văn khi giảng dạy văn học nớc ngoài nhất
là giảng dạy tác phẩm của nhà văn Lỗ Tấn thuận lợi hơn, đặc
biệt khi nhìn nhận tác phẩm của Lỗ Tấn ở một phơng diện
nghệ thuật ngôn ngữ nhân vật.
8.Bố cục khóa luận
Cơ cấu của khóa luận gồm:
- Mở đầu
- Nội dung


Ch¬ng 1: NghÖ thuËt x©y dùng ng«n ng÷ ®èi tho¹i
cña nh©n vËt trong truyÖn ng¾n cña Lç TÊn



Chơng 2: Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật
ngời kể chuyện trong truyện ngắn Lỗ Tấn
- Kết luận
- Th mục tham khảo

Nội
dung
Chơng
1
nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ
đối thoại của nhân vật trong
truyện ngắn của Lỗ Tấn

1.1. Một số khái niệm
1.1.1.Nhân vật văn học
Nhìn một cách rộng nhất, nhân vật là khái niệm không
chỉ đợc dùng trong văn chơng mà còn ở lĩnh vực khác.
Theo bộ từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2007, Hoàng
Phê (chủ biên) đã viết: nhân vật là khái niệm mang hai nghĩa:
chỉ đối tợng (thờng là con ngời)
đợc miêu tả, thể hiện trong các tác phẩm văn học nghệ thuật
và nghĩa thứ hai
nhân vật chỉ ngời có tiếng tăm có một vai trò nhất định
trong xã hội. Điều này chứng tỏ thuật ngữ nhân vật đợc dùng
phổ biến ở nhiều mặt cả đời sống nghệ thuật, đời sống xã
hội, chính trị lẫn đời sống sinh hoạt hàng ngày Nhng trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài, ngời viết chỉ đề cập đến khái
niệm nhân vật theo nghĩa thứ nhất.
Tiếng Hi Lạp cổ lúc đầu cho rằng nhân vật mang ý
nghĩa chỉ cái mặt nạ của diễn viên trên sân khấu. Theo thời

gian chúng ta sử dụng nghệ thuật này với tần số nhiều nhất, th-


ờng xuyên nhất để chỉ đối tợng mà văn học miêu tả và thể
hiện.
Còn trong giáo trình Lý luận văn học, Nxb Giáo Dục, 1993
(Hà Minh Đức chủ biên) viết: nhân vật văn học là một hình tợng nghệ thuật mang tính ớc lệ.
Đó không phải là sự sao chép đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện
của con ngời mà chỉ là sự thể hiện con ngời qua những đặc
điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp,


tính cách thực ra, khái niệm nhân vật thờng đợc quan niệm
với một phạm vi rộng lớn hơn nhiều. Đó không chỉ là con ngời,
những con ngời có tên hoặc không tên, đợc khắc họa sâu
đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà còn là
sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con
ngời Cũng có khi không phải là những con ngời, sự vật cụ
thể mà chỉ là một hiện tợng về con ngời hoặc liên quan đến
con ngời đợc thể hiện trong tác phẩm.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học Nxb Giáo dục, 2006, Lê
Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) đã định nghĩa:
nhân vật văn học là con ngời cụ thể đợc miêu tả trong tác
phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm,
Cám, chị Dậu) cũng có thể không có tên riêng nh: thằng bán
tơ, một mụ nào trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Khái
niệm nhân vật văn học có khi đợc sử dụng nh một ẩn dụ,
không chỉ một con ngời cụ thể nào cả mà chỉ một hiện tợng
nổi bật nào đó trong tác phẩm. Nhân vật văn học là một

đơn vị nghệ thuật đầy tính ớc lệ, không thể đồng nhất nó
với con ngời có thật trong đời sống. Nó có chức năng cơ bản
là khái quát tính cách của con ngời. Đồng thời, nhân vật văn
học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tởng thẩm mỹ
của nhà văn về con ngời. Và từ những góc độ khác nhau có
thể chia nhân vật thành nhiều kiểu loại khác nhau: nhân vật
chính - phụ, nhân vật chính diện - phản diện, nhân vật tính
cách - chức năng
Dù cách này hay cách khác, khi định nghĩa nhân vật văn
học vẫn cơ bản gặp nhau ở chỗ: nhân vật văn học là đối tợng
mà văn học miêu tả, thể hiện bằng những phơng tiện văn học.
Thứ hai là những con ngời, những đồ vật, con vật, sự vật hiện
tợng mang linh hồn con ngời, là hình ảnh của con ngời. Thứ
ba: nhân vật văn học là đối tợng mang tính ớc lệ và có cách
điệu so với đời sống hiện thực bởi nó đã đợc khúc xạ qua lăng
kính chủ quan của nhà văn.


