Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Thực trạng và giải pháp về chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.59 KB, 28 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính sách dân tộc là một trong những vấn đề cơ bản và chiến lược của
Đảng và Nhà nước ta. Trong một quốc gia đa dân tộc, đây là một vấn đề sống
còn. Một chính sách dân tộc đúng đắn phải phản ánh được cơ cấu dân tộc, vị trí,
vai trò của mỗi dân tộc, quan hệ giữa các dân tộc; thực trạng phát triển kinh tế xã hội của các dân tộc từ đó có các giải pháp thích hợp để phát triển; đảm bảo
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau để cùng phát triển của các dân tộc.
Ở nước ta, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc càng trở nên quan trọng.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã xác định dân tộc là một trong những vấn
đề cơ bản trong sự nghiệp cách mạng. Do đó, ngay sau khi giành độc lập, Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập ngay Nha Dân tộc thiểu số
để theo dõi, quản lý các vấn đề dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Đảng ta luôn coi vấn
đề dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước
ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định đường
lối, quan điểm về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc: “Đoàn kết các dân tộc có vị
trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến
bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nghiên cứu
xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá
kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở
các cấp” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2011,tr.244-245).
Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách nhằm
giúp đỡ đồng bào các dân tộc, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, xóa bỏ dần
những hủ tục, thành kiến lạc hậu. Do vậy, nội dung của chính sách dân tộc là gắn


liền với từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc thiểu số chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong chính sách dân tộc ở
nước ta và là một bộ phận trọng yếu trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay.
Tại việc quán triệt và thực hiện các chính sách về phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc thiểu số đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy vậy, trong
việc thực hiện vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế. Thực tế chính sách dân tộc của
chúng ta còn nhiều yếu kém, thiếu tính đồng bộ, còn mang nặng tính hình thức,


2
chưa phản ánh đầy đủ những thực tế, yêu cầu bức xúc trong quá trình chuyển đổi
toàn bộ nền kinh tế - xã hội từ mô hình tập trung, quan liêu, bao cấp sang mô
hình kinh tế thị trường, mở rộng dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền. Một
số mục tiêu, kế hoạch đề ra như xóa đói giảm nghèo, xóa nạn mù chữ, rút ngắn
khoảng cách phát triển giữa các dân tộc… đều chưa được thực hiện hiệu quả.
Với những yêu cầu cấp thiết của Đảng và Nhà nước ta về các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số cả nước nói chung và
trên địa bàn nói riêng còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc thiểu số ở thực trạng và giải pháp” làm tiểu luận cuối khóa.
2. Mục đích - yêu cầu
- Đánh giá thực trạng chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc
thiểu số ở giai đoạn hiện nay.
- Đề ra các giải pháp thực hiện hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số ở giai đoạn 2015 - 2020.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là đồng bào các dân tộc thiểu số .
- Phạm vi nghiên cứu: Chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào
dân tộc thiểu số ở giai đoạn 2010 - 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp duy vật biện chứng kết hợp phương pháp phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh.
5. Kết cấu của đề tài
Chương I. Cơ sở lý luận về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
Chương II. Thực trạng việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc thiểu số ở huyện Phước Sơn giai đoạn 2010 - 2014.
Chương III. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực
hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số ở huyện Phước
Sơn, giai đoạn 2015 - 2020.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc được thể hiện tập trung
ở Cương lĩnh nổi tiếng là “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được
2


3
quyền tự quyết, liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại” (V.I Lênin; Toàn tập,
NXB Tiến bộ, Mastxcơva, 1980, t.25, tr.375).
Bình đẳng dân tộc là nguyên tắc rất quan trọng của cương lĩnh. Đây là một
sự bình đẳng thật sự, bình đẳng toàn diện giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục,… Lênin đã phân tích rằng: “Người nào
không thừa nhận và không bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc và bình
đẳng giữa các ngôn ngữ, người đó không phải là người mácxit, thậm chí không
phải là người dân chủ nữa” (V.I.Lênin; Toàn tập, NXB Tiến bộ, Maxcơva, 1980,
tr136).
Quyền tự quyết của dân tộc là nguyên tắc quan trọng thứ hai trong cương
lĩnh của Lênin về vấn đề dân tộc. Theo Lênin: Quyền dân tộc tự quyết, nghĩa là

quyền phân lập và thành lập quốc gia dân tộc riêng biệt (V.I.Lênin; Toàn tập,
NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.27,tr.331-333). Nhưng quyền tự quyết không
có nghĩa là nhất thiết tách khỏi nước lớn trong mọi điều kiện. Khẩu hiệu “Các
dân tộc có quyền tự quyết không phải là để các dân tộc tách ra, mà chính là để
các dân tộc xích lại với nhau. Sức mạnh ở khẩu hiệu đó là ở chổ nó gạt bỏ tất cả
mọi cơ sở nghi ngờ về mưu đồ thống trị của dân tộc này đối với dân tộc khác và
nhằm chuẩn bị cho các dân tộc tiến đến sự liên minh tự nguyện vào một quốc gia
Xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều dân tộc” (V.I.Lênin; Toàn tập, NXB Tiến bộ,
Mátxcơva, 1980, t.27,tr.331-333).
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại là nguyên tắc thứ ba trong
cương lĩnh của Lênin về vấn đề dân tộc. Đây là sự liên minh quốc tế trong cuộc
đấu tranh chống áp bức giai cấp và áp bức dân tộc, vì sự giải phóng dân tộc và
xã hội. Lênin đã viết: “Chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa quốc tế vô sản đó
là hai khẩu hiệu đối lập và thích ứng với hai mặt trận giai cấp lớn trong thế giới
tư bản chủ nghĩa và biểu thị hai chính sách trong vấn đề dân tộc” (V.I.Lênin;
Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.27,tr.157). Chủ nghĩa quốc tế vô sản
là ngọn cờ của nhân dân lao động thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức dân
tộc.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là biểu hiện tập trung của sự vận
dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, với những nội dung:
Chỉ có cách mạng vô sản mới là con đường giải phóng triệt để dân tộc, tư
tưởng này được nhận thức trên hai phương diện đối ngoại và đối nội. Vấn đề dân
tộc trên phương diện đối ngoại, khi nước ta là một nước thuộc địa nữa phong
kiến thì vấn đề dân tộc là vấn đề giành lại độc lập tự do cho cả dân tộc đa số và
dân tộc thiểu số trong quốc gia Việt Nam thống nhất, làm cho các dân tộc từ thân
phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước.
Vấn đề dân tộc trên phương diện đối nội, nước ta là một quốc gia đa dân
tộc, giải quyết vấn đề dân tộc ở đây là xác định đường lối, chính sách để đưa các
3



4
dân tộc tiến lên xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, trong một xã hội bình đẳng, công bằng, dân chủ và văn minh.
Các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Đoàn kết để đấu tranh chống kẻ thù, giữ vững nền độc lập
chung của Tổ quốc. Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa các dân tộc thiểu số
còn ở trình độ chậm phát triển để cùng nhau tiến bộ.
Làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, làm cho đồng bào dân tộc ít người
được hưởng ngày càng đầy đủ hơn những quyền lợi về kinh tế, văn hoá, giáo dục.
Đảng và Nhà nước chú trọng chính sách phát triển kinh tế - xã hội và đào
tạo, bồi dưỡng, đề bạt đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số (DTTS) miền núi
đáp ứng nhu cầu xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội và
muốn thế toàn xã hội phải quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là phải: Làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, làm cho đồng bào dân tộc ít người
được hưởng ngày càng đầy đủ hơn những quyền lợi về kinh tế, văn hoá, giáo dục
(Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tập 11,
trang 137).
3. Những quan điểm, nguyên tắc cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam
về chính sách dân tộc.
Chính sách dân tộc là một hệ thống những quan điểm chính trị của một
giai cấp, đại diện là chính đảng và nhà nước để giải quyết vấn đề dân tộc và mối
quan hệ giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính sách dân
tộc là cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc, tác động
trực tiếp đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Những nguyên tắc trong chính sách dân tộc được thể hiện trong các kỳ Đại
hội của Đảng. Đại hội VI (1986), Đảng ta khẳng định: “Trong việc phát triển
kinh tế, xã hội ở những nơi có đồng bào dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy đủ

chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên
tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau, cùng làm chủ tập thể” (Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật.H.1987, tr 97).
Chính sách dân tộc được tiếp tục cụ thể hóa theo tinh thần của Đại hội
Đảng lần thứ VII (1991) và VIII (1996). Đến đại hội lần thứ IX của Đảng, một
văn kiện quan trọng của việc thực hiện chính sách dân tộc là Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ bảy khóa IX về công tác dân tộc. Nghị quyết này chỉ rõ
năm nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài là phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc thiểu số (DTTS). Tinh thần chủ đạo của Đại hội Đảng lần thứ X (2006), lần
thứ XI (2011) là tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ bảy khóa IX về công tác dân tộc, nhằm thực hiện hóa mục tiêu:
“Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ
4


