Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TIỂU LUẬN MÔN QUẢN TRỊ RỦI RO TÀI CHÍNH CÁC THẤT BẠI TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO: CHÚNG LÀ GÌ VÀ KHI NÀO CHÚNG XẢY RA?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.71 KB, 32 trang )

Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

TIỂU LUẬN
MÔN QUẢN TRỊ RỦI RO TÀI CHÍNH
Đề tài:
CÁC THẤT BẠI TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO: CHÚNG LÀ GÌ
VÀ KHI NÀO CHÚNG XẢY RA?
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 1
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Khoá:20
Lớp: TCDN Đêm 1
Nhóm: 12
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 2
TP.Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2012
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
MỤC LỤC
1. Giới thiệu 1
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây 1
3. Phương pháp nghiên cứu 1
4. Nội dung về kết quả nghiên cứu 2
4.1 Nội dung nghiên cứu 2
4.1.1 Khái quát trường hợp rủi ro của LTCM từ 1994-200 2
4.1.2 Các loại thất bại trong quản trị rủi ro 7
4.1.2.1 Không nhận diện được các rủi ro đã biết 7
4.1.2.2 Đo lường sai do rủi ro bị bỏ qua 10
4.1.2.3 Sự thất bại trong việc truyền đạt thông tin 14
4.1.2.4 Thất bại trong giám sát và quản lý rủi ro 15
4.1.2.5 Thất bại trong đo lường và quản lý rủi ro 18


4.2 Kết quả nghiên cứu 22
5. Kết luận 23
6. Mở rộng 24
Tài liệu tham khảo 29
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 3
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
1. Giới thiệu:
Mục tiêu nghiên cứu:
- Tại sao quản trị rủi ro thất bại.
- Nghiên cứu các loại thất bại trong quản trị rủi ro.
- Những kinh nghiệm từ thất bại trong quản trị rủi ro của LTCM có thể được
vận dụng để cải thiện quản trị rủi ro.
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây:
Guillaume Plantin, Haresh Sapra, and Hyun Song Shin
Marking-to-Market: Thuốc bách bệnh hay nguồn gốc tai hoạ
Các tổ chức tài chính đã đứng ở tuyến đầu của cuộc tranh luận gây tranh cãi về sự
chuyển đổi trong các tiêu chuẩn quốc tế từ kế toán chi phí lịch sử đến kế toán hạch
toán theo giá thị trường. Chúng tôi thấy rằng sự thoả hiệp đang bị đe doạ từ một phía.
Trong khi cách thức chi phí lịch sử dẫn đến một số không hiệu quả, hạch toán theo giá
thị trường có thể dẫn với các loại thiếu hiệu quả khác bằng cách đưa vào rủi ro nhân
tạo làm giảm các thông tin có giá trị của giá cả, và gây ra các quyết định dưới điểm tối
ưu thực. Chúng tôi xây dựng một khuôn khổ có thể cân nhắc những lý lẽ tán thành và
phản đối. Chúng tôi thấy rằng thiệt hại được gây ra bởi hạch toán theo giá thị trường
lớn nhất khi (i) tồn tại lâu dài, (ii) tính thanh khoản kém, và (iii) cao cấp. Đây là
những thuộc tính chính xác của các khoản mục chủ chốt trong bảng cân đối kế toán
của các ngân hàng và các công ty bảo hiểm. Kết quả của chúng tôi do đó làm sáng tỏ
lý do tại sao các ngân hàng và các công ty bảo hiểm là những người lớn tiếng nhất
phản đối sự chuyển đổi sang hạch toán theo giá thị trường
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phân tích thống kê dựa trên sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, đưa ra nhận định.

Cụ thể ở đây là xem xét trường hợp của Quỹ LTCM năm 1998.
- Dữ liệu nghiên cứu là dựa báo cáo kết quả kinh doanh của LTCM từ 1994 đến
2007.
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 4
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
4. Nội dung và kết quả nghiên cứu:
4.1Nội dung nghiên cứu:
4.1.1 Khái quát trường hợp rủi ro của LTCM từ 1994-2007:
Để đánh giá những thất bại của quản trị rủi ro một cách cụ thể, tôi trở lại với những
kinh nghiệm đã xảy ra ở quỹ phòng ngừa LTCM năm 1998 để phân tích xem một thất bại
của LTCM là thất bại của quản trị rủi ro hay không. Sau đó tôi khái quát hóa từ các ví dụ
để diễn tả điều gì làm quản trị rủi ro thất bại và điều gì không. Tôi sẽ chỉ ra một vài sự
kiện để xem xét trong tài chính nhấn mạnh thực tế những thất bại trong quản trị rủi ro
không hẳn là thất bại của việc quản trị rủi ro, nhưng trong cùng thời gian tôi phân tích
theo nhiều cách khác nhau, cách mà quản trị rủi ro có thể thất bại. Sau đó tôi giải quyết
câu hỏi liệu bài học từ những thất bại trong quản trị rủi ro có thể được sử dụng để cải tiến
thực hành quản trị rủi ro. Trong phần cuối của bài báo này, tôi thảo luận cách tiếp cận
quản trị rủi ro cho phép các định chế quản trị rủi ro tốt hơn trước những đe dọa đã đến
với họ trong cuộc khủng hoảng tài chính dưới chuẩn.
Có phải sụp đổ của Long-Term Capital Mamagement là một thất bại trong quản trị
rủi ro?
Câu chuyện và quản trị vốn dài hạn (LTCM) rất nổi tiếng.
2
Năm 1994, những thương gia
Salomon Brothers và chủ nhân của hai giải Nobel tương lai bắt đầu từ một quỹ phòng
ngừa, đó là Quỹ Long-Term Capital Mamagement. LTCM hoạt động như một công ty
quản lý quỹ. Quỹ hoạt động rất tốt trong suốt thời gian tồn tại của nó: Các nhà đầu tư
kiếm được 20% trong 10 tháng năm 1994, 43% năm 1995, 41% năm 1996 và 17% năm
1997. Trong tháng 8 và 9 năm 1998, theo quy định của Nga về khoản nợ bằng đồng rúp,
thị trường vốn thế giới đang trong khủng hoảng và quỹ phòng ngừa LTCM mất hầu hết

vốn của nó. Trước khi phá sản, LTCM có vốn gần 5 tỷ đô la, tổng tài sản vượt ngưỡng
100 tỷ đô la, và các tài sản phái sinh ghi danh vượt 1000 tỷ đô la. Giữa tháng 9, vốn của
LTCM giảm hơn 3.5 tỷ đô la và Cục dự trữ liên bang NewYork phối hợp với các định
chế tài chính tư nhân đưa ra một gói cứu trợ trị giá 3.65 tỷ đô la cho quỹ này.
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 5
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Để mất hơn 70% vốn điều lệ có phải là một thất bại trong quản trị rủi ro? Có phải
yêu cầu cứu trợ từ các Ngân hàng đưa ra 3.65 tỷ đô la vốn mới chỉ ra rằng quản trị rủi ro
thất bại? nó chỉ ra rằng không phải dễ để trả lời những câu hỏi này. Để xác định một thất
bại của quản trị rủi ro, trước hết chúng ta phải xác định vai trò của quản trị rủi ro.
Trong các công ty điển hình, vai trò của quản trị rủi ro được đưa lên hàng đầu để
đánh giá những rủi ro mà công ty đối diện, truyền đạt những rủi do này đến những người
quyết định các rủi ro mà công ty chấp nhận, và cuối cùng quản lý và giám sát những rủi
ro này để đảm bảo rằng công ty chỉ chịu những rủi ro trong quản trị và ban điều hành
công ty chấp nhận. Nói chung, một công ty sẽ xác định rõ những rủi ro mà nó tập trung
vào cùng với các số liệu rủi ro liên quan. Khi rủi ro đo lường vượt quá dung sai của công
ty cho rủi ro, thì rủi ro này bị loại trừ. Thay vào đó, khi rủi ro đo lường quá thấp so với
dung sai chịu rủi ro , thi công ty tăng mức rủi ro. Bởi vì các doanh nghiệp thường quan
tâm nhiều hơn đến mất mát không mong đợi, biện pháp đo lường rủi ro thường sử dụng
là Value –at – Risk hay VaR, biện pháp đo lường rủi ro bất lợi nhất. VaR là thiệt hại lớn
nhất ở một độ tin cậy cho một khoảng thời gian. Do đó, nếu độ tin cậy là 95% và thời
gian là một ngày thì VaR là 150 triệu đô la, công ty có 5% cơ hội có thiệt hại vượt 150
triệu đô la cho ngày tiếp theo nếu VaR được ước lượng đúng. Biện pháp này có thể dùng
để ước lượng hàng ngày hoặc cho khoảng thời gian dài hơn.
Ngay cả với sự định nghĩa của chúng tôi về vai trò của quản trị rủi ro, lợi nhuận
của LTCM không cho chúng ta biết bất cứ điều gì của việc quản trị rủi ro thất bại. Để
hiểu lý do tại sao, nó là hữu ích để xem xét một ví dụ giả định đơn giản. Giả sử bạn đứng
trên cương vị nhà quản lý của LTCM trong tháng 1 năm 1998 và có cơ hội đầu tư vào các
thương vụ, tổng thể, có 99% cơ hội tạo ra lợi nhuận cho quỹ với phí 25% và 1% cơ hội
làm thua lỗ 70% cho năm tới. Mặc dù ví dụ này là giả định, nó được thừa nhận là điểm

