Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong truyện ngắn “Say Nắng ” của Ivan Bunin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.83 KB, 12 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
---------------

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
MÔN: VĂN HỌC PHÁP - ANH (TK XVIII-XIX)
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN “SAY
NẮNG” CỦA IVAN BUNIN
Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong truyện ngắn “Say Nắng ” của Ivan Bunin

Giảng viên

: Đào Duy Hiệp

Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thị Huệ

Lớp

: K50-Văn CLC

Hà Nội -2007

1


I.

GIỚI THIỆU VỀ BUNIN VÀ TRUYỆN NGẮN “SAY NẮNG”



1. Tác giả Bunin.
Bunin là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Nga thế kỷ XX.
Giống như nhiều nhà văn Nga khác, ơng mang trong mình tình u tha thiết với đất
nước Nga, con người Nga, như ông đã nói: “Đất nước và con người bao giờ cũng
khiến tôi rung động”. Bunin không để lại một di sản văn học đồ sộ. Nhưng đó lại là
“cả một chương của sự phát triển văn học Nga trong thế kỷ chúng ta”. Có ý kiến cho
rằng, sau Tsekhov, Bunin đã đem lại sự đổi mới cho thể loại truyện ngắn Nga. Mỗi
truyện ngắn của ông vừa là một áng văn suôi lại vừa là một bài thơ, được viết bằng trí
tuệ và trái tim của một nhà tư tưởng, một nhà triết học và một nhà thơ.
Tác phẩm của Bunin xoay quanh những đề tài: thiên nhiên, tình yêu, cái chết.
Đó là những gì thường nhật của cuộc sống, đã quá thân quen trong sáng tạo của nhiều
tác giả khác. Nhưng với một cách viết riêng, Bunin đã tự khẳng định giá trị của cây
bút mình trong số đó, đề tài tình yêu dường như đã trở thành mối quan tâm của khơng
ít tác giả.
2. Truyện ngắn “Say nắng”
“Say nắng” mà tác phẩm nằm trong mạch cảm xúc viết về đề tài tình yêu của
Bunin. Nhan đề của truyện đã gợi cho ta sự tò mò, khiến ta phải đặt những câu hỏi: tại
sao? Như thế nào?… Truyện tưởng chừng như đơn giản về cốt truyện nhưng thực ra
lại vô cùng sâu sắc. Nó được tạo nên từ khơng khí thấm đẫm tình yêu trong từng trang
viết. Bunin đã thực sự thành công khi đi sâu miêu tả tâm lý nhân vật “Say nắng”, giúp
người đọc giải đáp những câu hỏi đặt ra trước đó. “Say nắng” có thể coi là một trong
những tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Đó cũng là
lý do người viết chọn đề tài nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong truyện ngắn “Say
nắng”.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ DIỄN BIẾN TÂM LÝ NHÂN
VẬT.
Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật là một phương diện trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của nhà văn, gắn liền với miêu tả ngoại hình và miêu tả hành
động của nhân vật. Điều đó cũng có nghĩa là tính tất yếu trong hành động thường liên

quan chặt chẽ với tính tất yếu trong hành động nội tâm của nhân vật. Ở đây khái niệm
“nội tâm” chỉ toàn bộ cuộc sống bên trong của nhân vật. Đó là những tâm trạng, suy
nghĩ, cảm xúc, cảm giác, những phản ứng tâm lý của bản thân nhân vật trước cảnh
ngộ, tình huống mà nhân vật chứng kiến hoặc thể nghiệm trên bước đường đời của
mình. Nhà văn có thể trực tiếp biểu hiện nội tâm của nhân vật bằng ngôn ngữ của