5
nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Sự thật.H.2011, tr 51).
Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trên ba nguyên
tắc cơ bản: Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển. Các nội
dung đó có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, hợp thành một
thể thống nhất, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Có bình đẳng
thì mới thực hiện được đoàn kết dân tộc; có đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển
thì mới thực hiện được bình đẳng dân tộc.
Với Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (khóa VI) về công tác dân tộc, Đảng
ta đã khẳng định: Phát triển kinh tế - xã hội là nội dung cấp thiết của chính sách
dân tộc, bởi vì: chỉ khi thực hiện tốt việc phát triển kinh tế - xã hội mới có tiền đề
vật chất cho việc thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết và tiến bộ xã hội; phát triển
kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số ở miền núi mới giải quyết được các vấn đề
bức xúc đang đặt ra; phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số ở miền núi

mới có cơ sở để xây dựng đời sống văn hóa mới...Từ khi có Nghị quyết 22 của
Bộ Chính trị (khóa VI) đến nay, với tư duy mới về chính sách dân tộc, nhiều
chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội đã được thực hiện và tạo ra
bước chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS; trong đó,
có vùng DTTS ở tỉnh Quảng Nam.
Các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ như:
- Nghị quyết 15-NQ/TW, về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 nêu
rõ: Ðẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương
trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, trong đó chú trọng các chính sách giảm
nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số
thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn,
vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã
hội so với bình quân cả nước.
- Nghị quyết 76/2014/QH13 chỉ rõ: Ưu tiên nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng
và phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, huyện nghèo, xã nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc
biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo.
- Nghị quyết 80/NQ-CP đã chỉ đạo: Giảm nghèo bền vững là một trọng tâm
của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nhằm cải thiện và từng
bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 - 2015 và
giai đoạn tiếp theo, bao gồm các Đề án/Dự án giảm nghèo; hệ thống tiêu chí
đánh giá công tác giảm nghèo quốc gia.
- Nghị quyết 30a/NQ-CP về hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với
62 huyện nghèo, mục đích của Nghị quyết là tạo sự chuyển biến nhanh hơn về
5


6

đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc
các huyện nghèo, bảo đảm đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu
vực. Hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất
hàng hóa, khai thác tốt các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội phù hợp với đặc điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế
và các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây dựng xã hội
nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi
trường sinh thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN PHƯỚC SƠN
1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa truyền
thống vùng DTTS ở , tỉnh Quảng Nam.
1.1. Điều kiện tự nhiên
Phước Sơn là huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Tam
Kỳ 120 km; phía Bắc giáp huyện Nam Giang, phía Đông Bắc giáp huyện Nông
6


7
Sơn; phía Đông giáp huyện Hiệp Đức, phía Nam giáp huyện Nam Trà My, phía
Tây giáp huyện Đăkglei, tỉnh Kon Tum. Huyện có diện tích tự nhiên 114.479 ha;
toàn huyện có 11 xã và 01 thị trấn, với 66 thôn (khối), được phân ra 03 vùng là:
+ Vùng cao gồm 05 xã: Phước Chánh, Phước Công, Phước Kim, Phước
Thành, Phước Lộc.
+ Vùng Trung gồm 03 xã: Phước Đức, Phước Năng, Phước Mỹ và thị trấn
Khâm Đức.
+ Vùng thấp gồm 03 xã: Phước Hòa, Phước Hiệp và Phước Xuân.
1.2. Dân số - Dân tộc

Dân số toàn huyện có 24.590 người, gồm 16 thành phần dân tộc sinh sống;
trong đó chủ yếu là người Gié Triêng chiếm 62,2%, dân tộc Kinh chiếm 31,5%,
còn lại 6,3% là các dân tộc thiểu số khác gồm: Ca dong, Giẻ, Tày, Nùng, Pa cô,
Cơ tu, Sán dìu, Vân kiều, Mường, Thái, Cor, Hrê, Ve, Ba na.
1.3. Kinh tế - Xã hội
+ Tốc độ tăng trưởng bình quân: 21%.
+ Thu nhập bình quân đầu người: 3,9 triệu đồng/năm.
+ Tỷ trọng NN - CN - DV: 33,05% - 23,71% - 43,23%.
(Số liệu thống kê cuối năm 2008).
Tính đến cuối năm 2008, toàn huyện còn 2.557 hộ nghèo theo chuẩn quốc
gia (11.709 nhân khẩu), chiếm tỷ lệ 52.2% so với tổng dân số toàn huyện. Trong
đó hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm 2.257 hộ (10.323 khẩu).
1.4. Thực trạng về cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất vùng DTTS.
Kết cấu hạ tầng của huyện thời gian qua đã được đầu tư xây dựng khá
mạnh, song do nguồn lực có hạn nên hệ thống hạ tầng vẫn chưa đồng bộ, chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
a) Xây dựng:
- Những năm qua ngành xây dựng của huyện đã đạt được những thành tựu
đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội huyện. Bằng nhiều nguồn
vốn trong giai đoạn 2010-2015 huyện đã tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp
sửa chữa trên 263 công trình với tổng số vốn đầu tư phần huyện quản lý 657,7 tỷ
đồng. Ngoài ra các doanh nghiệp tư nhân đã đầu tư trên 200 tỷ đồng cho việc
xây dựng các khách sạn, nhà hàng, cơ sở sản xuất góp phần đổi thay diện mạo
của huyện, nhất là tại địa bàn thị trấn Khâm Đức.
- Sự phát triển trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng gắn liền với sự phát
triển chung của toàn nền kinh tế và phụ thuộc nhiều vào khả năng cũng như quy
mô đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Nhìn chung vốn đầu tư của
Nhà nước đã góp phần bình ổn và tạo điều kiện phát triển kinh tế huyện, các dự
án xây dựng cơ sở hạ tầng theo các chương trình 134, 135 và Nghị quyết 30a của
Chính phủ đã được triển khai hàng năm góp phần làm tăng tỷ trọng ngành công