sáng trong thu nhập của LTCM và đó chính là điều mà LTCM đã công bố với các nhà
đầu tư. Đầu tiên, trong 2 năm tốt nhất quỹ kiếm được hơn 50% trước phí, 25% xem như
không hợp lý. Thứ 2, LTCM thông báo đến các nhà đầu tư rằng quỹ mong đợi thua lỗ
hơn 20% chỉ trong một năm xác xuất 1/50, một năm với xác suất 1/100 có thể mong đợi
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 6
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
thua lỗ 70%.
3
Giả sử quỹ có lợi nhuận cao hay không phụ thuộc vào biến động của dòng
tiền, để mà rủi ro của quỹ được đa dạng hóa hoàn toàn cho các nhà đầu tư. Với những giả
định này, lợi nhuận mong đợi của quỹ là 24.05%. Như vậy lợi nhuận mong đợi sẽ là lợi
nhuận mong đợi tuyệt vời cho một quỹ phòng ngừa hay là cho bất cứ sự đầu tư nào như
là lợi nhuận mong đợi cho rủi ro gánh chịu do đa dạng hóa, như những giả định của tôi.
Các nhà quản lý có cơ hội để lặp lại đầu tư này, 99 năm trong số 100 năm họ sẽ kiếm
được 25% trước phí và sẽ là những ngôi sao.
Trong giả định của tôi, khi các nhà quản lý quỹ (đối tác) đưa ra chọn lựa, họ biết
phân phối thực sự xảy ra trong thu nhập của quỹ. Do đó, họ biết rõ ràng phân bổ thực sự
giữa được và mất – các nhà quản lý rủi ro nên được phong tặng huy chương vàng cho
công việc của họ, giả sử, thu nhập tồi xảy ra. Trong trường hợp này, quỹ sẽ đề lên hàng
đầu cho thua lỗ 3.5 tỷ đô la. Một số người tranh luận rằng rủi ro của quỹ bị quản lý yếu
kém. Tuy nhiên, như sự thiết lập, quản trị rủi ro sẽ không được cải thiện trong trường hợp
này. Những nhà quản lý biết chính xác rủi ro họ gặp phải và họ quyết định chấp nhận
chúng. Do đó, trong trường hợp này không có nghĩa là quản trị rủi ro thất bại. Như đã
trình bày, chỉ có tranh luận là các nhà quản lý tiếp nhận những rủi ro mà họ không nên,
nhưng đó không là vấn đề quản trị rủi ro miễn là các rủi ro được hiểu đúng. Đúng hơn, nó
là vấn đề định giá được thiệt hại so với lơi nhuận thu được để tạo ra lợi nhuận lớn hơn.
Quyết định chấp nhận một rủi ro nhận biết được không là quyết định của các nhà
quản trị rủi ro. Quyết định này phụ thuộc vào khẩu vị rủi ro của các định chế. Tuy nhiên,
xác định khẩu vị rủi ro là quyết định của ban điều hành và các nhà quản trị cấp cao.
Quyết định này được xem như là trái tim trong chiến lược của doanh nghiệp và chính nó

tạo ra giá trị cho các cổ đông. Một quyết định chấp nhận các rủi ro nhận biết có thể mang
lại ít lợi nhuận mặc dù, tại thời điểm nó được chấp nhận, sự mong đợi của việc chấp nhận
rủi ro đem đến giá trị giàu có cho các cổ đông và do đó là giá trị tốt nhất cho các cổ đông.
Trong trường hợp của LTCM, tranh luận về thiệt hại 3.5 tỷ đô la cho các nhà đầu
tư trong LTCM vừa mới được liệt kê, không có chi phí nào khác ngoài thua lỗ tiền tệ trực
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 7
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
tiếp. Hầu hết doanh nghiệp, tuy nhiên, thua lỗ lớn có chi phí tồn đọng. Những chi phí tồn
đọng dư thừa này là nền tảng của lý thuyết tài chính tại sao quản trị rủi ro tạo nên giá trị
cho các cổ đông.
4
Nếu một định chế tài chính có thua lỗ lớn, định chế này có thể, yêu
cầu, có quy mô trở lại trong đầu tư bởi những hạn chế tài chính, bán tài sản tại những thị
trường không thuận lợi, để mất các nhân viên giỏi những người quan tâm đến tiền thưởng
của họ, mất đi khách hàng những người quan tâm đến định chế bị phân tâm và không đủ
nguồn lực để giúp đỡ họ, và đối mặt với việc tăng cường giám sát từ những người kiểm
soát. Một vài định chế, ban điều hành và các nhà quản lý cấp cao đưa vào tài khoản
những chi phí tồn đọng dư thừa của thua lỗ lớn khi đưa ra những quyết định có khả năng
đưa đến thua lỗ lớn.
Các nhà quản lý rủi ro có thể ước tính một công việc mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp với khẩu vị rủi ro chấp nhận bởi vị họ có thể đánh giá bao nhiều vốn phải bỏ ra để
chu cấp cho những công việc này.
5
Tuy nhiên, một chương trình không đem lại lợi nhuận
đối vơi một mức độ chấp nhận rủi ro có thể đem lại lợi nhuận nếu khẩu vị rủi ro của
doanh nghiệp tăng lên bởi vì ít vốn hơn phải bỏ ra để chu cấp cho chương trình này. Liệu
chấp nhận rủi ro cao hơn là đáng giá để các định chế cuối cùng phụ thuộc vào chiến lược
của doanh nghiệp. Các nhà quản lý rủi ro không thiết lập chiến lược. Giả sử một công ty
thiết lập khẩu vị rủi ro dựa vào đánh giá tín dụng mục tiêu. Như vậy phương pháp được
thiết lập. Khi đánh giá tín dụng được chọn, có nhiều sự kết hợp của rủi ro và vốn để đạt