2


chính mình với tư cách người kể chuyện. Nhưng biện pháp mà nhà văn hay dùng nhất
là biểu hiện “độc thoại nội tâm” và “đối thoại nội tâm” của nhân vật. Những đoạn này
được thể hiện bằng chính ngơn ngữ của nhân vật, chúng “vang lên” một cách thầm
lặng trong tâm tư của nhân vật. Nhân vật tự biểu hiện, phơi bày những diễn biến trong
tâm trạng của mình qua những suy nghĩ, cảm xúc cụ thể. Có thể nói để đạt được sự
thành công trong miêu tả tâm lý nhân vật. Nhà văn phải thực sự nhập thân vào nhân
vật,phải sống cùng nhân vật của mình, đồng cảm với từng niềm vui, nỗi buồn của nhân
vật. Có như vậy người sáng tạo mới có thể thể hiện hết những cung bậc của trạng thái
cảm xúc, những thay đổi của diễn biến tâm lý phức tạp. Đó chính là điều mà một nhân
vật cần đạt tới.
Tất cả những điều đó đã được Bunin thể hiện thành công trong truyện ngắn
“Say nắng”.
III. NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN “SAY
NẮNG” CỦA BUNIN.
1. Giới thiệu khái quát về truyện ngắn “Say nắng”
“Say nắng” là một truyện ngắn mang tựa đề khá đặc biệt, kể về câu chuyện tình
ngắn ngủi và hết sức tự nhiên giữa một chàng trung úy với một thiếu phụ. Câu chuyện
tình chỉ diễn ra trong vịng một ngày: trưa ngày hơm trước đến sáng ngày hôm sau, khi
người thiếu phụ ra đi, bỏ lại chàng với trái tim tan nát và tâm hồn trống rỗng. Cuộc
gặp gỡ và sự khởi đầu của tình yêu như một cơn “Say nắng” - điều mà cả hai cùng cảm
nhận được. Người phụ nữ không hiểu tại sao mình lại có thể đi theo chàng trai, khơng

hiểu tại sao lại ở cùng chàng trang một đêm. Sự ra đi của nàng là sự trở lại với cuộc
sống thường nhật. Nhưng để lại đằng sau là một trái tim đầy đau khổ. Chàng trung úy
trẻ đã yêu người thiếu phụ ấy, yêu một cách si mê, say đắm. Và từ khi người thiếu phụ
ra đi, diễn biến tâm lý của chàng trai vô cùng phức tạp, được Bunin miêu tả hết sức
thành công.
2. Sự nhập thân của nhân vật kết hợp với ngôn ngữ miêu tả tinh tế .
Nhà văn đã nhập thân vào nhân vật của mình để có thể cảm nhận hết được
những diễn biến tâm lý đang diễn ra trong chàng trung úy. Ông như sống cùng nhân
vật, đặt mình vào vị trí của nhân vật, thấu hiểu những đổi thay, những trạng thái cảm
xúc của chàng trai khi người phụ nữ mà chàng yêu đã ra đi mãi mãi, không bao giờ trở
lại nữa. Truyện có sự đan xen, kết hợp rất tự nhiên giữa lời của người kể chuyện với
lời của nhân vật. Ta khó có thể nhận ra đâu là lời của nhà văn, đâu là những suy nghĩ
của nhân vật. Nhà văn đóng vai trị là người kể chuyện biết tuốt. Với điểm nhìn Zero,
Bunin đã miêu tả một cách tinh tế từng trạng thái cảm xúc của chàng trung úy. Sau khi