nghiệp và xây dựng bình quân 16,6%/năm.
7


8
b) Giao thông:
Mạng lưới giao thông của huyện luôn được quan tâm đầu tư, các tuyến
trong hệ thống giao thông huyện đã được hình thành một cách tương đối đầy đủ
đã có đường ô tô từ trung tâm huyện đến các trung tâm các xã nhưng nhìn chung
chất lượng còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nói chung.
Mạng lưới giao thông của huyện hiện có 02 tuyến đường chính chạy qua:
+ Đường Hồ Chí Minh có chiều dài 56 km, kết nối với Đà Nẵng và các
tỉnh Tây Nguyên, đi qua thị trấn Khâm Đức và các xã Phước Xuân, Phước Đức,
Phước Năng, Phước Mỹ.
+ Quốc lộ 14 E dài 80 km kết nối với Tam Kỳ và đi qua địa bàn xã Phước
Hiệp, Phước Hòa, Phước Xuân của huyện Phước Sơn, chiều dài 27 km, tiếp giáp
với đường Hồ Chí Minh tại ngã ba Play Lao Mưng.
Đối với các tuyến đường huyện còn lại, nhất là tuyến đường đi các xã
vùng cao, mặt đường còn hẹp, nền đường yếu, khó khăn cho việc đi lại, giao
thương. Các tuyến đường này hiện đang được đầu tư, nâng cấp để đáp ứng yêu
cầu phát triển trong tương lai.
c) Thủy lợi:
- Được sự quan tâm đầu tư, trong những năm qua thông qua chương trình
định canh định cư, chương trình 135, Nghị Quyết 30a, … nhiều công trình thủy
lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp đã được xây dựng và đưa vào sử dụng.
Đến nay tổng số công trình thủy lợi trên địa bàn huyện có khoảng 90 công trình,
chủ yếu là hệ thống đập dâng và kênh dẫn nước quy mô nhỏ, đáp ứng tưới tiêu
cho khoảng 60% diện tích lúa nước.
- Bên cạnh đó, công trình thủy lợi Hồ chứa Nước Zút do Sở Nông nghiệp
& PTNT làm chủ đầu tư với tổng kinh phí hơn 27 tỷ đồng đã góp phần tưới tiêu

ổn định cho gần 120 ha lúa nước tại xã Phước Năng và có khả năng phát triển
nuôi trồng thủy sản rất tốt, bước đầu huyện đã thả 100.000 con cá giống để xã
quản lý, nuôi dưỡng, phục vụ cho nhu cầu đánh bắt, cải thiện bữa ăn cho nhân
dân trong vùng.
- Ngoài ra, hàng năm huyện cung cấp cho nhân dân các xã hàng ngàn mét ống
nhưa HDPE để bà con tự làm thuỷ lợi, tưới những diện tích nhỏ lẻ ở những vùng
khó khăn nhằm tiến tới ổn định sản xuất và an ninh lương thực cho toàn huyện.
d) Điện sinh hoạt:
Lưới điện quốc gia đã đến 11/12 xã, thị trấn, tỷ lệ hộ được sử dụng điện
đạt trên 90%, hiện chỉ còn xã Phước Lộc chưa có lưới điện quốc gia. Do điều
kiện sinh sống phân tán, địa hình chia cắt nên việc đưa lưới điện sinh hoạt về hộ
gia đình gặp nhiều khó khăn, chất lượng chưa tốt, thường hay xảy ra sự cố mất
điện, nhất là vào mùa mưa bão.
đ) Cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ phục vụ sản xuất Nông - Lâm Ngư nghiệp trong vùng

8


9
- Công tác tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật được chú
trọng; thường xuyên mở các lớp hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân, xây dựng mô
hình sản xuất cây, con giống mới, các mô hình nông - lâm kết hợp.
- Nhìn chung, việc ứng dụng một số tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản
xuất nông, lâm nghiệp đã từng bước được nâng lên nhưng vẫn còn nhiều hạn
chế, sản xuất vẫn mang tính tự phát, năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi
trong những năm qua còn thấp; hiệu quả đầu tư chưa cao.
1.5. Thực trạng phát triển các lĩnh vực xã hội trên địa bàn huyện
a) Y tế:
Ngành Y tế huyện những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể,
các chương trình phòng bệnh, phòng dịch và chăm sóc sức khoẻ ban đầu được

thực hiện tốt, từng bước đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Các
chương trình y tế quốc gia, các chính sách của Nhà nước, các dự án hỗ trợ khám,
chữa bệnh cho đồng bào nghèo, đồng bào dân tộc ít người và gia đình chính sách
đạt kết quả khá tốt.
b) Giáo dục - Đào tạo:
Trong giai đoạn vừa qua, lĩnh vực giáo dục và đào tạo của huyện được chú
ý và có nhiều chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng. Toàn huyện có
7.011 học sinh tăng 8% so với năm 2005, tỷ lệ học sinh đến trường đạt 98%,
ngành học mầm non được mở rộng đến 12 xã, thị trấn. Cơ sở vật chất phục vụ
cho dạy và học được tăng cường; trong 05 năm đã xây mới được 138 phòng học
kiên cố và xây dựng hoàn thành trường PTDT nội trú của huyện.
c) Văn hóa - Thể thao:
Công tác quản lý Nhà nước về văn hóa, thông tin được củng cố, tạo môi
trường sinh hoạt văn hóa lành mạnh trong nhân dân, đảm bảo giữ gìn trật tự an
ninh, nếp sống kỷ cương, bài trừ các tệ nạn xã hội, phát huy truyền thống văn
hóa của dân tộc. Hiện có đến 85% các khu dân cư, tổ dân phố được phủ sóng
truyền hình, hệ thống phát thanh không dây đến 8/12 xã, thị trấn.
1.6. Đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an
ninh và hiệu quả đầu tư của các Chương trình, dự án thời gian qua trên địa
bàn huyện
Trong 5 năm qua, trên địa bàn huyện đã được triển khai nhiều chương
trình, dự án, chính sách của Trung ương, như Chương trình 135 giai đoạn II,
Chương trình 134, Nghị quyết 30a, Chương trình giảm nghèo, Quyết định
33/2007/QĐ-TTg, Quyết định 102/2009/QĐ-TTg, Quyết định 167/2008/QĐTTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về, hỗ trợ xóa nhà tạm cho đồng
bào dân tộc thiểu số.
Trong 5 năm qua, đồng bào các dân tộc thiểu số huyện thi đua thực hiện
các chương trình xoá đói giảm nghèo, giúp nhau phát triển sản xuất, thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển, giữ vững quốc phòng an ninh, xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh; tiếp tục củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
9



10
dân tộc, từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi, góp phần nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần trong nhân dân thể hiện trên một số lĩnh vực như sau:
Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân mỗi năm từ 7- 8%; giá trị sản xuất nông - lâm - nghiệp
tăng từ 4-5%; thu nhập bình quân đầu người đạt 7,5 triệu đồng/năm, tăng 3 triệu
đồng so với năm 2009. Tỷ lệ nghèo giảm bình quân gần 5%/năm (hiện nay còn
51,71%).
- Trên lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực;
diện tích canh tác, năng suất cây trồng và con vật nuôi tăng dần. Đồng bào đã tập
trung khai hoang, cải tạo đồng ruộng, mở rộng diện tích ruộng nước; kết quả
trong 05 năm đã khai hoang 61,58 ha, phục hóa 9,23 ha, đưa diện tích gieo trồng
lúa nước toàn huyện lên 803,5 ha, tăng 56,5 ha so với năm 2009; nhiều công
trình thuỷ lợi vừa và nhỏ được đầu tư xây dựng, tạo điều kiện để nông dân sản
xuất mỗi năm 2 vụ lúa nước; năng suất tăng từ 38 tạ/ha lên 40,5 tạ/ha. Sản lượng
lương thực có hạt đạt 4.997 tấn. Nhiều mô hình sản xuất mới được đưa vào ứng
dụng đạt hiệu quả cao, tiêu biểu trong phong trào này là đồng bào các dân tộc xã
Phước Xuân, Phước Chánh,….Về chăn nuôi có bước phát triển, tổng đàn gia súc
phát triển từ 13.412 con lên 16.828 con, đàn gia cầm từ 40.000 con lên 50.000
con. Nhiều hộ dân tộc thiểu số đã mạnh dạn vay vốn đầu tư hàng trăm triệu đồng
phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại, đem lại hiệu quả kinh tế như chị
Hoàng Thị Chung ở thôn 5, xã Phước Đức, anh Hồ Văn Dem ở thôn 3, xã Phước
Chánh, A Bốt thôn Lao Mưng, xã Phước Xuân,…Công tác trồng rừng có nhiều
tiến bộ, diện tích rừng trồng mỗi năm từ 350 - 400 ha rừng các loại, nâng tỷ lệ
che phủ rừng từ 62% nâng lên 63%.
- Về xây dựng cơ bản đã tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu bằng
nhiều nguồn vốn; tổng vốn đầu tư trong 5 năm qua trên 1.000 tỷ đồng với 354
công trình đầu tư. Các công trình xây dựng hoàn thành đã phát huy hiệu quả.