được mục tiêu đánh giá. Một tỷ lệ đòn bẩy được chọn, doanh nghiệp không có nhiều
chọn lựa trong lựa chọn mức độ rủi ro nếu muốn đạt được mục tiêu đánh giá. Tuy nhiên,
đối mặt với nhiều cơ hội tốt, doanh nghiệp có thể giảm tỷ lệ đòn bẩy để có thể chịu nhiều
rủi ro hơn hay có thể chọn để bắt đầu từ mục tiêu đánh giá tín dụng của mình.
LTCM là bằng chứng điển hình cho những cân bằng này. Trong đợt suy giảm năm
1997, các nhà quản lý của LTCM kết luận rằng họ không điều hành hoạt động kinh
doanh đem lại 17% cho các nhà đầu tư, đây là những gì các nhà đầu tư của họ có được
cho năm nay. Thay vào đó, họ muốn thu nhập cao hơn đạt được như năm 1995 và 1996.
Cuối năm 1997, LTCM có vốn đạt 7.4 tỷ đô la nhưng quyết định trả lại khoảng 36% vốn
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 8
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
cho các nhà đầu tư. Với ít vốn hơn, LTCM vẫn tiến hành hoạt động kinh doanh như
trước. Tuy nhiên, để làm được điều đó, phải sử dụng nhiều đòn bẩy hơn. Tăng tỷ lệ đòn
bẩy, có thể tăng thu nhập cho các cổ đông nếu mọi việc diễn ra tốt là chi phí cắt giảm
nhiều hơn nếu mọi thứ trở nên xấu đi. Vậy tăng đòn bẩy có phải là một quyết đinh kém
về quản trị rủi ro? Lấy ví dụ trong trường hợp của tôi, các thành viên của LTCM biết về
những rủi ro và lợi ích nếu cứ thực hiện. Trong thuật ngữ quen thuộc của kinh tế tài
chính, sự gia tăng đòn bẩy là quyết định tích cực lên NPV khi nó được thực hiện, nhưng
rõ ràng đó là một quyết định tốn kém theo nghĩa khi tài sản giảm giá trị, vốn chủ sở hữu
của quỹ giảm giá trị nhanh hơn là nó có tỷ lệ đòn bẩy ít hơn.
Hiện đã có nhiều cuộc thảo luận về động cơ của các nhà quản trị hàng đầu trong cuộc
khủng hoảng tài chính, với các nhà bình luận khác nhau cho rằng một phần của vấn đề
được các nhà quản trị đưa ra là động cơ thúc đẩy có quá nhiều rủi ro. Điều này cũng có
thể đúng như vậy, nhưng trước khi đi đến kết luận này thì đừng quên rằng các nhà tài
chính đã khẳng định trong nhiều thập niên qua rằng động cơ của các nhà quản trị trở nên
phù hợp hơn với những cổ đông khi mà các nhà quản trị có cổ phần lớn trong vốn cổ
phần của Công ty. Các nhà quản trị cấp cao sở hữu hàng trăm triệu đô la vốn cổ phần tại
Bear Stearns & Lehman, nắm giữ giá trị cao nhất tại công ty này. Tương tự như vậy, các
đối tác của LTCM cùng góp vốn đầu tư vào quỹ vào đầu năm 1998. Nếu vốn chủ sở hữu
không khuyến khích các nhà quản trị để đưa ra các quyết định đúng đắn cho các cổ đông

của họ, chuyện gì sẽ xảy ra?
Tóm lại, quản trị rủi ro không ngăn chặn thiệt hại. Với quản trị rủi ro tốt, thiệt hại lớn có
thể xảy ra khi những những người ra quyết định chấp nhận rủi ro quyết định nhận rủi ro
lớn, hiểu về rủi ro tốt tạo ra được giá trị cho công ty của họ.
4.1.2 Các loại thất bại trong quản trị rủi ro
Quản trị rủi ro như thế nào là sai? Cách mà chúng tôi mô tả vai trò của quản trị rủi ro cho
thấy những cách quan trọng trong quản trị rủi ro có thể sai. Chúng tôi bắt đầu bằng cách
nói rằng bước đầu tiên trong quản lý rủi ro là đo lường rủi ro. Bây giờ, giả sử, đo lường
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 9
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
đúng rủi ro được sử dụng cho tình hình của công ty. Việc đo lường này có thể là VAR
hoặc là một số phương pháp đo lường khác. Hai loại sai lầm có thể gặp phải trong việc đo
lường rủi ro: Những rủi ro có thể biết được có thể bị đo lường sai và một số rủi ro thì lại
bỏ qua, có thể do họ chưa được biết hoặc xem nó không quan trọng. Khi đo lường một rủi
ro, họ phải được thông tin từ lãnh đạo của công ty. Một thất bại trong thông tin mang đến
rủi ro cho nhà quản trị cũng là một sự thất bại trong quản trị rủi ro. Sau khi quản trị quyết
định những loại rủi ro nào gặp phải, nhà quản trị rủi ro phải đảm bảo rằng công ty nắm
bắt được rủi ro này. Nói cách khác, Nhà quản trị rủi ro sau đó phải quản lý rủi ro của
công ty, một nhiệm vụ có thể bao gồm cả việc xác định biện pháp thích hợp làm giảm
thiểu rủi ro, phòng ngừa rủi ro, và từ chối một số dự án hoặc lĩnh vực kinh doanh. Cuối
cùng, các nhà quản trị rủi ro của một công ty có thể thất bại trong sử dụng các thước đo
rủi ro thích hợp.
Với quan điểm này, có sáu loại thất bại trong quản trị rủi ro:
1) Không nhận diện được các rủi ro đã biết.
2) Thất bại khi đưa rủi ro vào tính toán.
3) Thất bại khi thông tin rủi ro đến các nhà quản trị cấp cao.
4) Thất bại trong việc giám sát rủi ro.
5) Thất bại trong quản lý rủi ro.
6) Thất bại trong việc sử dụng các thước đo rủi ro phù hợp.
Chúng tôi sẽ thảo luận lần lượt về từng loại thất bại này.

4.1.2.1 Không nhận diện được các rủi ro đã biết
Trong ví dụ LTCM, việc không nhận diện được các rủi ro đã biết có thể xảy ra một số các
hình thức khác nhau. Khi đo lường rủi ro, các nhà quản trị rủi ro cố gắng để hiểu sự phân
phối lợi nhuận. Với ví dụ đơn giản của chúng tôi, phân phối là một phân phối nhị thức -
kết quả của việc tung một đồng xu. Nhà quản trị rủi ro có thể mắc một lỗi trong việc
đánh giá xác suất của một tổn thất lớn hoặc quy mô của sự mất mát lớn nếu nó xảy ra.
Ngoài ra, họ có thể sử dụng phân phối sai hoàn toàn. Hơn nữa, các tổ chức tài chính có
nhiều vị thế, mỗi vị thế có một khoản lợi nhuận từ phân phối mang lại, nhưng những
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 10
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
khoản lợi nhuận có liên quan giữa các vị thế, và mối quan hệ có thể được đánh giá không
chính xác - một cách đơn giản về điều này là mối tương quan có thể không đo lường
được.
Tương quan là vô cùng quan trọng trong quản lý rủi ro, vì lợi ích của đa dạng hóa giảm
khi tương quan tăng.
Với ví dụ LTCM, nó có thể là xác suất thực sự của một tổn thất 70% là cao hơn
1%, ở mức 25%. Trong trường hợp này, lợi nhuận kỳ vọng của LTCM trong ví dụ giả
định của tôi chỉ là 1,25%. Lúc này, các nhà đầu tư có thể đã kiếm được lợi nhuận kỳ vọng
cao hơn là khi đầu tư vào tín phiếu kho bạc. Trong trường hợp này, các sai lầm quản lý
rủi ro - đánh giá xác suất của kết quả xấu ở mức 1% thay vì 25% - sẽ có hậu quả tai hại
cho quỹ bởi vì sẽ làm cho nó thực hiện giao dịch có thể sẽ làm giảm giá trị.
Giả sử rằng LTCM đã gặp phải những thất bại mà chúng tôi vừa nêu ra. Làm thế nào
chúng ta biết được? Chúng ta không thể xác định khi một sai lầm đã gặp bởi vì LTCM
đã bị mất 70% chỉ một lần. Sau khi mất 70%, nó có thể đã làm như vậy cho dù xác suất
thực sự mất mát đó là 1% hoặc 25%. Trong thực tế, theo các điều kiện giả định của ví dụ
của tôi, chúng tôi không học hỏi gì từ thực tế rằng LTCM bị mất 70% dù rằng nó đã tạo
ra một thất bại quản lý rủi ro của loại đó. Như tháng 1 năm 1998, có thể là xác suất thua
lỗ là vô cùng nhỏ hoặc rất lớn. Nó có thể là một trong hàng trăm sự kiện trong năm hoặc
một trong bốn sự kiện năm cho danh mục đầu tư của các ngành nghề mà họ đã đầu tư.
Một sai lầm khác trong quản trị rủi ro sẽ xảy ra nếu phân phối không phải là nhị thức,

