Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.64 KB, 2 trang )
BÀI CÁ NHÂN SỐ 5: CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ
Quản trị rủi ro tài chính
Thời kỳ trước năm 1989: chế độ tỷ giá cố định – đa tỷ giá.
Phương pháp xác định tỷ giá: dựa trên cơ sở so sánh sức mua hai đồng tiền và sau đó được
quy định bằng những thỏa thuận được ghi trong các hiệp định thanh toán ký kết giữa các nước
XHCN.
Tồn tại nhiều loại tỷ giá
- Tỷ giá mậu dịch (tỷ giá chính thức): tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố và dùng để
thanh toán mậu dịch với Liên Xô và các nước XHCN
- Tỷ giá phi mậu dịch: tỷ giá được áp dụng thanh toán trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại
khác (ngoại giao, du lịch, văn hóa, xã hội…)
- Tỷ giá kết toán nội bộ: tỷ giá được tính trên cơ sở tỷ giá chính thức nhằm bù lỗ cho các
đơn vị xuất khẩu.
Thời kỳ 1989 – 1991: tỷ giá được nới lỏng để đưa dần các yếu tố thị trường vào cơ chế xác
định của tỷ giá.
Thời kỳ 1992 – 1997 (khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực): tỷ giá được ấn định và điều
chỉnh gần như cố định để kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ và đẩy mạnh thu hút
nước ngoài
Hiện nay
Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng đồng Việt Nam so với đồng USD. Căn cứ vào tỷ giá này, tổng giám đốc, giám đốc các tổ
chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại thệ theo nguyên
tắc:
- Đối với USD, tối đa không được vượt quá 0.1% so với giá Ngân hàng Nhà nước công bố
của ngày giao dịch gần nhất trước đó (Ngày 02/01/2007, NHNN nới rộng biện độ tỷ giá
ngoại tệ từ 0.25% lên 0.5% so với tỷ giá liên ngân hàng)
- Đối với ngoại tệ khác, tỷ giá do tổng giám đốc, giám đốc các tổ chức tín dụng được
phép kinh doanh ngoại tệ xác định.