Đặc biệt là các tuyến đường giao thông đường vùng cao: Phước Chánh - Phước
Kim - Phước Thành, Phước Thành - Phước Lộc, Phước Mỹ - Phước Công,
Phước Công - Phước Lộc đã hoàn thành tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế xã hội; đến nay hơn 82 km đường liên xã đã được thâm nhập nhựa, đi lại
thuận lợi đến các xã trong 4 mùa, có 60/85 km đường liên thôn đã được bê tông
hóa. Có 100% trường học, trạm y tế xã được kiên cố hóa; trên 32 công trình thủy
lợi, hồ chứa nước phục vụ tưới tiêu 2 vụ cho 70% diện tích ruộng lúa nước; 95%
thôn, cụm dân cư có công trình nước sinh hoạt, 93% số hộ được sử dụng điện
lưới quốc gia. Trụ sở làm việc tiếp tục được đầu tư xây dựng ngày càng khang
trang, hiện có 12/12 xã, thị trấn có trụ sở làm việc kiên cố; 11/12 xã, thị trấn có
trạm truyền thanh không dây; 12/12 xã, thị trấn có điện thoại cố định và được
phủ sóng mạng điện thoại di động. Hầu hết các công trình đầu tư đều phát huy
được hiệu quả sử dụng, tạo điều kiện thuận lợi trong sản xuất và sinh hoạt, góp
phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
10


11
Ngoài nguồn vốn ngân sách Nhà nước được đầu tư trên địa bàn huyện; các
doanh nghiệp như: Nhà máy Thủy điện ĐăkMi 4 với công suất 208 MW, sản
lượng điện hàng năm đạt trên 600 triệu KWh, nộp ngân sách nhà nước 90 tỷ
đồng/năm. Các doanh nghiệp được cấp phép khai thác vàng, đặc biệt là Công ty
TNHH Vàng Phước Sơn mỗi năm đạt sản lượng khoảng 1.000 kg vàng, năm
2013 nộp ngân sách nhà nước trên 291 tỷ đồng, góp phần giải quyết việc làm và
xóa đói giảm nghèo.
- Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển đáng kể, nhận thức về
giáo dục trong đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng nâng lên. Mạng lưới
trường lớp được mở rộng ở 12/12 xã, thị trấn và 66/66 thôn, với trên 200 phòng
học được xây dựng kiên cố; không còn trường học tạm bợ tranh tre, vách nứa.
Toàn huyện có 7.178 học sinh (trong đó học sinh người dân tộc thiểu số là 5.024

em); tỷ lệ ra lớp hàng năm đạt khá: Mẫu giáo 76,5%, Tiểu học đạt 100%, Trung
học cơ sở đạt 98,6%, Trung học phổ thông đạt trên 96%; tỷ lệ học sinh đỗ đại
học, cao đẳng hằng năm đạt trung bình 25%. Đội ngũ giáo viên đã được bổ sung
thêm, đã chuẩn hóa 100% về chuyên môn; tổng số cán bộ CNVC các cấp là 667
người (trong đó: giáo viên người DTTS 167 người, chiếm tỷ lệ 25%). Công tác
phổ cập giáo dục tiểu học, THCS được duy trì và giữ vững, phổ cập giáo dục
mần non 5 tuổi đạt 12/12 xã, thị trấn. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn Quốc
gia được tập trung chỉ đạo, trong 5 năm qua đã có thêm 02 trường được công
nhận trường chuẩn quốc gia, nâng số trường đạt chuẩn lên 06/27 trường. Đã có
hàng trăm học sinh tốt nghiệp đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ra
trường trở về phục vụ quê hương, có em đi học ở Nhật góp phần làm rạng rỡ
truyền thống của quê hương Phước Sơn.
- Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân ngày càng được chú
trọng, hiện nay có 12/12 xã, thị trấn có trạm y tế và 66/66 thôn đều có nhân viên
y tế thôn bản; toàn huyện hiện có 24 bác sỹ (trong đó bác sỹ người DTTS là 12
người), bình quân 1.000 dân có 01 bác sỹ. Công tác khám chữa bệnh tại bệnh
viện được quan tâm chỉ đạo; giải quyết tốt các trường hợp cấp cứu nội khoa và
ngoại sản, chưa có sai sót về chuyên môn; bình quân khám bệnh 55.000 lượt
người/năm; các chính sách y tế đối với người nghèo được triển khai thực hiện
tốt. Các chương trình y tế quốc gia được triển khai thực hiện, công tác y tế dự
phòng được quan tâm, dịch bệnh và các bệnh truyền nhiễm được ngăn chặn
không để lây lan ở diện rộng. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đến nay
còn 19,95% (giảm 2,5% so với năm 2009). Công tác dân số KHHGĐ có nhiều
tiến bộ, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm đáng kể.
- Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở tiếp tục
được duy trì và phát triển. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, TD-TT, truyền
thanh - truyền hình đáp ứng nhu cầu giải trí của nhân dân. Đời sống tinh thần của
đồng bào các dân tộc được cải thiện rõ rệt, các tập tục lạc hậu dần được xoá bỏ;
công tác bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của các đồng bào
DTTS được quan tâm hơn và đã có những chuyển biến tích cực trong nhận thức,

11


12
đời sống văn hóa của cộng đồng người Gié Triêng thông qua các lễ hội truyền
thống, các hoạt động văn hóa, xây dựng thôn văn hóa; hoàn thành đề án khôi
phục tên thôn theo truyền thống; xây dựng 66/66 nhà làng truyền thống, tạo điều
kiện thuận lợi cho người dân nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần góp phần phát
triển kinh tế, giảm nghèo của huyện nhà.
- Công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và các chính sách xã
hội luôn được quan tâm chỉ đạo; trong 5 năm qua, đã có 128 thanh niên người
dân tộc thiểu số đi lao động ở Malayxia và Hàn Quốc; Nhà máy Thủy điện
ĐăkMi 4 và Công ty TNHH Vàng Phước Sơn đã giải quyết việc làm cho hơn
450 lao động của huyện (lao động người dân tộc thiểu số trên 300 người); góp
phần xóa đói giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân gần 5%/năm; cụ thể xã
Phước Đức giảm 7,74%/ năm; xã Phước Kim giảm 6,22%/ năm; xã Phước Xuân
giảm 5,90%/ năm; xã Phước Chánh giảm 5,65%/ năm; có 4 xã giảm từ 4,00 đến
4,90%/năm; có 3 xã giảm từ 2,75/năm đến 3,98%/ năm.
Phong trào xoá nhà tạm, xây dựng nhà tình thương, nhà đại đoàn kết cho
các đối tượng được triển khai rộng khắp và đạt kết quả; đã xây dựng được 35
ngôi nhà đại đoàn kết và 65 nhà tình thương cho các đối tượng nghèo tình nghĩa
với tổng kinh phí trên 02 tỷ đồng.
Huy động quỹ đền ơn đáp nghĩa tặng 160 sổ tiết kiệm cho các gia đình
chính sách với tổng số tiền 56 triệu đồng; cấp 720 tấn gạo cứu trợ cho các xã, thị
trấn; trợ cấp thường xuyên cho 443 đối tượng, với kinh phí 576 triệu đồng/tháng;
bảo trợ xã hội cho 753 đối tượng, với số tiền 150 triệu đồng/tháng; cấp 15.420
thẻ BHYT cho các đối tượng chính sách xã hội.
Hội chữ thập đỏ và các tổ chức xã hội khác đã huy động khoảng 3 tỷ đồng
và số lượng lớn chăn màn, áo quần, dụng cụ sản xuất... để cứu trợ xã hội và các
hoạt động từ thiện khác. Xây dựng hoàn thành Trung tâm Dạy nghề với kinh phí

trên 18 tỷ đồng, bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả.
- Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được
củng cố tăng cường, thường xuyên tổ chức các hoạt động tuần tra, truy quét làm
trong sạch địa bàn. Hàng năm đều hoàn thành 100% các chỉ tiêu huấn luyện,
diễn tập và tuyển quân.
Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được tập trung chỉ đạo kiên
quyết, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân có
nhiều tiến bộ, công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được giải quyết đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Về công tác xây dựng Đảng được quan tâm chú trọng; trong 5 năm qua,
đã tăng 03 tổ chức cơ sở đảng, nâng tổng số thôn có chi bộ độc lập lên 57 thôn,
khối; toàn huyện có 1.425 đảng viên, trong đó người dân tộc thiểu số là 805 đảng
viên, chiếm tỷ lệ 56,5%.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, nâng
cao chất lượng hệ thống chính trị ở huyện và cơ sở đạt được những kết quả quan
12