nhưng một phân phối khác nhau hoàn toàn. Ví dụ, giữ nguyên giả định trong ví dụ, rằng
có 1% cơ hội của một sự tổn thất 70% và thêm một cơ hội 9% của một sự mất mát 100%.
Trong trường hợp này, lợi nhuận kỳ vọng sẽ là 12,8%, nhưng cũng sẽ có một xác suất
không đáng kể của toàn bộ giao dịch.
Khi một công ty có nhiều chức vụ hoặc dự án, rủi ro của công ty phụ thuộc vào việc
những rủi ro của các chức vụ , dự án khác nhau liên quan như thế nào. Nếu sự tương
quan giữa chức vụ hoặc giữa các dự án là cao, có nhiều khả năng là tất cả các hoạt động
của công ty hoạt động kém hiệu quả trong cùng một giai đoạn, điều đó dẫn đến xác suất
của tổn thất sẽ cao hơn. Những mối tương quan này có thể là khó khăn để đánh giá và
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 11
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
chúng thay đổi theo thời gian, vào những thời điểm bất ngờ. Một đối tác của LTCM mô
tả vấn đề họ phải đối mặt trong tháng Tám và tháng Chín là một trong những mối tương
quan mà họ nghĩ là cực kỳ nhỏ đột nhiên trở thành lớn. Với quan điểm này, mối tương
quan đã không ước tính được.
Các mối tương quan được biết đến trong tài chính gia tăng vào thời kỳ khủng hoảng.
Nếu không đánh giá tương quan một cách chính xác sẽ dẫn đến đánh giá sai rủi ro của
một danh mục đầu tư hoặc của một công ty.
Các vấn đề của việc không nhận diện các rủi ro đã biết của mối tương quan là khó thấy
hơn, tuy nhiên, nếu mối tương quan ngẫu nhiên và đôi khi xuất hiện một cách bất ngờ.
Trong trường hợp này, nhà quản trị rủi ro không thể được dự đoán được là những mối
tương quan nào, nhưng đánh giá của họ về rủi ro của một danh mục đầu tư hoặc của công
ty sẽ phụ thuộc vào ước tính của họ về sự phân bố của các tương quan. Trong trường hợp
này, có thể nhận thấy tương quan khác với giá trị kỳ vọng của họ và có thể sẽ không có
thất bại về quản trị rủi ro.
Khi rủi ro được biết đến, kỹ thuật phân tích nói chung được sử dụng để ước tính sự phân
bố rủi ro. Do đó, Phương pháp tiếp cận này thực hiện tốt khi có nhiều dữ liệu và khi nó
phù hợp để tin rằng lợi nhuận sẽ có sự phân bố thống kê giống như nhau trong tương lai
cũng như trong quá khứ. Ví dụ, giả sử rằng một nhà quản trị rủi ro muốn ước tính sự biến
động lợi nhuận của một cổ phiếu. Cô ấy sẽ có hàng trăm dữ liệu để đưa vào mô hình.

Trong hầu hết trường hợp, nhà quản trị rủi ro sẽ có một mô hình về sự biến động của cổ
phiếu mà kết quả dường như là khá tốt.
Dữ liệu quá khứ là ít sử dụng vào thời điểm này, bởi vì rủi ro lớn đã không phản ánh nó
trong quá khứ. Ví dụ, với cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn, không có dữ liệu lịch sử của
cuộc suy thoái trong thị trường bất động sản, mà một số lượng lớn các chứng khoán thế
chấp dưới chuẩn được cho vay. Trong tình hình như vậy, đo lường rủi ro không thể được
thực hiện bằng cách bằng cách sử dụng các dữ liệu lịch sử một cách đơn giản bởi vì rủi ro
từ giảm giá bất động sản đã không thể hiện chính nó trong một giai đoạn so sánh. Với
trường hợp như vậy, đo lường rủi ro đạt đến giới hạn của nó và quản lý rủi ro đi từ khoa
học đến nghệ thuật. Sư hiểu biết về rủi ro bao hàm cả sự đánh giá khả năng giảm giá bất
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 12
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
động sản và tác động kinh tế đến sự giảm giá chứng khoán. Đánh giá như vậy mang tính
chủ quan. Các nhà quản trị rủi ro khác nhau có thể đưa ra những kết luận rất khác nhau.
Có một vấn đề cơ bản về hiệu quả của việc đo lường rủi ro khi đánh giá trở nên chủ quan.
Giả sử rằng tất cả các bên đồng ý rằng một mô hình thống kê được lập ra hoạt động khá
tốt. Một số ít sau đó không đồng ý. Tuy nhiên, dự báo chủ quan có thể dễ dàng đặt câu
hỏi. Tại sao một người quản trị rủi ro sẽ nhận biết về khả năng giảm giá bất động sản tốt
hơn so với các chuyên gia trong lĩnh vực bất động sản? Nếu các chuyên gia bất động sản
kết luận rằng giá giảm đột ngột thì không đúng như vậy, tại sao một công ty nghe một
người quản trị rủi ro, những người mà muốn bỏ ra một khoản tiền lớn vào một bài khảo
sát để tìm ra các tác động của giảm giá lớn như vậy? Khi nhà quản trị rủi ro chuyển cách
thức từ thành lập mô hình định lượng, điều này giúp dễ dàng cho việc lôi kéo vào chiến
thuật nội bộ công ty. Tại thời điểm đó, kết quả cho công ty phụ thuộc nhiều hơn về sự
chấp nhập rủi ro của công ty và văn hóa của công ty hơn là các mô hình quản lý rủi ro
của công ty đó.
4.1.2.2 Đo lường sai do rủi ro bị bỏ qua
Những rủi ro bị bỏ qua có thể có ba hình thức khác nhau với ý nghĩa khác nhau
cho một công ty. Đầu tiên, một công ty có thể bỏ qua một rủi ro ngay cả khi rủi ro đó
được biết đến. Thứ hai, một số người trong công ty biết về rủi ro, nhưng rủi ro đó không

được ghi nhận vào các mô hình rủi ro. Thứ ba, có một thực tế là rủi ro thực sự không biết.
Chúng tôi xem xét lần lượt các khả năng này.
a. Bỏ qua rủi ro đã được biết
Xem xét lại trường hợp của LTCM. LTCM có thể đã thất bại khi đưa vào tính toán
một rủi ro mà, nếu thực hiện, sẽ dẫn đến một sự tổn thất lớn. Một ví dụ rõ ràng về khả
năng này như sau. Trước khi Nga mất khả năng chi trả các khoản nợ trong nước vào
tháng Tám năm 1998, nhiều quỹ đầu cơ nắm bắt vị thế, cái mà họ đã mua nợ của Nga cho
lợi suất cao, phòng ngừa nợ chống lại rủi ro vỡ nợ, và cuối cùng Phòng ngừa khoản nợ
chống lại rủi ro tỷ giá hối đoái. Dễ dàng để nhận thấy kết quả là không có rủi ro. Tuy
nhiên, để phòng ngừa rủi ro tiền tệ, các quỹ đầu tư đã bán rúp để chống lại đô la. Các
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 13
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
ngân hàng sẵn sàng đứng về phía của những mối giao dịch khác, thường là các ngân hàng
Nga. Khi Nga vỡ nợ, nó áp đặt một lệnh cấm các ngân hàng này và nhiều ngân hàng bị
sụp đổ, kết quả là, các quỹ đầu cơ kết thúc rủi ro tỷ giá hối đoái bởi vì các đối tác của họ
đã không xem trọng việc phòng ngừa. Họ đã đưa vào tính toán rủi ro từ phía đối tác đúng
cách, họ đã nhận ra rằng ở vị trí của họ có nguy cơ đáng kể trong trường hợp có một cú
sốc bất lợi cho hệ thống ngân hàng Nga.
Tôi không có lý do gì để tin rằng LTCM cư xử giống như các quỹ đầu cơ khác. Tổn thất
Nga của LTCM đã tương đối nhỏ. Tuy nhiên, giả sử rằng nó làm thiệt hại bởi vì nó đã
làm không tính toán cho rủi ro từ đối tác một cách chính xác. Hiện tại, chỉ cần biết rằng
LTCM mất 70% sẽ không có đủ để kết luận rằng LTCM đã bỏ qua rủi ro đối tác trong
các mô hình rủi ro bởi vì nó có thể có tổn thất tương tự mà không bỏ qua rủi ro. Do đó,
để đánh giá liệu LTCM đã mắc sai lầm, người ta sẽ phải nhìn vào các thông tin có được
khi ra quyết định, dù thông tin đó thiếu sót, và cho dù sử dụng thông tin đó là không
đúng.
b. Thất bại trong thu thập thông tin
Các hậu quả của một sai lầm về quản trị rủi ro là như nhau cho dù rủi ro đã bị bỏ qua bởi
vì không ai trong công ty biết về nó hay bởi vì ai đó biết về nó, nhưng nó đã đưa vào các
mô hình rủi ro có liên quan. Một trong những lợi ích của việc thực hiện đúng cách quan