Đối với mỗi nhân vật văn học thì tính cách đợc coi là
đặc điểm quan trọng nhất, là hạt nhân và là nội dung của
mọi nhân vật văn học. Bên cạnh đó, chức năng đầu tiên trọng
yếu của nhân vật là làm phơng tiện để nhà văn khái quát
đợc hiện thực: Nhân vật chính là ngời dẫn dắt ngời đọc
vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kỳ nhất
định


Nhân vật còn là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn
học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề và t tởng chủ đề và đến lợt
mình nó lại đợc các yếu tố có tính hình thức tập trung khắc

họa. Vì thế, khi xây dựng nhân vật, Lỗ Tấn đặc biệt chú ý
đến nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ của nhân vật trong tác
phẩm của mình. Ngôn ngữ nhân vật đợc nhà văn sử dụng nh
một công cụ để gửi gắm t tởng, ý đồ muốn truyền đạt. Nhà
văn họ Chu này đã xem tác phẩm văn học nh là một vũ khí hữu
hiệu đồng thời lòng u phẫn của nhà văn cũng đợc bộc lộ rõ
nét trớc xã hội đơng thời - một xã hội hơn 95% dân số là
nông dân đang trong hành trình vật vã tìm đờng. Có lẽ vì
thế mà các nhân vật, nói đúng hơn là ngôn ngữ của các
nhân vật trong các truyện ngắn hai tập Gào thét và Bàng
hoàng
đợc nhà văn chú trọng xây dựng.
Chẳng hạn: trong truyện AQ chính truyện, Lỗ Tấn đã
xây dựng nhân vật AQ rất sống động. Ngôn ngữ của AQ
chân thật, là ngôn ngữ hằng ngày mang tính khẩu ngữ, qua
đó nhà văn đã khái quát tính cách của nhân vật AQ: một con
ngời lạc hậu, mê muội dới chế độ cũ nhng luôn cho mình là
văn minh, là nhất thiên hạ. Đó cũng chính là tình trạng của
nhân dân Trung Quốc trong giai
đoạn chuyển mình Ngời Trung Quốc không dám nhìn
thẳng vào mọi mặt, dùng dối trá và lừa phỉnh để tạo cho
mình một lối thoát kỳ diệu và tự cho đó là con đờng đúng
(Trơng mắt nhìn - tạp văn 57).
1.1.2.

Khái niệm ngôn ngữ nhân vật văn học

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, 2006, Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên):
Ngôn ngữ nhân vật văn học là lời nói của nhân vật

trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự và kịch. Ngôn ngữ
nhân vật là một trong các phơng tiện quan trọng đợc nhà văn
sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Mỗi


nhân vật có một ngôn ngữ mang đặc điểm riêng, có lời ăn
tiếng nói riêng. Mặt khác, ngôn ngữ ấy lại phản ánh đợc đặc
điểm ngôn ngữ của một tầng lớp, lớp ngời nhất định gần gũi
về nghề nghiệp, tâm lý, giai cấp, trình độ văn hóa
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học.
Vì vậy, văn học
đợc gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. M.Gorơki cũng đã
khẳng định: Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học.


Xét về mặt nào đó, nhà văn là nghệ sĩ của từ. Sứ mệnh
cao cả của nhà văn
đối với ngôn ngữ là ở chỗ qua những tác phẩm mẫu mực của
mình, một mặt bảo vệ sự trong sáng, mặt khác phải làm
giàu có, phong phú hơn tiếng mẹ đẻ. Nhà văn phải nắm
chắc đến mức am tờng các phơng diện ngữ pháp, ngữ âm,
ngữ nghĩa chính tả, phải làm chủ kho từ vựng cơ bản, đồng
thời biết cách khai thác và vận dụng đúng lúc, đúng chỗ
những nguồn ngôn ngữ đặc biệt: tiếng địa phơng, tiếng
lóng, tiếng nớc ngoài, khẩu ngữ và những từ mới xuất hiện. Bên
cạnh đó, ngời nghệ sĩ phải triệt để khai thác các phơng
thức chuyển nghĩa, các biện pháp tu từ, biết cách dùng từ cũ
với nhiều nghĩa mới. Từ đó, tài năng nghệ thuật, cá tính sáng
tạo và phong cách của ngời nghệ sĩ đợc bộc lộ rõ nét.
Đặc biệt, tùy theo các thể loại văn học khác nhau mà ngôn

ngữ của nhân vật văn học lại có những đặc điểm và biểu
hiện khác nhau:
1.1.2.1.

Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm kịch

Tác phẩm kịch sử dụng ngôn ngữ các nhân vật đợc cấu
trúc qua hệ thống
đối thoại và độc thoại trong đó đối thoại là chủ yếu. Nó gần
gũi với tiếng nói thông thờng của nhân dân, không mang tính
cách điệu. Bên cạnh đó, ngôn ngữ kịch còn gắn liền với cử
chỉ, động tác của nhân vật thể hiện rõ cá tính, tính cách của
nhân vật.
1.1.2.2.

Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm trữ tình

Đây là ngôn ngữ đợc tổ chức trên cơ sở nhịp điệu, hết
sức cô đọng, hàm súc và gợi cảm. Ngôn ngữ trong các tác
phẩm trữ tình gắn liền với cá tính, tính cách sáng tác của tác
giả, đồng thời ngôn ngữ nhân vật trữ tình còn rất giàu hình
ảnh đợc hiện lên qua lời văn nghệ thuật của tác giả.
1.1.2.3.

Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm tự sự

Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng không thể thiếu đợc trong
tác phẩm tự sự vì toàn bộ cốt truyện, nhân vật đợc dệt lên



qua lời kể đó. Nó là phơng tiện biểu hiện thái độ, tình cảm,
t tởng sự đánh giá của tác giả đối với cuộc sống thực tế. Thông
qua ngôn ngữ ta có thể hiểu đợc ý đồ của nhà văn là gì? Hiện
thực chỉ có một nhng ở mỗi nhà văn nó đợc phản ánh khác
nhau bởi hiện thực ấy đợc triết quang khúc xạ qua lăng kính
chủ quan của ngời nghệ sĩ, bằng những ngôn ngữ sắc sảo,
tinh tế.


Ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự là ngôn ngữ đa dạng,
ngôn ngữ của nhiều tính cách. Sự khác biệt giữa ngôn ngữ
kịch với ngôn ngữ tác phẩm tự sự là ở chỗ, trong tác phẩm tự
sự ngôn ngữ ngời kể chuyện giữ vai trò quyết định đối với
toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm.
Nếu trong tác phẩm trữ tình, ngôn ngữ trữ tình là
tiếng hát tâm hồn, là cách trữ tình của ngời nghệ sĩ. Đó
chính là thứ ngôn ngữ diễn tả những gì phức tạp của thế giới
nội tâm, ngôn ngữ giàu nhạc điệu có tính tạo hình cao, có
khả năng cụ thể hóa những trạng thái mơ hồ nhất mà không
tuân theo lôgic tự nhiên của đời sống. Thì ngôn ngữ trong
tác phẩm tự sự gần giống với ngôn ngữ đời
sống hàng ngày. ở tác phẩm tự sự gồm có hai ngôn ngữ: ngôn
ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả. Qua ngôn ngữ nhân vật
bộc lộ tính cách nhân vật, qua ngôn ngữ tác giả, cá tính sáng
tạo của nhà văn đợc khẳng định.
Đọc truyện ngắn Lỗ Tấn, chúng ta bắt gặp một tài năng
nghệ thuật độc
đáo kết tinh bởi nhiều yếu tố: nghệ thuật xây dựng hình tợng điển hình, đề tài phong phú, ngòi bút châm biếm với
việc vận dụng linh hoạt nhiều thủ pháp nh khoa trơng, phóng
đại, lối phản ngữ, cách chơi chữ đồng thời nhà văn đã sử

dụng ngôn ngữ nhân vật rất sinh động và tinh tế. Bằng ngôn
ngữ, Lỗ Tấn đã cho bạn đọc thấy đợc thành phần xã hội, dấu
hiệu chủng loại, lớp ngời của

các nhân vật trong tác phẩm:

giai cấp nông dân hay tầng lớp trí thức. Mỗi nhân vật lại có
một ngôn ngữ riêng. Điều này đợc quy định trong mối quan
hệ với hoàn cảnh lịch sử xã hội Trung Quốc.
Ví nh Cố hơng là một truyện ngắn trữ tình của Lỗ Tấn.
Nhân vật trung tâm trong thiên truyện ngắn là Nhuận Thổ.
Nhuận Thổ là một nông dân, đợc nhà văn miêu tả trong hai
thời điểm quá khứ và hiện tại. Qua ngôn ngữ của nhân vật
Nhuận Thổ đối thoại với nhân vật tôi cho ta thấy sự thay
đổi của cậu bé Nhuận Thổ trong quá khứ - hồn nhiên, thơ


×