13
trọng. Công tác quy hoạch đào tạo, bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ ổn định; đặc
biệt từ khi có Nghị quyết 13-NQ/TU của Tỉnh uỷ, các cấp uỷ, chính quyền từ
huyện đến cơ sở đã tập trung chỉ đạo và triển khai thực hiện; đến nay, đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số được bố trí đều khắp trong các cơ quan Đảng,
Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ở huyện. Tổng số cán bộ công chức, viên
chức và người lao động toàn huyện 1.782 người (Cán bộ là người dân tộc thiểu
số 629 người, chiếm tỷ lệ 35,3%). Trong đó: Khối Đảng, Mặt trận đoàn thể 18
người; khối chính quyền có 42 người; cán bộ cơ sở, thị trấn 339 người; các cơ
quan ngành dọc 14 người và lực lượng vũ trang 44 người.
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ người dân tộc thiểu số

luôn được quan tâm; qua 5 năm đã đào tạo và cử đi học lý luận chính trị trên 150
cán bộ DTTS; cử đi đào tạo chuyên môn 103 trường hợp; bồi dưỡng về chuyên
môn nghiệp vụ, kiến thức kỹ năng cho trên 200 lượt cán bộ DTTS; đào tạo lớp
bổ túc văn hóa THPT cho 44 cán bộ công chức cấp xã là người DTTS. Bên cạnh
tập trung đào tạo, hàng năm tiếp tục xem xét, lựa chọn số học sinh tốt nghiệp phổ
thông trung học tham gia các lớp cử tuyển theo đúng quy định, đảm bảo số lượng
được phân bổ; trong 5 năm qua, đã xét cử tuyển 156 học sinh con em các dân tộc
thiểu số, trong đó: Đại học 70 em, cao đẳng 48 em và trung cấp CN 46 em và đã
có 110 em tốt nghiệp ra trường được bố trí công tác.
- Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể: Thường xuyên đổi mới về nội
dung, phương thức hoạt động theo hướng bám sát cơ sở, sát dân; thường xuyên
vận động tuyên truyền, tập hợp các tầng lớp nhân dân thực hiện có hiệu quả
phong trào, hành động cách mạng ở địa phương thu hút được đông đảo hội, đoàn
viên tham gia như: Cuộc vận động "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư"; cuộc vận động "ngày vì người nghèo" của Mặt trận; phong
trào “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế giỏi, nuôi con khỏe, dạy con ngoan” của Hội
LHPN,... Thông qua các phong trào đã phát huy được tinh thần đoàn kết, khơi
dậy truyền thống cách mạng, ý thức cộng đồng trong các tầng lớp nhân dân; góp
phần thực hiện thắng lợi đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
2. Kết quả thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển
kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiếu số trên địa bàn huyện
Trong những năm qua (2010 - 2014), được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước, các chính sách ưu đãi đối với đồng bào dân tộc thiểu số được tập trung chỉ
đạo triển khai trên địa bàn huyện, tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội vùng đặc
biệt khó khăn phát triển, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo từng bước
phát triển kinh tế - xã hội bền vững; góp phần thay đổi cơ bản bộ mặt nông
thôn miền núi, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên xoá
đói giảm nghèo. Cụ thể từng chương trình, dự án như sau:
- Về thực hiện Nghị Quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ: Trong 5 năm

qua, đã đạt được những kết quả khả quan. Trên lĩnh vực đầu tư phát triển, ngân
13


14
sách Trung ương đã hỗ trợ trên 150 tỷ đồng, xây dựng được 76 công trình điện,
đường, trường, trạm…phục vụ sản xuất và dân sinh. Nguồn vốn sự nghiệp cũng
tăng dần hàng năm; tổng nguồn vốn hỗ trợ sản xuất 28,8 tỷ đồng; qua đó đã cấp
hỗ trợ cho nhân dân nhiều loại cây trồng, con vật nuôi, vật tư sản xuất như: 59,5
tấn lúa giống, 500.000 cây Keo, 350.000 cây Bời lời, 30.000 cây chuối Tiêu
hồng, 15.000 cây Cao su, 650 con bò giống, 317 con heo giống, 4.000 con gia
cầm, 100.000 con cá giống, 70 tấn phân bón các loại và 33.000 m ống nước làm
thủy lợi nhỏ; có 8.593 lượt hộ được hưởng lợi. Ngoài ra hỗ trợ trực tiếp số tiền
859 triệu cho 859 hộ làm chuồng trại chăn nuôi và công trình vệ sinh. Công tác
giao khoán quản lý bảo vệ rừng được quan tâm triển khai, đã giao khoán cho hộ,
nhóm hộ theo Nghị quyết 30a/NQ-CP là 15.388 ha rừng/611 hộ, nhân dân đã
được hưởng lợi về giá trị giao khoán trên 3 tỷ đồng/năm; giao khoán theo Nghị
định số 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường
rừng 22.025 ha/932 hộ, với số tiền 1,46 tỷ đồng, đã góp phần bảo vệ được diện
tích rừng và thu nhập ổn định cho nhân dân.
- Về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới: Trong thời
gian qua, tập trung triển khai công tác lập các quy hoạch; đến nay đã hoàn thành
đề án quy hoạch xây dựng nông thôn mới cho 11 xã. Đã tập trung đầu tư cho 2
xã điểm Phước Năng và Phước Chánh xây dựng các công trình giao thông nông
thôn, chợ trung tâm, đường nội đồng phục vụ sản xuất, sửa chữa nâng cấp công
trình thủy lợi, nước sinh hoạt, hỗ trợ cây, con giống, công cụ sản xuất…từng
bước chỉnh trang các điểm dân cư và khuyến khích nhân dân tập trung sản xuất,
tăng thu nhập. Tổng kinh phí đầu tư cho Chương trình 19,6 tỷ đồng, trong đó:
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản 13,7 tỷ đồng, vốn sự nghiệp 5,9 tỷ đồng; đến nay xã
Phước Năng, Phước Đức, Phước Kim, Phước Công đạt 6 tiêu chí, Phước Chánh

đạt 7 tiêu chí, các xã khác từ 4-5 tiêu chí.
- Về chính sách xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, hộ người có công với cách
mạng theo Quyết định 167, Quyết định 22 của Chính phủ triển khai thực hiện có
hiệu quả; đã hỗ trợ xây dựng nhà ở cho 978 hộ, với tổng kinh phí hỗ trợ là
29,087 tỷ đồng (trong đó hộ nghèo 862 nhà; hộ người có công 116 nhà). Việc hỗ
trợ về nhà ở cho hộ nghèo, người có công với cách mạng trong những năm qua
đã giúp người dân có nhà ở ổn định, an toàn trong mùa mưa bão, từng bước nâng
cao mức sống, góp phần giảm nghèo bền vững.
- Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo theo Quyết
định số 102/2009/QĐ-TTg: Đã hỗ trợ cho 16.804 lượt hộ/70.565 khẩu, với tổng
kinh phí 6,7 tỷ đồng; hình thức hỗ trợ muối tinh I ốt, các loại hạt giống cây trồng
như: Giống Lúa, Đậu đen, Ngô lai, Đậu phụng và cấp bằng tiền mặt, giúp người
dân đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế gia đình góp phần thực hiện xóa
đói giảm nghèo.
- Về thực hiện chính sách cho học sinh, sinh viên: Thực hiện Quyết định
85/2010/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân
14