trị rủi ro toàn công ty là rằng tất cả các rủi ro được tính toán. Nếu một số rủi ro không
được tính khi rủi ro được đo lường cho một công ty, những rủi ro còn lại không được
giám sát một cách đầy đủ có thể sẽ lớn hơn bởi vì các công ty có xu hướng mở rộng rủi
ro không kiểm soát được. Ví dụ, hãy xem xét một nhà kinh doanh mà rủi ro của người
này chỉ giám sát một phần. Thông thường, nhà kinh doanh có một khoản bù đắp bao gồm
lợi nhuận về quyền chọn – cái mà họ nhận được một phần đáng kể của lợi nhuận mà họ
tạo ra, nhưng họ không phải trả lại các khoản lỗ. Nếu chỉ có một số rủi ro của nhà kinh
doanh được giám sát, anh ta có thể tăng khoản bù đắp kỳ vọng của mình bằng cách gia
tăng những rủi ro mà không được giám sát, mà không gánh chịu bất cứ hậu quả nào.
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 14
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Đó là thực tế phổ biến trong quản trị rủi ro để phân chia rủi ro thành rủi ro thị
trường, rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động. Sự phân biệt này là một phần nhân tạo và
được mang lại bằng việc cân nhắc quy định. Thông thường, các công ty có sổ sách kinh
doanh trình bày ra thị trường, trong khi sổ sách tài chính sử dụng cho kế toán phát sinh.
Tuy nhiên, Việc phân tán rủi ro này có thể được thực hiện trong một cách mà bỏ qua
nhiều rủi ro lớn. Ví dụ, một công ty có rủi ro vay nợ. Nợ vay có thể trở nên đắt hơn và
hoặc ít hơn khi công ty chịu đựng kết quả xấu từ thị trường. Biết rằng, một yếu tố quan
trọng góp phần vào sự thất bại của Bear Stearns là những hạn chế mà nó phải đối mặt
trong việc tiếp cận thị trường repo trong tuần cuối cùng của nó. Tương tự như vậy, trong
khi Basel II quy định có 1 điểm khá hạn chế rủi ro hoạt động, rủi ro kinh doanh thường
có tầm quan trọng và phải được đánh giá một cách cẩn thận như là một phần của việc
đánh giá rủi ro của một công ty mặc dù chúng không là một phần của các định nghĩa
quản lý rủi ro hoạt động. Những rủi ro này có thể tương quan cao với cả rủi ro tín dụng
và rủi ro thị trường đối với các tổ chức tài chính. Ví dụ, đối với nhiều ngân hàng, mất thu
nhập từ chứng khoán là việc thực hiện của một rủi ro kinh doanh có tương quan với rủi ro
thị trường, cụ thể là sự mất giá trị chứng khoán phát hành thông qua công ty chứng
khoán, và rủi ro tín dụng, cụ thể là không có khả năng sử dụng chứng khoán để loại bỏ
các rủi ro liên quan với các khoản vay.
Việc tính toán tất cả các rủi ro trong đo lường rủi ro là một nhiệm vụ khó khăn và tốn

kém. Tuy nhiên, không phải thực hiện nhiệm vụ đó cho một tổ chức có nghĩa là giám đốc
điều hành của công ty được quản lý công ty họ nhìn thấy chỉ là một phần của bức tranh
lớn mà họ phải hiểu để quản lý hiệu quả. Có những ví dụ điển hình của tập hợp rủi ro
không đầy đủ dẫn đến thiệt hại lớn từ những rủi ro không được tính. Có lẽ một trong
những ví dụ nổi bật nhất là một trong những ngân hàng không còn tồn tại, đó là Ngân
hàng Liên bang Thụy Sĩ. Trong nửa cuối của những năm 1990, các ngân hàng đã được
đặt cùng hệ thống quản lý rủi ro mà hệ thống này đã tổng hợp những rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của mình. Một nhóm nhà kinh doanh đã rất thành công khi tập trung
vào các chất dẫn xuất vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, nhóm nhà kinh doanh này đã sử dụng
các máy tính khác nhau so với phần còn lại của ngân hàng, để tích hợp hệ thống của họ
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 15
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
vào hệ thống của ngân hàng mà sẽ yêu cầu họ phải thay đổi máy tính. Cuối cùng, các
ngân hàng quyết định ở cấp cao nhất, đó là để cho các nhà kinh doanh kiếm tiền quan
trọng hơn hơn phá vỡ những gì họ đang làm thông qua việc thay đổi máy tính. Ngay sau
đó, nhóm các nhà kinh doanh này đã làm cho ngân hàng bị mất một lượng tiền lớn. Sự
mất mát này là một phần trách nhiệm đối với việc ngân hàng phải sáp nhập với một ngân
hàng Thụy Sĩ khác
6
.
Vấn đề của sự kết hợp quan trọng ở các giai đoạn khác nhau của cuộc khủng hoảng cho
vay dưới chuẩn. Đặc biệt, việc quản lý của UBS đã gửi một báo cáo cho các cổ đông giải
thích lý do tại sao ngân hàng trải qua sự thăng trầm lớn như vậy. Trong báo cáo này, UBS
giải thích rằng "Những nỗ lực đã được thực hiện để nắm bắt các khoản vay dưới chuẩn
nắm giữ vào giữa tháng 2 năm 2007, tuy nhiên, tài liệu không hiệu quả bao gồm các vị trí
cao cấp và cơ bản"(trang 39). Thật thú vị để lưu ý rằng, theo báo cáo, không bao gồm các
vị trí cấp cao bởi vì họ đã được phòng ngừa rủi ro và do đó đã được chỉ định không có rủi
ro bằng các mô hình rủi ro - một đánh giá phù hợp với dữ liệu trong quá khứ được sử
dụng bởi nhiều nhà quản trị rủi ro.
c. Những rủi ro chưa được biết đến

Hầu hết các rủi ro chưa được biết đến không tạo ra vấn đề quản lý rủi ro. Để thấy điều
này, chúng ta có thể quay trở lại với mô hình thống kê việc đo lường rủi ro đối với một cổ
phiếu. Giả sử rằng các mô hình quản lý rủi ro sự trở lại của một cổ phiếu bằng cách sử
dụng phân phối bình thường và rằng ông không có lý do để tin rằng doanh thu trong
tương lai sẽ đến từ một bản phân phối khác nhau hơn so với một trong những tổ chức
trong quá khứ. Với mô hình này, mỗi giai đoạn, sự trở lại chứng khoán sẽ là ngẫu nhiên.
Nó sẽ đến từ một phân phối được biết đến. Người quản lý rủi ro không cần biết lý do tại
sao sự trở lại của cổ phiếu trong một khoảng thời gian là 10% và trong khoảng thời gian
khác, nó là -15%. Ông đã nắm bắt đặc điểm rủi ro liên quan của cổ phiếu thông qua ước
lượng của mình về sự phân bố thống kê lợi nhuận của cổ phiếu. Với công việc của mình,
ông biết rằng sự bất ổn là 20% và có 5% cơ hội của một mất 30% hoặc cao hơn trong giai
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 16
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
đoạn. Ông không cần phải là ở một vị trí để giải thích những sự kiện có liên quan với
những mất mát khác nhau.
Một số rủi ro khác chưa được biết đến có thể không quan trọng đơn giản chỉ vì chúng có
một xác suất thấp không đáng kể. Có một số khả năng rằng một tòa nhà sẽ bị đâm trúng
bởi một tiểu hành tinh. Rủi ro đó không ảnh hưởng đến bất kỳ quyết định quản trị nào.
Bỏ qua rủi ro không có tác động đối với quản trị rủi ro.
Những rủi ro chưa được biết đến miêu tả thất bại quản trị rủi ro là những rủi ro mà quản
lý của công ty đã biết về chúng, hành động của họ sẽ khác nhau. Nhà quản lý rủi ro phải
tìm ra những rủi ro chưa được biết đến, nhưng một khi tất cả mọi thứ được nói và làm,
một số rủi ro sẽ vẫn chưa được biết. Bởi vì điều này, họ phải kết luận rằng họ không nắm
bắt tất cả các rủi ro trong mô hình của họ và, do đó, một số vốn phải được bỏ ra để đối
phó với những rủi ro chưa được biết đến.
4.1.2.3 Sự thất bại trong việc truyền đạt thông tin
Quản lý rủi ro không phải là một hoạt động được thực hiện bởi các nhà quản lý rủi ro cho
riêng họ. Đúng hơn, đây là một hoạt động được thực hiện để cho phép các công ty có thể
tối đa hóa giá trị của các cổ đông bằng cách thực hiện các quyết định tối ưu cho toàn
công ty. Đặc biệt, công ty phải lựa chọn một mức độ rủi ro có thể chấp nhận và đảm bảo