3


đưa nàng đi, trở về phòng, cảm xúc đầu tiên của chàng trang mới chỉ là thấy “có cái gì
đó đã khác trước”. Chàng cảm thấy sự vắng bóng, sự thiếu thốn một cái gì đó. Diễn
biến tâm lý tiếp tục được tăng dần theo cấp độ: “Trái tim chàng trung úy bỗng thắt
lại”, rồi “đi đi lại lại” và “nước mắt đã trào lên mi”. Tất cả những suy nghĩ tiếp sau cứ
xoáy vào xung quanh người thiếu phụ. Hết “ngỡ ngàng”, “ngạc nhiên” đến “đau lòng”
rồi “hoảng sợ”, “tuyệt vọng”, rồi “nhớ tất cả những gì về nàng”. Chàng “đau khổ”,
“trái tim chàng như vỡ vụn ra”, thậm chí “có thể chết ngay ngày mai cũng được”. Con
tim chàng trai đã bị “trúng thương”. Chàng tuyệt vọng khi khơng cịn cách nào để có
thể gặp lại nàng. Chàng trai đau khổ tột cùng, “khuôn mặt ấy giờ đây đã mang vẻ bị
kích động, điên dại đi”, trơng “bất hạnh sâu sắc”. Và những giọt lệ lại trào ra, lăn trên
má. Có phải chăng người đàn ơng chỉ khóc khi họ cảm thấy nỗi đau quá tột cùng, đau
đến tan nát trái tim? Họ khóc khi họ đã quá tuyệt vọng và bất lực trước số phận? Chỉ

có trong thời gian ngắn ngủi mà chàng trung úy “cảm thấy mình già đi mất 10 tuổi”.
Dường như nhà văn và nhân vật khơng hề có khỏang cách. Ơng đã xóa nhịa đi ranh
giới giữa mình và nhân vật bằng cách đồng cảm cùng nhân vật, hịa mình vào nhân vật,
đặt mình vào vị trí của nhân vật. Chính vì vậy, ông đã diễn đạt một cách tinh tế và
thành công những trạng thái tâm lý, những cung bậc của cảm xúc diễn ra trong lòng
chàng trai. Tác giả đã sử dụng hàng loạt những từ ngữ miêu tả tâm lý nhân vật theo
cấp độ tăng dần, miêu tả tinh tế tâm lý nhân vật. Dù chỉ là một cơn “Say nắng” nhưng
nó đã khiến chàng trai vơ cùng đau khổ, tuyệt, khiến chàng cảm thấy không thể sống
thiếu người phụ nữ ấy. Sự ra đi của nàng đã để lại sự trống trải và thiếu hụt lớn lao đi
chàng - trạng thái cảm xúc được nhà văn miêu tả hết sức thành công.
3. Thủ pháp đối lập trong miêu tả tâm lý
Bunin không chỉ nhập thân vào nhân vật, cùng nhân vật sống với nỗi đau khổ,
tuyệt vọng mà ông cịn đặt nhân vật của mình trong sự đối lập của nhiều yếu tố để từ
đó tâm trạng, cảm xúc của nhân vật được bộc lộ một cách rõ nét.
3.1. Trước hết, ta thấy có sự đối lập giữ tình yêu, hi vọng, mong muốn ở chàng
trung úy với một bên là hiện thực cuộc sống. Nhà văn đã tạo ra cuộc gặp gỡ, đã để tình
yêu nảy sinh trong người thiếu phụ và chàng trung úy. Tình yêu ấy trở nên sâu đậm,
mãnh liệt trong trái tim của chàng trung úy. Nhưng đối lập với tình yêu sâu đậm ấy lại
là hiện thực về một người phụ nữ đã có gia đình. Nhà văn đã xây dựng sự đối lập giữa
một bên là tình u cháy bịng của chàng trai với một bên là hiện thực trớ trêu về hồn
cảnh của người phụ nữ chàng u. Chính vì vậy, chàng “khơng sao có thể tự dưng mà
đến cái thành phố đó, nơi có chồng nàng, có đứa con gái 3 tuổi của nàng, nói chung là
tồn bộ gia đình của nàng và toàn bộ cuộc sống thường ngày của nàng”. Yêu mà không