15
tộc bán trú: Tổng kinh phí thực hiện 5,73 tỷ đồng/1.943 lượt em; cấp bù học phí
và hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh, sinh viên theo Nghị định 49/NĐ-CP với
tổng kinh phí 11,9 tỷ đồng/18.086 lượt em; hỗ trợ tiền ăn trưa cho trẻ em mẫu
giáo theo Quyết định số 239/QĐ-TTg và Quyết định số 60/QĐ-TTg là 1.945 lượt
em/2,1 tỷ đồng; thực hiện chính sách theo Quyết định số 112/QĐ-TTg từ năm
học 2010-2011 đã hỗ trợ 2,2 tỷ đồng/2.915 học sinh; thực hiện Quyết định
15/2010/QĐ-UBND ngày 23/10/2010 của UBND với số tiền 1,2 tỷ đồng/2.350
học sinh. Nhìn chung, việc thực hiện các chính sách cho học sinh, sinh viên
trong thời gian qua đã mang lại hiệu quả thiết thực, giúp cho học sinh, sinh viên
có hoàn cảnh khó khăn góp phần trang trải chi phí trong thời gian theo học tại

trường.
- Thực hiện Chương trình 134, Chương trình 135, Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo được triển khai thực hiện nghiêm túc; trong 5 năm qua đã
đầu tư trên 32 tỷ đồng; xây dựng mới 34 công trình đường giao thông, trường
học, trạm y tế, đập thủy lợi, nước sinh hoạt, bê tông hoá kênh mương; tổ chức
tập huấn đào tạo cho cán bộ xã, thôn, nhóm cộng đồng với kinh phí trên 420
triệu đồng, hơn 12 lớp/850 lượt người tham gia; từ các dự án đầu tư, hỗ trợ phát
triển sản xuất của chương trình 135, huyện đã hỗ trợ cho 850 hộ nghèo xây dựng
chuồng trại chăn nuôi, cấp hàng trăm cây, con giống vật nuôi như: Bò, lợn thịt,
lợn nái, ngan, keo, bời lời,... Nhìn chung, việc thực hiện có hiệu quả các chủ
trương, chính sách, chương trình ưu đãi cho bà con đồng bào dân tộc trên địa bàn
huyện, đã góp phần tháo gỡ khó khăn trong đời sống sản xuất, phát triển kinh tế
của đồng bào các thôn, bản, xã đặc biệt khó khăn, tăng cường xây dựng cơ sở hạ
tầng trên địa bàn huyện, góp phần thay đổi cơ bản bộ mặt nông thôn miền núi,
tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào DTTS vươn lên xoá đói giảm nghèo.
- Chính sách hỗ trợ di dân, thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân
tộc thiểu số theo Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg, ngày 05/3/2007 Thủ tướng
Chính phủ; tổng kinh phí thực hiện 2,3 tỷ đồng, thực hiện bố trí định canh, định
cư tập trung cho 37 hộ/174 khẩu tại thôn Luông B, xã Phước Kim và di dời sắp
xếp dân cư cho 20 hộ/75 khẩu tại thôn 1B, xã Phước Thành.
- Thực hiện Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg và Quyết định 126/2008/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ về việc cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ
đồng bào DTTS đặc biệt khó khăn; đến nay đã cho 514 hộ đồng bào DTTS
nghèo vay để đầu tư phát triển sản xuất, tổng vốn là 2,57 tỷ đồng, đã hỗ trợ được
nhiều gia đình có vốn phát triển sản xuất, vượt lên thoát nghèo.
- Thực hiện chính sách đối với Già làng và người uy tín trong đồng bào
DTTS đảm bảo đúng theo quy định; tổng số người uy tín trên địa bàn huyện 59
người/66 thôn, khối. Đây là đội ngũ có uy tín đã tích cực tuyên truyền, vận động
đồng bào tự giác tham gia thực hiện các chủ chương chính sách của Đảng và
Nhà nước; nhiều người đã thực sự trở thành trung tâm đoàn kết các dân tộc;
gương mẫu, hướng dẫn nhân dân trong thôn bản phát triển kinh tế, tổ chức đời

15


16
sống văn hoá, tiêu biểu như ông Hồ Văn Điều, Khối 3 thị trấn Khâm Đức, ông
Hồ Văn Nhun, Khối 5 thị trấn Khâm Đức, ông Hồ Văn Ngòi thôn 4B, xã Phước
Thành,...và nhiều Già làng người DTTS tiêu biểu khác.
3. Những khó khăn, tồn tại và nguyên nhân
3.1. Những khó khăn tồn tại
a) Khó khăn:
Do điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu của huyện còn
nhiều khó khăn. Nhìn chung, kinh tế ở của huyện còn chậm phát triển, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nhất là chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi chưa mạnh,
trình độ tổ chức sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số còn lạc hậu, sản xuất chưa
gắn với thị trường, chất lượng sản phẩm thấp.
b) Tồn tại, hạn chế:
- Tỷ lệ hộ nghèo của huyện còn cao (53,71%), nhất là các xã Phước Kim,
Phước Lộc, Phước Thành, Phước Công (tỷ lệ hộ nghèo bình quân trên 70%,…),
kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo cao, còn có sự
chênh lệch về mức sống giữa vùng đồng bào DTTS với thị trấn; chất lượng, hiệu
quả giáo dục và đào tạo, công tác chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào còn hạn chế.
- Công tác trồng rừng, giao khoán quản lý bảo vệ rừng đạt hiệu quả chưa
cao; tình trạng phá rừng làm nương rẫy, khai thác gỗ trái phép vẫn còn xảy ra.
Công tác giao đất và cấp chứng nhận quyền sử dụng đất ở, đất sản xuất còn
chậm. Việc thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị
Quyết 30a/2008/NQ-CP còn gặp nhiều lúng túng, hầu hết các xã và các ngành
được giao nhiệm vụ, chưa tổ chức thực hiện tốt các nội dung của chương trình;
hàng năm phải chuyển nguồn kinh phí sang năm sau khá cao.
- Một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan chưa được bài trừ, bản sắc văn hoá
của một số dân tộc đang đứng trước thực trạng bị mai một như: Tiếng nói, trang

phục...các giá trị văn hoá truyền thống của một số dân tộc chưa được phát huy tốt.
Mức hưởng thụ các thành quả văn hoá trong vùng DTTS còn hạn chế.
- Hệ thống chính trị cơ sở một số nơi còn yếu kém, nhiều cán bộ cơ sở
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác trong tình hình mới. Công tác
phát triển đảng viên mới còn khó khăn, một số thôn bản còn chi bộ ghép; cấp uỷ,
chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở một số nơi hoạt động chưa hiệu quả.
Việc tổ chức thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vùng dân tộc ở
một số địa phương còn thiếu cụ thể, sâu sát thậm chí còn lệnh lạc, khuyết điểm.
Một số ngành chưa có cán bộ người DTTS làm việc theo tinh thần Nghị quyết
13-NQ/TU của Tỉnh ủy.
- Cơ sở hạ tầng giáo dục, y tế, văn hoá đã được quan tâm đầu tư song còn
nhiều khó khăn; do trình độ dân trí vùng đồng bào dân tộc còn thấp so với mặt
bằng chung nên việc tiếp thu khoa học công nghệ còn nhiều hạn chế; một số tập
tục lạc hậu, tệ nạn xã hội chưa được xoá bỏ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
người DTTS đã có nhiều cố gắng song số cán bộ có trình độ cao, số cán bộ giữ
cương vị chủ chốt ở các cấp, các ngành còn ít. Còn một số con em đồng bào
DTTS đã qua đào tạo chưa bố trí được việc làm.
16