rằng những rủi ro được thực hiện trong toàn tổ chức có giá trị đối với các cổ đông. Do đó,
quản lý rủi ro phải cung cấp các thông tin kịp thời cho ban quản trị và các nhà lãnh đạo
cấp cao để họ có thể đưa ra những quyết định liên quan đến rủi ro của công ty và các
nhân tố tiềm tàng cho rủi ro của công ty. Để cho ban quản trị và các nhà lãnh đạo cấp cao
có thể hiểu được tình hình rủi ro của công ty thì tình hình này phải được truyền đạt đến
họ một cách chính xác. Nếu công ty có một hệ thống quản lý rủi ro hoàn hảo nhưng ban
quản trị và các nhà lãnh đạo cấp cao không thể hiểu đầu ra của các hệ thống này bởi vì
các nhà quản lý rủi ro không thể truyền đạt đầu ra này đúng cách, dẫn đến hệ thống của
công ty có thể bị hại nhiều hơn là lợi bởi những nhận định lạc quan sai lầm trong việc
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 17
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
thực hiện quản lý rủi ro. Thậm chí tệ hơn, thông tin có thể đến tay các nhà quản lý quá
muộn hoặc quá bị bóp méo bởi những giai đoạn trung gian.
Thất bại truyền thông dường như đã đóng một vai trò trong các cuộc khủng hoảng gần
đây nhất. Ví dụ, báo cáo của UBS cho các cổ đông giải thích rằng "Người ta đã nỗ lực
trình bày những rủi ro liên quan đến những khoản nợ vay dưới chuẩn hay các bất động
sản. Tuy nhiên các báo cáo này không thể truyền tải thông điệp vì một số lý do, cụ thể là
bởi vì các báo cáo này quá phức tạp, trình bày dữ liệu đã lỗi thời hoặc không thực hiện
đúng đối tượng "(trang 39). Hội đồng công nghiệp rút ra những bài học từ cuộc khủng
hoảng cũng nhấn mạnh về vấn đề thông tin liên lạc. Kết luận rằng "Giám sát và quản lý
rủi ro làm giảm nhận được thông tin đúng, vào đúng thời điểm, đúng người, chẳng hạn
những người có thể làm cho bản án được thông tin nhất có thể." Cuối cùng, một báo cáo
của Tập đoàn giám sát cao cấp , trong đó bao gồm những nhà quản lý hàng đầu từ Mỹ,
Anh, và Đức cũng như các nước khác cũng nhấn mạnh các vấn đề liên quan đến truyền
thông, ví dụ họ đã chỉ ra rằng: “Trong một số trường hợp, hệ thống phân cấp giống như
bộ lọc khi truyền đạt thông tin đến các nhà quản lý, điều này dẫn đến sự chậm trễ hoặc
biến dạng trong việc chia sẻ dữ liệu quan trọng với các nhà quản lý cấp cao”.
4.1.2.4 Thất bại trong giám sát và quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro là đảm bảo rằng công ty có những rủi ro mà nó muốn và không muốn. Vì
vậy các nhà quản lý rủi ro phải thường xuyên giám sát các rủi ro của công ty. Hơn nữa,

họ phải dè chừng và giảm thiểu các nguy cơ đã biết để đáp ứng các mục tiêu của quản lý
cấp cao.
Chúng ta vừa thảo luận vấn đề là một công ty có thể chấp nhận rủi ro mà nó không biết.
Khi thảo luận về vấn đề đó, chúng ta thường tập trung vào nó như là một vấn đề về hàng
tồn kho. Tuy nhiên, có một quan điểm khác nhau về vấn đề này trong đó đặc biệt có liên
quan đến các công ty tài chính. Đối với các công ty phi tài chính điển hình, các rủi ro
thường thay đổi từ từ. Các công ty tài chính thì không giống như vậy. Đối với một công
ty tài chính, rủi ro có thể thay đổi rất nhanh thậm chí công ty không kịp thích ứng. Vấn đề
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 18
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
phát sinh từ thực tế là các công ty tài chính thường sử dụng nhiều dạng công cụ phái sinh
và những công cụ phái sinh tổng hợp. Theo thời gian, các dạng này ngày càng trở nên
phức tạp hơn.
Tính chất rủi ro của các danh mục đầu tư của công cụ phái sinh có thể thay đổi rất nhanh
chóng mà không có bất cứ giao dịch gì. Điều này là bởi vì các công cụ phái sinh phức tạp
thường có tiếp xúc với yếu tố rủi ro cực kỳ nhạy cảm với điều kiện thị trường. Đáng chú
ý, trong cùng một ngày với một số sản phẩm nó hoàn toàn có thể có những thay đổi như
là chứng khoán có thể bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ lãi suất giúp nó tăng đáng kể nếu lãi suất
tăng và sau đó trong cùng một ngày nó cũng có thể mất đáng kể nếu lãi suất tăng. Đối với
sản phẩm như vậy, tự đảm bảo được điều chỉnh hàng ngày là một công cụ có thể kết thúc
việc tạo ra những tổn thất lớn bởi vì công cụ đó là tối ưu vào lúc bắt đầu của ngày có thể
chấm dứt các nguy cơ rủi ro vào cuối ngày.
Một trong những minh họa rõ ràng nhất về việc rủi ro thay đổi như thế nào là giá cả của
các công cụ phái sinh dưới chuẩn. Các chỉ số ABX là những dữ liệu có sẵn trên giá trị
chứng khoán phát hành đối với tài sản thế chấp nợ dưới chuẩn. Các chỉ số trung bình đều
có trọng số của các giao dịch hoán đổi tín dụng mặc định khi chứng khoán hóa. Chỉ số
mới thay đổi sáu tháng một lần, phản ánh việc chứng khoán hóa mới. Ban đầu, các chỉ số
AAA, đại diện cho giá cả của các giao dịch hoán đổi tín dụng mặc định trong đợt phát
hành chứng khoán tỷ lệ AAA, hầu như không có sai lệch, để đánh giá hợp lý rủi ro của
đợt phát hành tỉ lệ AAA chúng ta phải sử dụng các dữ liệu lịch sử có thể đã được rằng

chúng có ít rủi ro. Tuy nhiên, giá trị của các chứng khoán này đột ngột rớt giá một cách
thê thảm như minh họa trên hình 1. Những người nắm giữ những chứng khoán dưới
chuẩn tỷ lệ AAA bị thiệt hại to lớn nếu họ chọn để sử dụng các chỉ số ABX như những
sự ủy nhiệm cho các giá trị cổ phần của họ.
Vì các đặc tính rủi ro của chứng khoán thay đổi rất nhanh chóng nên nó là thách thức đối
với các nhà giám sát rủi ro và các nhà quản lý rủi ro để nắm bắt những thay đổi này và để
điều chỉnh việc tự đảm bảo một cách thích hợp. Thách thức này đặc biệt to lớn khi các rủi
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 19
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
ro có thể thay đổi đáng kể chỉ vì một thay đổi nhỏ trong việc xác định giá chứng khoán.
Do vậy các nhà quản lý rủi ro có thể thất bại trong việc đo lường rủi ro hoặc rủi ro bảo hộ
đơn giản là vì những đặc tính nguy cơ của chứng khoán thay đổi quá nhanh chóng đến
nỗi không cho phép các nhà quản lý đánh giá những đặc điểm một cách thích hợp hoặc
để đưa ra một sự đảm bảo chính xác.
Một thành phần quan trọng của quản lý rủi ro là việc xác định các giải pháp có thể được
thực hiện một cách nhanh chóng nếu một công ty phải giảm rủi ro trong một khoảng thời
gian ngắn. Do đó kế hoạch dự phòng bảo hiểm rủi ro là cần thiết. Thiếu kế hoạch như vậy
có thể làm cho công ty không thể đối phó với những khó khăn đột xuất. Tuy nhiên, trong
cùng một lúc khi tính thanh khoản trên thị trường kém, nhiều lựa chọn giảm thiểu rủi ro
có thể được sử dụng một cách dễ dàng trong thời kì không có khủng hoảng có thể không
còn sử dụng được nữa.
Nghịch lý thay, việc đưa vào sử dụng phương pháp kế toán hạch toán theo giá thị
trường làm cho các nhà quản lý khó khăn hơn trong việc đánh giá rủi ro để ước tính rủi ro
và đưa ra những cách phòng ngừa thích hợp.
9
Theo nhiều cách khác nhau, phương pháp
kế toán hạch toán theo giá thị trường đã giới thiệu Nguyên tắc Heisenberg vào thị trường
tài chính đó là: Đối với các tổ chức lớn, thì họ sẽ quan sát giá trị của một nhóm chứng
khoán có ảnh hưởng đến giá trị chứng khoán đó. Lý do cho điều này đơn giản là: Khi
những tổn thất của phương pháp kế toán hạch toán theo giá thị trường được mọi người