4


thể có được người mình u, u mà khơng thể được gặp, được nhìn thấy người mình
yêu thì cuộc sống cịn có ý nghĩa gì. Sự mâu thuẫn ấy đã làm cho chàng trai vô cùng
đau khổ và day dứt. Nhưng có lẽ tình u q lớn, q mãnh liệt, cơn “Say nắng” ấy

làm chàng trai bất chấp tất cả, vượt lên tất cả để quyết định đến với người mình yêu,
quyết định dành cả cuộc đời cho người phụ nữ ấy “từ nay tồn bộ cuộc đời tơi là của
em, là thuộc quyền em, vĩnh viễn, cho đến khi xuống mồ”.
Khi sự quyết tâm của chàng trai lên đến cao trào, đỉnh điểm thì nhà văn lại tiếp
tục xây dựng thêm một mâu thuẫn tiếp theo. Đó là mâu thuẫn giữa cái khát khao hy
vọng kiếm tìm hạnh phúc của chàng trung úy với hiện thực về sự vô vọng bởi “tuy
chàng biết thành phố nàng đang ở, biết là nàng có chồng và có đứa con gái 3 tuổi,
nhưng lại chẳng biết tên biết họ nàng là gì cả”. Đó là cái trớ trêu của thực tại được tạo
ra như để thách thức và tình yêu của chàng trai trẻ. Đến lúc này chàng thực sự cảm
thấy tuyệt vọng và đau đớn “con tim đã bị trúng thương”. Nhà văn đã tạo ra những
mâu thuẫn, những đối lập để tâm trạng cảm xúc của nhân vật thể hiện một cách sâu sắc
nhất, tột cùng nhất.
3.2. Bunin còn rất tinh tế khi tạo nên sự mâu thuẫn giữa cảnh vật và tâm trạng
con người.
Khi người thiếu phụ ra đi, chàng trai trở về căn phòng mà hai người đã ở cùng
nhau qua một đêm. Một mâu thuẫn diễn ra trong căn buồng đó là tất cả mọi thứ như
vẫn cịn in đậm bóng dáng của người phụ nữ: “mùi nước hoa Ănglê”, “chiếc khăn tay”,
“chiếc chén uống dở”… với hiện thực là người phụ nữ đã khơng cịn ở đó nữa. Tất cả
mọi thứ, đều làm hiện lên hình ảnh của nàng. Đặc biệt là hình ảnh “chiếc giường”.
Chàng càng cố gắng để khơng nhìn vào mọi vật trong gian phịng (“khơng cịn đủ sức
để nhìn vào chiếc giường ấy nữa”, “cố khơng nhìn vào chiếc giường ở đằng sau tấm
bình phong”) thì mọi vật lại càng như phơi bày ra, làm hiện lên hình ảnh của nàng.
Thật là điều nghịch lý, trớ trêu. Tất cả đều kéo chàng vào sự rằng xé, rày vò. Và chàng
quyết định “kiếm cho được kế thốt thân”, chàng tìm đến với cuộc sống bên ngoài: là
“chợ”, là “nhà thờ”… Một lần nữa Bunin lại tạo ra sự đối lập gay gắt giữa cảnh vật
trong cuộc sống với tâm trạng của nhân vật. Tất cả cảnh vật “đều tốt đẹp cả, tất thảy
đều hạnh phúc vô ngần và cực kỳ vui vẻ. Dù là trong cảnh oi nồng ấy, giữa tất cả mọi
mùi vị chợ búa ấy, trong toàn bộ cái thành phố không quen biết này và trong cái khách
sạn huyện lỵ cũ kĩ này vẫn có niềm vui kia. Thế nhưng trái tim chàng lại như vỡ vụn
ra”. Cảnh vật dù có vui vẻ đến đâu cũng khơng thể xoa dịu trái tim đã “bị trúng

thương”, không thể làm chàng trai khỏi tuyệt vọng. Chàng “có thể chết ngay ngày mai