17
3.2. Nguyên nhân hạn chế
a) Về khách quan:
- Do trình độ dân trí còn thấp, thiếu các điều kiện cần thiết để phát triển
bền vững; thời tiết, khí hậu diễn biến bất thường; cơ chế chính sách cho đầu tư
phát triển còn hạn chế; nguồn vốn đầu tư và thực hiện các chính sách xã hội chưa
đáp ứng được nhu cầu thực tế của địa phương.
- Đặc điểm địa hình núi và dốc, hạ tầng kỹ thuật yếu kém và thiếu đồng bộ
nhất là hệ thống các công trình giao thông, thuỷ lợi là những trở ngại lớn trong
phát triển, đòi hỏi lớn về vốn đầu tư lớn.

b) Về chủ quan:
- Do trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ cơ quan đơn vị huyện, xã
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu
tư của Nhà nước. Ý thức tự giác, tinh thần vượt khó để vươn lên trong cộng đồng
dân cư chưa cao. Nhiều tập tục lạc hậu vẫn còn tồn tại ở một số nơi, cản trở xu
thế phát triển xã hội; làm chậm tốc độ phát triển của nền kinh tế.
- Điểm xuất phát nền kinh tế thấp, phương thức sản xuất còn lạc hậu, một
số vùng còn ảnh hưởng nền sản xuất tự cấp, tự túc, khép kín; kinh tế thị trường
chưa phát triển mạnh. Nền kinh tế chưa có tích lũy, sức mua thấp, khả năng tiếp
cận các dịch vụ có chất lượng còn hạn chế. Trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ
thuật thấp, khả năng nắm thông tin thị trường, ứng dụng tiến bộ khoa học công
nghệ, thay đổi giống vật nuôi, cây trồng có năng suất chất lượng cao còn nhiều
hạn chế.
CHƯƠNG III
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
, TỈNH QUẢNG NAM
1. Mục tiêu chung
Toàn huyện phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần tự lực, tự cường
phát huy nội lực dựa vào sức mình là chính; tích cực huy động các nguồn lực,
khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của vùng đồng bào DTTS để đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo nhanh, bền vững, phấn đấu
mỗi năm giảm hộ nghèo từ 4-5%. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển nông - lâm nghiệp, ngành
nghề nông thôn; quan tâm phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Tạo
bước chuyển biến mạnh cơ cấu kinh tế, nông nghiệp, nông thôn theo yêu cầu sản
xuất hàng hóa; mở rộng loại hình dịch vụ, thương mại; bảo vệ môi trường. Thực
hiện có hiệu quả các chính sách xã hội đối với vùng dân tộc; phát triển văn hóa,
giáo dục, y tế; nâng cao đời sống, vật chất và tinh thần cho đồng bào. Nâng cao
trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc. Củng cố vững

17


18
chắc khối đại đoàn kết dân tộc, hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh và trật tự,
an toàn xã hội.
2. Các chỉ tiêu cụ thể
Theo Nghị quyết Đại hội Dân tộc thiểu số lần thứ 2, năm 2014 đã đề ra
một số chỉ tiêu thực hiện trong giai đoạn 2015-2020, cụ thể:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 13-14 %/ năm.
+ Thu nhập bình quân đến năm 2020 là 15 triệu đồng/người.
+ Giá trị sản xuất Nông, Lâm nghiệp tăng bình quân 10-11%/năm.
+ Giá trị sản xuất Công nghiệp và Xây dựng tăng bình quân 14-15% /năm.
+ Giá trị sản xuất Thương mại, dịch vụ tăng bình quân 14-15 %/ năm.
+ Khai hoang ruộng nước 11-12 ha/năm.
+ Tổng sản lượng lương thực có hạt 5.500 tấn.
+ Trồng rừng 400 ha/năm; giao khoán quản lý bảo vệ rừng 48.372 ha/năm.
Tăng độ che phủ rừng lên 75%.
+ Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2019 còn dưới 30%.
+ Giao quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu tỉnh giao.
3. Các nhiệm vụ và giải pháp
Nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, toàn cần tiến hành đồng bộ một số
nhiệm vụ và giải pháp cụ thể như sau:
3.1. Giải pháp về xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách
a) Cơ chế phân cấp:
Hoàn thiện các cơ chế, chính sách về lồng ghép các dự án và chương trình
giảm nghèo vào kế hoạch đầu tư phát triển chung của địa phương nhằm hạn chế
tối đa việc phân tán nguồn lực, tránh chồng chéo trong quản lý và tạo sự chủ
động cho các địa phương trong quá trình xây dựng các dự án phát triển KTXH.
Tăng cường sự tham gia của cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội, xây dựng và

hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các ngành và địa phương.
b) Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các chính sách nâng cao dân trí, hỗ trợ
sản xuất và giảm nghèo đối với khu vực miền núi:
- Đầu tư xây dựng phát triển hệ thống trường dân tộc nội trú và trợ cấp ăn
học đối với học sinh người DTTS, nhất là đối với học sinh trung học phổ thông;
hỗ trợ đào tạo đội ngũ giáo viên người DTTS trên địa bàn các huyện miền núi.
- Điều chỉnh quy hoạch 03 loại rừng, giao đất để nhân dân trồng rừng, phát
triển rừng, cải thiện chính sách khoán chăm sóc, bảo vệ rừng và hưởng lợi; hỗ
trợ đầu tư khai hoang, phục hóa ruộng lúa nước, hỗ trợ giống, phân bón cho việc
chuyển đổi cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao; hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật
và tiêu thụ sản phẩm.
- Hỗ trợ đào tạo nghề gắn với tìm việc làm và xuất khẩu lao động.
- Cho vay vốn, hỗ trợ lãi suất để phát triển sản xuất.
- Ưu đãi, khuyến khích thu hút các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động
đầu tư trên địa bàn các huyện miền núi.
18


19
- Để lại một phần kinh phí thu từ việc khai thác tài nguyên trên địa bàn
miền núi (rừng, khoáng sản, nước, đất,...).
3.2. Thực hiện tốt công tác quy hoạch phục vụ yêu cầu phát triển sản
xuất và xây dựng nông thôn mới
Tổ chức thực hiện tốt quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới theo Thông
tư số 13/2011/TTLT-BNNPTNT-BXD-BTNMT ngày 28/10/2011 của Bộ Xây
dựng, Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ Tài nguyên và Môi trường; trong đó, chú
trọng quy hoạch sản xuất theo Đề cương hướng dẫn được UBND tỉnh ban hành
tại Quyết định số 2894/QĐ-UBND ngày 07/09/2012 về Ban hành Hồ sơ mẫu lập
quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Trong quy
hoạch sản xuất cần chú trọng bố trí vùng trồng cây công nghiệp dài ngày, cây