biết đến, họ bắt đầu một chuỗi phản ứng điều chỉnh tại các tổ chức khác và ảnh hưởng
đến giá giao dịch để thị trường hiểu được vị trí chính yếu của các tổ chức tốt hơn.
Trong các tổ chức lớn và phức tạp, cũng có thể tồn tại khả năng các cá nhân đương
đầu với rủi ro tiềm ẩn trong một khoảng thời gian. Một thương nhân có thể đã xây dựng
một vị thế phức tạp mà chỉ có ông ta hiểu. Vị thế này trong một số hoàn cảnh có thể dẫn
tới những thiệt hại lớn. Vị thế này sử dụng những chứng khoán không được kết hợp với
nhau trong hệ thống quản trị rủi ro. Hầu hết thời gian, các tổ chức phải đối mặt với sự
trao đổi. Quản lý rủi ro có thể được cấu trúc để biết tất cả mọi thứ ở mọi thời điểm. Tuy
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 20
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
nhiên, nếu quản trị rủi ro được tổ chức theo cách đó, nó sẽ kiềm chế sự đổi mới trong
công ty và cản trở khả năng cạnh tranh của công ty. Trong thị trường chuyển động nhanh,
nhân viên phải có tính linh hoạt. Tuy nhiên, tính linh hoạt làm cho khả năng không thể
quan sát của túi rủi ro xuất hiện. Khi những rủi ro này biểu hiện ra bên ngoài, nó không
phải là đại diện cho sự thất bại quản lý rủi ro. Quản trị rủi ro không thể đảm bảo rằng
những rủi ro này sẽ không bị mắc phải nhưng cổ đông trước đây đã có thể tồi tệ hơn. Bên
cạnh việc loại bỏ tính linh hoạt trong công ty, giám sát rủi ro là khá tốn kém nên tại một
số điểm, giám sát rủi ro chặt chẽ hơn là không hiệu quả.
Hiệu quả của sự giám sát và kiểm soát rủi ro phụ thuộc chủ yếu vào nền văn hóa
của tổ chức và sự khích lệ. Nếu rủi ro là công việc của tất cả mọi người trong tổ chức, nó
là khó khăn hơn cho túi rủi ro để mà không có ai quan sát. Nếu tiền bồi thường của người
lao động bị ảnh hưởng bởi cách họ chấp nhận rủi ro, họ sẽ chấp nhận rủi ro khôn ngoan
hơn. Các mô hình rủi ro tốt nhất trong một công ty với văn hóa nghèo nàn và khuyến
khích thấp sẽ ít hiệu quả hơn trong mô hình trong một công ty nơi ưu đãi của người lao
động được tốt hơn phù hợp với mục tiêu chấp nhận rủi ro của công ty.
4.1.2.5 Thất bại trong đo lường và quản lý rủi ro
Cho đến nay, chúng tôi đã đưa ra các số liệu thống kê rủi ro. Hiện nay chúng tôi
thấy rằng tập trung vào các số liệu là quá hạn hẹp có thể làm cho nó khó khăn hơn cho
nhà quản lý để đạt được các mục tiêu của mình. Cụ thể, những rủi ro mà nhà quản lý xem
là quan trọng có thể không được đo lường và bị bỏ qua.

Một phương pháp đo lường rủi ro trong các tổ chức tài chính được sử dụng rộng
rãi là đo lường VaR hàng ngày cho hoạt động mua bán. Các ngân hàng lớn thường tiết lộ
các dữ liệu được đo lường hàng quý. Nói chung hàng quý họ sẽ cho biết Lời và Lỗ đã
vượt quá VaR hàng ngày bao nhiêu. Ví dụ, báo cáo năm 2006 của UBS cho thấy nó chưa
bao giờ bị lỗ vượt quá VaR hàng ngày. Ngược lại, trong năm 2007, báo cáo hàng năm
cho thấy nó đã vượt quá VaR hàng ngày của nó 29 lần. Các kết quả của năm 2007 cho
thấy rằng những thay đổi cơ bản diễn ra trong nền kinh tế đã làm cho cho các nhà quản lý
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 21
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
rủi ro khó khăn để theo dõi các rủi ro trên cơ sở hàng ngày. Tuy nhiên, một số lượng lớn
VaR vượt định mức cung cấp ít hoặc không có thông tin về ý nghĩa của những sự vượt
quá định mức này đối với sức khỏe tài chính của UBS. Điều này cho thấy rằng sự vượt
quá định mức này thực sự nhỏ và rằng đã những sự đạt được lớn hơn cũng bởi vì sự biến
động tăng lên nhanh chóng này. Ngoài ra, có thể có nhiều khoản lỗ rất lớn và ít khoản lời
lớn. Trong trường hợp trước đây, công ty có thể dẫn đầu ở cuối năm. Trong trường hợp
thứ hai, công ty có thể gặp rắc rối nghiêm trọng. Do đó, tập trung vào các VAR thị
trường hàng ngày, mặc dù về mặt trí thức đáp ứng cho các nhà quản trị rủi ro bởi vì hầu
hết kỹ thuật định lượng cập nhật hàng ngày có thể mang đến sự liên quan đến vấn đề này,
chỉ có thể là một phần của quản trị rủi ro và không phải là điều mà người quản lý hàng
đầu nên tập trung vào. Lãnh đạo cao nhất phải tập trung về những tác động lâu dài của
các rủi ro.
Các phương pháp đo lường VAR ngắn hạn có thể thấp và công ty cho thấy có thể
làm một công việc này cực kỳ tốt với họ, nhưng nó có thể thất bại. Tôi chưa thấy ước
lượng VAR hàng tháng từ LTCM. Tuy nhiên, từ tháng 3 năm 1994 đến tháng 12 năm
1997, LTCM đã có chỉ tám tháng lỗ và với tháng tồi tệ nhất thiệt hại là 2,9%. Ngược lại,
nó có 37 tháng với lợi nhuận.
10
Kết quả là, người ta sẽ có một thời gian khó khăn trong
việc sử dụng lợi nhuận hàng tháng trong quá khứ để kết luận rằng quản lý rủi ro của nó
đã bị thiếu sót. Hãy xem xét một công ty có VAR một ngày của $100,000,000 cho giao

dịch kinh doanh của nó với xác suất 1%. Điều này có nghĩa là công ty có một phần trăm
cơ hội bị mất nhiều hơn $ 100,000,000. Nếu công ty này vượt quá VAR của nó một lần
trong hơn 100 ngày giao dịch và mất $ 10,000,000,000, tất cả các bài kiểm tra thống kê
hiện có của quản trị rủi ro rủi ro dựa trên VAR vượt quá giới hạn sẽ chỉ ra rằng công ty
đã quản trị rủi ro tuyệt vời. Phương pháp VaR không nắm bắt được những khoản lỗ
khủng khiếp mà chỉ có một xác suất nhỏ xảy ra.
Phương pháp đo lường VaR hàng ngày giả định rằng tài sản có thể được bán một
cách nhanh chóng hoặc được phòng ngừa, vì vậy mà một công ty có thể giới hạn khoản
lỗ của nó về cơ bản trong vòng một ngày. Tuy nhiên, trong cả năm 1998 và năm trước,
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 22
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
chúng ta đã thấy rằng thị trường có thể trở nên bất ngờ kém thanh khoản, do đó phương
pháp VaR hàng ngày mất đi ý nghĩa của nó. Nếu một công ty đang có một danh mục đầu
tư mà không thể giao dịch được, phương pháp đo lường VaR hàng ngày không phải là
một đo lường rủi ro của danh mục đầu tư được bởi vì công ty bị mắc kẹt với các danh
mục đầu tư trong một khoảng thời gian dài hơn.
Để đánh giá rủi ro, các công ty phải xem xét phạm vi dài hơn và phải có một cái
nhìn toàn diện rủi ro của họ. Phạm vi một năm được sử dụng rộng rãi trong quản trị rủi ro
doanh nghiệp để đo lường rủi ro rộng của công ty. Nói chung, các tổ chức tài chính tập
trung vào rủi ro rộng của công ty trong phạm vi một năm nhằm mục đích cho xếp hạng
tín dụng ngụ ý rằng một xác suất rất nhỏ mặc định (vỡ nợ). Cách tiếp cận như vậy là hữu
ích trong việc đánh giá rủi ro của một công ty, trong ước tính số lượng tối ưu của vốn cho
một công ty, và ước tính lợi nhuận của dự án và ngành nghề kinh doanh thông qua một
đánh giá cẩn thận về chi phí vốn cần thiết để chịu rủi ro của họ. Tuy nhiên, tại cùng một
thời gian, phương pháp tiếp cận như vậy là không đủ.
Một mục tiêu xếp hạng tín dụng cao hiệu quả có nghĩa rằng công ty sẽ cố gắng để
tránh sự mặc định (vỡ nợ) trong tất cả hầu hết trường hợp. Nếu một công ty nhằm mục
đích cho một xếp hạng tín dụng AA, nó thực tế sẽ chọn một xác suất của mặc định (vỡ
nợ) mà trong đó xác suất mặc định (vỡ nợ) sẽ ít xuất hiện hơn trong một năm của một
ngàn. Các cuộc khủng hoảng xảy ra thường xuyên hơn, vì vậy các công ty phải có một