5


cũng được nếu như có một phép lạ khiến nàng quay trở lại, cùng nàng chung sống
thêm một hôm nữa” bởi nàng quan trọng và “cần thiết hơn cả sự sống” của chàng. Cơn
“Say nắng” khiến chàng trai đau khổ đến vậy, rằng xé đến vậy. Bằng thủ pháp đối lập,
Bunin đã làm sống dậy cả một thế giới tâm lý vô cùng phong phú, phức tạp của nhân
vật chàng trung úy trẻ.
4. Độc thoại nội tâm trong “Say nắng”
Góp thêm vào nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, Bunin đã để chàng trung úy
sống với chính thế giới nội tâm của mình. Nhân vật của ơng tự độc thoại với mình, tự
đặt ra những câu hỏi cho mình và tự trả lời chúng. Khi chỉ cịn một mình trong căn
phịng chứa đầy kỉ niệm của đêm hơm trước, chàng trung úy trẻ tự hỏi: “Mình làm sao
thế này nhỉ?Mà nàng có gì đặc biệt và thật ra thì cái gì đã xảy ra?”… “vắng nàng giờ
đây ta làm thế nào để qua được cả một ngày trời ở cái nơi hiểu lánh này”. Những câu
hỏi vang lên từ chính trái tim đáng rào rạt, si mê của chàng trai. Những câu hỏi chứa
chất tâm trạng rối bời, rằng xé. “Chứng minh để làm gì nhỉ? Thuyết phục để làm gì
nhỉ”, “mình làm thế nào bây giờ, làm sao thốt được cái dun nợ bất thình lình và đột
ngột này?”. Chàng trai đang rơi vào tình thế vơ cùng bế tắc và tuyệt vọng: “Đi đâu bây
giờ? Làm gì bây giờ”… Những câu hỏi cứ liên tiếp rồn rập vang lên, như xé nát trái
tim chàng. Chàng hoàn toàn tuyệt vọng, hồn tồn mất hết phương hướng, khơng biết
đi đâu, về đâu, khơng biết nên làm gì. Tình u đã khiến chàng trở nên hoang mang và
suy sụp. Chàng tự hỏi mình và cũng khơng tự tìm cho mình câu trả lời được. Chàng
trung úy đã mất đi người mình u đã khơng thể làm gì để gặp lại người phụ nữ ấy.
Nhà văn đã để nhân vật sống trong những trạng thái cảm xúc phong phú, phức tạp, để
nhân vật tự độc thoại nội tâm. Những rằng xé, ray rứt, những đau khổ tột cùng đã
được thể hiện sâu sắc qua ngơn ngữ độc thoại nội tâm. Tình yêu của chàng trại không
chỉ là cơn “Say nắng” thông thường nữa mà là “Say nắng” đặc biệt. “Say nắng” khiến

cho nhân vật khơng cịn biết đến cuộc sống xung quanh, “Say nắng” khiến chàng trung
úy không biết phải đi đâu, về đâu, phải làm gì và sống như thế nào? Đó phải chăng là
kết quả của tiếng sét ái tình - một kết quả khơng có hậu.
5. Biện pháp lặp trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của truyện ngắn “Say nắng” .
Nhà văn có thể nhập thân vào nhân vật đồng cảm cùng nhân vật có thể dùng
ngôn ngữ tinh tế để diễn tả tâm lý, hay tạo nên những mâu thuẫn, đối lập để thể hiện
tâm lý một sách sâu sắc, cũng có thể để nhân vật tự độc thoại nội tâm. Mặt khác, ơng
cịn miêu tả tâm lý nhân vật thông qua cách nhấn mạnh bằng thủ pháp lặp. Trước hết là
lặp hành động: “đi đi lại lại” trong căn phòng của chàng trung úy. Hoạt động đó được
nhắc đến lần đầu sau khi chàng trung úy tiễn người phụ nữ ra đi và trở lại phịng. Nó

6


tiếp tục được nhắc đến lần thứ hai sau khi chàng ngồi suy nghĩ miên man về nàng.
Ngay trong hành động đã thể hiện tâm trạng rối bời, không yên của chàng trai. Tiếp đó
là sự lặp lại của tâm trạng. Chàng trai lo lắng và băn khoăn không biết cuộc sống của
mình sẽ ra sao nếu thiếu nàng. Ba lần tâm trạng ấy được lặp lại một cách liên tục:
“Và chàng cảm thấy đau lịng, cảm thấy tồn bộ cuộc sống sau đây của mình
nếu khơng có nàng thì sẽ vô dụng biết bao nhiêu, đến nỗi chàng đâm ra hoảng sợ vì
tuyệt vọng”, tiếp đó là: “vằng nàng, giờ đây ta làm thế nào để qua được cả một ngày
trời ở cái nơi hẻo lánh này?”, đến lần thứ ba: “Và ta sẽ làm gì, sẽ làm sao để sống qua
được cái ngày vô tận này, với những nối nhớ nhung ấy, với nỗi đau khổ không sao giải
quyết được ấy, trong cái thành phố nhỏ nhoi mà Chúa đã lãng quên này ngay trên con
sông Volga ngời sáng này là con tàu màu hồng ấy đã đem nàng đi theo !”. Tâm trạng
được lặp đi lặp lại nhấn mạnh cho sự lo lắng, đau khổ đến tột cùng của chàng trung
úy. Cuộc sống của chàng sẽ chẳng có ý nghĩa nếu thiếu nàng. Nàng đã trở thành linh
hồn, thành sự sống của chàng. Chính vì vậy, mất nàng, chàng trở nên tuyệt vọng. Đỉnh
điểm của tâm trạng tuyệt vọng thể hiện ở những giọt nước mắt. Hai lần, những giọt
nước mắt ấy đã trào ra: sau khi chàng tiễn nàng đi, trở về phòng - “cảm thấy nước mắt

đã trào lên mi” và khi chàng rơi vào trạng thái bất lực vì khơng cịn cách nào để có thể
gặp lại nàng “cảm thấy lệ trào ra và lăn trên má”. Những giọt nước mắt là biểu hiện
cho sự tột cùng đau khổ và tuyệt vọng trước hiện thực phũ phàng. Chàng trung úy đã
sống trong một diễn biến tâm lý vô cùng phức tạp, phong phú được nhà văn thể hiện
hết sức thành công trong tác phẩm.
IV. KẾT LUẬN.
1. Về tác giả.
Bunin là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của nước Nga nửa đầu thế kỷ
XX, được sánh ngang với Tsekhop và Tolstry trong hàng ngũ các nhà văn hiện thực
Nga. Là một nhà văn hiện thực nhưng Bunin vẫn đi vào đề tài mang màu sắc lãng mạn
- đề tình yêu được xuyên suốt trong nhiều sáng tạo của Bunin. Với một cách nhìn mới,
Bunin đã mang đến một “hơi thở lạ” cho tình yêu khác với các nhà văn cổ điển. Tình
yêu trong sáng tạo của Bunin mang tính chất tự nhiên, là thứ tình u giống như một
cơn “Say nắng”. Nhưng nó cũng đủ làm cho nhân vật của ông phải trăn trở, ray rứt.
Chính vì vậy, có thể nói “cốt truyện của Bunin nhiều khi không đặc sắc lắm, nhưng
sức mạnh và sinh khí của chúng khơng bao giờ khơng làm ta ngạc nhiên…”.
2. Về nghệ thuật miêu tả tâm lý trong truyện ngắn “Say nắng” .
Nhà văn đã thực sự thành công khi miêu tả tâm lý nhân vật chàng trung úy. Với
những bút pháp miêu tả tâm lý đa dạng, Bunin đã làm sống dậy cả một thế giới tâm lý

7


vô cùng phong phú và phức tạp. Nhà văn không tách riêng, khơng đứng ngồi nhân vật
để miêu tả tâm lý ông như nhập thân vào nhân vật, đồng cảm cùng nhân vật, chia sẻ
vàthấu hiểu nỗi đau đớn, tuyệt vọng, bất lực của chàng trung úy. Bằng ngôn ngữ tinh
tế, ông đã miêu tả từng cung bậc cảm xúc, từng trạng thái của tâm lý. Ông đã để nhân
vật của mình tự độc thoại nội tâm, tự đặt ra những câu hỏi và tự trả lời cho những câu
hỏi ấy. Nhân vật của ông như trở nên sống động hơn. Thêm vào đó, nhà văn cịn sử
dụng thủ pháp đối lập và lặp trong nghệ thuật miêu tả tâm lý, góp phần hồn thiện