chiến lược cho phép nó tồn tại trong cuộc khủng hoảng. Hơn nữa, xác suất của một cuộc
khủng hoảng là rất khó để ước tính một cách chính xác, do đó ngay cả khi ước tính xác
suất là rất nhỏ, lỗi ước lượng có thể xảy ra sự thật là xác suất không biết cao hơn nhiều.
Do đó, các công ty phải tập trung vào trong đo lường và quản trị rủi ro của nó trong các
cuộc khủng hoảng.
Mô hình rủi ro hiện tại thường không được thiết kế để nắm bắt các rủi ro liên quan
với các cuộc khủng hoảng và giúp các doanh nghiệp quản lý nó. Những mô hình này sử
dụng dữ liệu lịch sử và chính xác nhất cho phạm vi ngắn như hàng ngày. Trong phạm vi
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 23
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
ngắn, cuộc khủng hoảng là sự kiện cực kỳ hiếm. Tuy nhiên, khi chúng ta xem xét qua
nhiều năm, cuộc khủng hoảng không phải là sự kiện cực kỳ hiếm. Tháng và năm là một
phạm vị tốt hơn để đánh giá rủi ro khi liên quan đến các cuộc khủng hoảng vì ít nhất hai
lý do. Đầu tiên, bằng chứng là kể từ mùa hè năm 2007, cuộc khủng hoảng liên quan đến
sự mất tính thanh khoản của thị trường. Việc mất tính thanh khoản có nghĩa là các công
ty đang mắc kẹt với vị thế mà họ không bao giờ mong đợi sẽ nắm giữ trong một thời gian
dài vì giá của những chi phí áp lực liên quan đến việc giao dịch thoát khỏi vị thế này là
rất cao. Vị thế mà rủi ro được đánh giá qua một ngày vì công ty nghĩ rằng nó có thể mua
bán vị thế này đột nhiên trở thành vị trí phải nắm giữ trong hàng tuần hoặc vài tháng. Thứ
hai, trong thời kỳ khủng hoảng, các công ty sẽ có nhiều khoản lỗ vượt quá các VaR hàng
ngày của họ và những khoản lỗ này có thể có đủ lớn để làm suy yếu đáng kể họ. Kết quả
là, các phương pháp đo lường rủi ro phải để suy tính đến sự phân bố của những khoản lỗ
lớn qua theo thời gian dài chứ không phải chỉ trên một ngày.
Các cuộc khủng hoảng liên quan đến những tương tác phức tạp giữa các rủi ro và
qua các tổ chức. Mô hình thống kê rủi ro thường lấy rủi ro ngoại sinh đối với công ty và
bỏ qua rủi ro tập trung rủi ro giữa các tổ chức. Phương pháp như vậy là phù hợp với
nhiều tổ chức, nhưng nó là không đủ cho các tổ chức mà, vì lí do nào đó, có vai trò quan
trọng tại các thị trường cụ thể và có hành động ảnh hưởng đến giá chứng khoán. Ví dụ, ai
cũng biết rằng LTCM có vị thế rất lớn trong thị trường chỉ số trong ngắn hạn. Trong cuộc
khủng hoảng, nó có khả năng nhỏ thay đổi các vị thế bởi vì nó quá lớn trong thị trường

đó. Hơn nữa, một tổ chức lớn có thể phơi bầy những giao dịch lợi dụng người khác - tức
là, các giao dịch được thiết kế để khai thác vấn đề của nó. Một ví dụ về giao dịch trục lợi
là một tình huống nơi người buôn bán từ các tổ chức đạt được lợi ích từ việc đẩy giá
xuống nếu họ có thể bởi vì nó có thể dẫn đến một lực bán tháo. Mô hình quản trị rủi ro
điển hình sẽ không tính việc này. Những mô hình này không tính đến cho thực tế rằng
nếu tổ chức này lớn trên thị trường, khoản lỗ của nó có thể dẫn đến nhiều khoản lỗ hơn.
Khi một công ty có khoản lỗ, nó có thể kéo giảm giá của các tổ chức khác và làm cho sự
tài trợ vốn trở nên tốn kém hơn giữa các tổ chức, dẫn đến hiệu ứng phản hồi cho tổ chức.
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 24
Thất bại trong quản trị rủi ro GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Bỏ qua những hiệu ứng phản hồi tiềm năng này có thể dẫn đến sự giảm bớt rủi ro của các
vị thế trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.
Có rất ít hy vọng cho các mô hình rủi ro thống kê dựa trên dữ liệu lịch sử để nắm
bắt được những tình huống phức tạp. Thay vào đó, công ty đã gia tăng các mô hình này
với kịch bản phân tích để điều tra làm thế nào cuộc khủng hoảng có thể xảy ra và làm thế
nào họ sẽ ảnh hưởng đến các giả định khác nhau về cách làm thế nào nó phản ứng với
cuộc khủng hoảng. Với kịch bản này trong tay, quản lý hàng đầu sau đó có thể hiểu bằng
cách nào cuộc khủng hoảng có thể gây nguy hiểm cho nhượng quyền thương mại của tổ
chức của họ và làm thế nào để quản lý rủi ro trước khi chúng xảy ra như vậy để họ có thể
vượt qua nó. Cách tiếp cận bằng kịch bản yêu cầu phân tích kinh tế và tài chính. Nó
không thể được thực hiện bởi bộ phận quản lý rủi ro gồm các nhà vật lý và nhà toán học.
Cách tiếp cận như vậy cũng không thể thành công trừ khi nhà quản lý hàng đầu tin rằng
các kịch bản được xem xét mô tả mối đe dọa xác thực cho tổ chức và tổ chức phải tự bảo
vệ chống lại các mối đe dọa như vậy.
4.2Kết quả nghiên cứu:
Quản lý rủi ro đã đạt được những tiến bộ đáng kể từ năm 1998. Những khó khăn
của năm trước đã thuyết phục nhiều nhà quan sát vì lí do nào đó mà có các sai sót đáng
kể trong quản trị rủi ro và các vấn đề của năm ngoái một phần được giải thích bởi những
thất bại trong quản trị rủi ro. Trong bài viết này, tôi cho thấy rằng nên phân biệt cẩn thận
giữa những quyết định chấp nhận rủi ro dẫn đến những khoản lỗ không mong đợi và đánh

giá quản trị rủi ro của rủi ro. Có rất nhiều cách để quản trị rủi ro thất bại có thể xảy ra,
nhưng không phải mỗi khoản lỗ đề phản ánh một sự thất bại quản trị rủi ro. Tuy nhiên,
thực hành quản trị rủi ro có thể được cải thiện bằng chú ý vào các bài học từ các cuộc
khủng hoảng tài chính.
Những cuộc khủng hoảng này xảy ra đủ thường xuyên để chúng có thể được mô
hình cẩn thận và tổ chức phải tập trung vào phân tích những kịch bản đánh giá tác động
của cuộc khủng hoảng cho tình hình tài chính của họ và sự tồn tại. Phân tích kịch bản như
Nhóm 12_TCDN Đêm 1 25

×