một cách sâu sắc tâm lý nhân vật. Chàng trung úy mang trong lịng một tình yêu đến si
mê, cuồng nhiệt, đắm say với một người phụ nữ chỉ ở cạnh chàng trong vòng một ngày
- một người mà chàng không biết tên họ. Một cơn “Say nắng” đã khiến chàng phải trải
qua những trạng thái tâm lý vô cùng phức tạp: buồn, nhớ nhung, đau khổ, tuyệt vọng,
bất lực,… Những cung bậc của cảm xúc cứ tăng dần theo cấp độ. Và đến đỉnh điểm dó
là khi những giọt nước mắt lăn trên má chàng trai. Sự thành công trong miêu tả tâm lý
nhân vật của Bunin cũng chính là thành cơng của truyện ngắn “Say nắng”./.

8


(Thân người ta khi thành cái xác chết giống như tường vách đổ,
Thì ai ở đời mà chẳng hoảng hốt, buồn đau.
Nhưng nếu đạt được việc làm cho tâm tư khơng, chẳng vần sác tướng
Thì để tự nhiên cho sắc và không ẩn đi hoặc rõ lên tùy theo sự thúc đẩy chuyển
đổi).
Để giải thích cái bản thể giống nhau giữa Phật và Thánh, ông viết:
Lý hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh
(Trung dương đến cúc vàng dưới đậu,
Xuân ấm về oanh báu đầu cành).
Giải thích cho sự vơ vọng khi tìm kiếm sự sinh tử ơng viết:
Manh quy xuyên thạch bích
Ba miết thượng cao sơn.
(Rù mù soi mãi vách non,
Ba ba khập kiễng leo hòn núi cao).
Nhiều câu thơ của ơng cho đến nay khó mà lý giải hết ý nghĩa của nó, nhưng
vẫn âm vang trong lịng người đọc nếu được tiếp xúc với nó như:
“Giáp kính sâm sâm khúc
Phong suy khúc tự hành”.

(Ngõ con trúc tốt rườm rà,
Gió lùa qua trúc đàn ca tự hành”
“Gió hưởng tùy phong xuyên trúc đào,
Sơn nham đới nguyệt quá tương lai
(Xuyên trúc tiếng tù theo gió tới,
Vượt tường núi đội bóng trăng sang)…
Khơng lộ thiền sư (? - 1119) nổi tiếng với bài “Ngơn hồi” gây nhiều tranh luận
trong giới nghiên cứu và phật học:
“Trạch long xà địa khá cư,

9


Dã tình chung nhật lạc vơ dư.
Hữu thời trực hướng cơ phong đính,
Trường khiếu nhất thanh nhàn thái hư”.
Bài thơ thể hiện tinh thần “vô chấp giới” khi người tu hành đạt tới tự do hồn
tồn, khi được giải phóng bản thân để hịa nhập “vơ phân biệt” với vũ trụ trong tinh
thàn “vạn vật vô nhất thế”.
Cùng thời này, ta cũng phải nhắc đến bài kệ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác
đại sư:
“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nãn tiền quá,
Lãi tòng đầu thượng lai,
Mọi vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiên tạc dạ nhất chi mai”.
Những câu thơ nói về sự biến động, chuyển dời khơng ngừng của thế giới hữu
tình, của con người trong ấy.
Trong thời Trần, thi sĩ thiền nổi tiếng đầu tiên là Tràn Thái Tơng (1218 - 1277).

Ơng nổi tiếng với những bài thơ sám hối trong “Khóa hư lạc” và những khoa nghi sám
hối cho mình và cho mọi người. Bên cạnh đó, ơng cịn để lại những “thiền ngữ thi ca”
chan chứa cảm xúc với cõi đời đầy mộng ảo, phù du trong các “Niên trung kế”.
Ngoài ra các tác giả nổi tiếng thời Trần còn cần phải kể đến: Trần Tung (1230 1291) với “Diệu khúc bản lai tu cử xướng”, “Phong cuồng cả”; Trần Nhân Tông (1258
- 1308) với tác phẩm tiêu biểu nhất là “Thiên trường vãn vong”. Nhưng nhà thơ Thiền
được xem là tiêu biểu ưu tú nhất của dòng thơ Thiền trữ tình của Việt Nam là thuyền
Quang (1264 - 1334). Những vần thơ của ông vừa đẹp dịu dàng, vừa tha thiết buồn
như con thuyền trôi vô định giữa mờ mịt trời nước.
“Nhất diệp biến chu hồ hải khách,
Xanh xuất vi hàng phong thích thích.
Vi mang tứ cố vãn triều sinh.
Giang Thủy liên thiên nhất âu bạch”.

10


(Chu Trung)
Văn học thiền còn tiếp tục phát triển trong các giai đoạn văn học sau này,
nhưng khơng có những đóng góp thật sự đột xuất, ngoại trừ “dịng thơ thiền thế sự”
mang nặng tâm sự trữ tình của các tác giả thế tục như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiểm, phạm Thái, Nguyễn Du…
Văn học thiền còn lại cho đến ngày nay phần lớn là những bài kệ, thơ mà các
thiền sư đọc lên trong những hoàn cảnh nhất định để đáp ứng những yêu cầu của đệ tử
trong việc tu hành. Tuy nhiên các bài thơ hoặc lời kệ ấy lắm khi có nội dung vượt ra
khỏi phạm vi giáo lý, rất có thể là ngồi ý muốn của các thiền sư. Nhiều khi ta bắt gặp
cái nhìn tinh tế và đầy xúc động đối với thiên nhiên. Hơn thế nữa, độc lập với ý nghĩa
giáo lý, thì nhận thức về bản lĩnh của con người, về khả năng to lớn của con người là
đóng góp đáng kể của văn học thiền. Tóm lại, văn học thiền Phật giáo thời Lý - Trần
có một vị trí nhất định trong lịch sử văn học. Các tác giả văn học phật giáo, mà chủ
yếu là các thiền sư với các tác phẩm của mình đã thể hiện tinh thần dân tộc, tinh thần

tự lập, tự cường, cũng như lòng yêu mến thiên nhiên đất nước, tâm hồn của dân tộc,
nhân dân nước Đại Việt./.

11


Mục lục
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI....................................................................................................................... 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN.............................................................................1
....................................................................................................................................................................................1
Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong truyện ngắn “Say Nắng ” của Ivan Bunin ...................1
......................................................................................................................................................................1
I.GIỚI THIỆU VỀ BUNIN VÀ TRUYỆN NGẮN “SAY NẮNG”........................................................................2
1. T ÁC GIẢ B UNIN .................................................................................................................................................2
2. T RUYỆN NGẮN “S AY NẮNG ”..............................................................................................................................2
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ DIỄN BIẾN TÂM LÝ NHÂN VẬT. ....................................2
III. NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN “SAY NẮNG” CỦA BUNIN. .....3
1.
2.
3.
4.
5.

G IỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN “S AY NẮNG ”......................................................................................3
S Ự NHẬP THÂN CỦA NHÂN VẬT KẾT HỢP VỚI NGÔN NGỮ MIÊU TẢ TINH TẾ .......................................................3
T HỦ PHÁP ĐỐI LẬP TRONG MIÊU TẢ TÂM LÝ ......................................................................................................4
Đ ỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG “S AY NẮNG ”.........................................................................................................6
B IỆN PHÁP LẶP TRONG NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT CỦA TRUYỆN NGẮN “S AY NẮNG ”....................6

IV. KẾT LUẬN............................................................................................................................................... 7

1. V Ề
2. V Ề

TÁC GIẢ .......................................................................................................................................................7
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ TRONG TRUYỆN NGẮN

12

“S AY

NẮNG ”...............................................................7



×