nguyên liệu, các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung, với các sản phẩm có
giá trị kinh tế cao và theo lợi thế của mỗi vùng. Trên cơ sở quy hoạch sản xuất
nông nghiệp, UBND các xã lập Đề án phát triển sản xuất nông nghiệp và ngành
nghề để tăng thu nhập cho cư dân nông thôn, theo Đề cương hướng dẫn chi tiết
tại Công văn số 938/SNNPTNT-CCPTNT ngày 18/7/2012 của Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
3.3. Giải pháp về tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm đẩy
mạnh việc ứng dụng, chuyển giao kỹ thuật cho nông dân
Mỗi xã miền núi bố trí 01 cán bộ nông nghiệp làm việc theo chế độ
chuyên trách, như nội dung Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 01/9/2011 của Tỉnh
ủy về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 7, Khóa X về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn gắn với thực hiện thắng lợi Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới và nội dung Đề án kiện toàn bộ máy giúp việc BCĐ nông thôn
mới các cấp theo Quyết định số 1720/QĐ-UBND ngày 30/5/2013 của UBND
tỉnh Quảng Nam.
Tăng cường năng lực khuyến nông cơ sở theo hướng: Mỗi cán bộ khuyến
nông, nông nghiệp huyện, tỉnh (kể cả cán bộ Thú y, Bảo vệ thực vật huyện, Trạm
dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp, Hạt Kiểm lâm) chịu trách nhiệm phụ trách 01 xã,
trong thời gian 3 năm; mỗi tháng cán bộ phụ trách ít nhất phải làm việc tại xã 8
ngày, nhằm hỗ trợ cho Ban Nông nghiệp xã hoạt động hiệu quả.
Đối với khuyến nông viên thôn, bản: Mỗi thôn, bản của các xã thuộc
Chương trình 30a bố trí ít nhất một suất trợ cấp khuyến nông (gồm cả khuyến
nông, lâm, ngư), như Nghị quyết 30a đã quy định. Các thôn, bản thuộc các xã
còn lại, khuyến nông viên được tổ chức theo hình thức tự nguyện, do cộng đồng
dân cư lựa chọn, được hưởng phụ cấp theo quy định ở mỗi chương trình, dự án
sản xuất được đầu tư về thôn, bản. Các khuyến nông viên thôn, bản được đào tạo
từng bước, để có trình độ chuyên môn tối thiểu là sơ cấp nông nghiệp.
Cơ quan Khuyến nông tỉnh xây dựng phương án trung hạn cho công tác
khuyến nông miền núi, trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt để triển khai thực
hiện; trong đó, ưu tiên đào tạo khuyến nông viên thôn, bản; đào tạo nghề nông

nghiệp cho nông dân; xây dựng các mô hình trình diễn với nội dung thiết thực,
phù hợp với thực tiễn sản xuất miền núi, để chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, phổ
19


20
biến nhân rộng. Các Trung tâm Giống Nông - Lâm - Ngư có kế hoạch bố trí khảo
nghiệm các loại giống cây, con để chọn lựa loại giống phù hợp với điều kiện sản
xuất ở miền núi.
Trong ứng dụng tiến bộ kỹ thuật các địa phương cần chú ý: Đầu tư giống
có phẩm cấp tốt (dùng giống xác nhận thay cho việc sử dụng thóc thịt làm giống
như hiện nay); áp dụng các biện pháp gieo sạ, chăm sóc, bón phân,… đúng quy
trình kỹ thuật, theo phương pháp “cầm tay chỉ việc”, nhất là đối với các hộ sản
xuất là đồng bào DTTS. Mở rộng diện tích sản xuất áp dụng kỹ thuật thâm canh
theo các Chương trình: IPM; ba giảm, ba tăng; SRI… Áp dụng các biện pháp kỹ
thuật canh tác trên đất dốc, bằng hình thức trồng xen canh các cây họ đậu để
chống xói mòn, tăng độ phì cho đất.
Từng bước đưa các giống lúa lai vào huyện miền núi cao để sản xuất,
nhằm tăng sản lượng lương thực; xây dựng các mô hình trình diễn thâm canh
ngô lai để chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, nhất là bà con ở các huyện miền
núi cao.
3.4. Xây dựng và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất
Xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất như Tổ hợp tác, HTX phù hợp
với yêu cầu, trình độ sản xuất của nông dân, trình độ quản lý của cán bộ, nhằm
hợp tác, liên kết, hỗ trợ nhau trong sản xuất tại vùng dân tộc thiểu số. Cùng với
các chính sách của Trung ương quy định tại Nghị định số 61/2010/NĐ-CP
nghiên cứu các cơ chế, chính sách của tỉnh về ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư
vào khu vực miền núi, để phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
3.5. Đẩy mạnh công tác giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho nhân dân

Tiếp tục thực hiện các chính sách của Nhà nước về giao đất và cấp giấy
CNQSD đất cho nhân dân yên tâm đầu tư sản xuất, nhất là giao đất để trồng cao
su, trồng cây nguyên liệu; giao rừng cho cộng đồng dân cư và hộ gia đình quản
lý, bảo vệ và hưởng lợi từ rừng.
Tăng cường bảo vệ chặt chẽ tài nguyên, khoáng sản, tổ chức truy quét,
xử lý nghiêm tình trạng đào đãi vàng, khai thác tài nguyên trái phép làm hủy
hoại môi trường và sản xuất.
3.6. Giải pháp về vốn đầu tư
Để thực hiện tốt các mục tiêu của Đề án, cần phải huy động mọi nguồn
lực, lồng ghép nhiều nguồn vốn của các chương trình, dự án đầu tư phát triển
KT-XH; vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư trên địa bàn,
vốn và sức lao động của nhân dân.
a) Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước:
- Ưu tiên tập trung nguồn lực để thực hiện đầu tư phát triển miền núi đạt
mục tiêu, các chỉ tiêu đã đề ra. Tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ, đầu tư
thông qua các chương trình, dự án của Trung ương.
20


21
- Hàng năm cân đối từ nguồn tăng thu, vượt thu ngân sách nhà nước,
nguồn thu cấp quyền sử dụng đất và các nguồn vốn khác trên địa bàn tỉnh với
mức tối thiểu 15 tỷ đồng/huyện/năm để hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
cho các huyện có tỷ lệ hộ nghèo trên 50% nhưng chưa được hưởng chính sách hỗ
trợ cho các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của
Chính phủ.
b) Huy động các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách nhà nước:
- Thực hiện xã hội hóa có sự hỗ trợ của Nhà nước trong đầu tư một số
công trình như: Trường học, trạm xá, chợ, nhà sinh hoạt cộng đồng, đường giao
thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương…

- Tạo môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút đầu tư, xây dựng cơ chế
ưu đãi để thu hút các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đầu tư vào khu vực
miền núi.
3.7. Giải pháp về thị trường
Các ngành liên quan như: Nông nghiệp và PTNT, Công Thương thường
xuyên có các dự báo về thị trường nông, lâm sản để định hướng cho nông dân
sản xuất, giúp nông dân giảm thiểu những rủi ro trong sản xuất, nhất là hạn chế
được tình trạng “được mùa, mất giá”.
Khuyến cáo nông dân sản xuất các loại cây, con có tính chất đặc trưng
vùng, có lợi thế trong sản xuất, ít bị cạnh tranh trên thị trường; xây dựng các
vùng sản xuất tập trung, tạo ra khối lượng nông sản hàng hóa lớn, có điều kiện
để doanh nghiệp, thương nhân thuận lợi trong việc thu mua nông, lâm sản; hạn
chế tối đa việc sản xuất nhỏ lẻ, manh mún theo lối tự cung, tự cấp.
Xây dựng cơ chế khuyến khích và kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư sản
xuất, chế biến nông, lâm sản ở khu vực nông thôn, nhất là nông thôn miền núi, tạo
sự liên kết, liên doanh với nông hộ để giải quyết “đầu vào, đầu ra” cho sản xuất.
3.8. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực
- Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện của cả hệ
thống chính trị, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở. Thực hiện chính sách luân chuyển
và tăng cường cán bộ có năng lực về cơ sở và có chính sách hỗ trợ, đãi ngộ thỏa
đáng để thu hút, khuyến khích trí thức trẻ về tham gia tổ công tác tại các xã theo
Chương trình của Trung ương và của tỉnh.
- Xây dựng chiến lược đảm bảo nguồn nhân lực trong tương lai; có chính
sách bổ sung phát triển nguồn nhân lực mới, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực
hiện có; tăng cường đào tạo đội ngũ giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ cơ sở xã, thôn.
Tiếp tục thực hiện chính sách đào tạo ưu tiên theo hình thức cử tuyển, đào tạo
chuyên sâu cho học sinh người dân tộc thiểu số sau khi đã tốt nghiệp các trường
trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học (ưu tiên các ngành: Nông nghiệp,
lâm nghiệp, y tế, sư phạm, kỹ thuật xây dựng) để tạo nguồn cán bộ tại chỗ, đủ

chuẩn cho các xã miền núi.
21


22
- Xây dựng và hoàn thiện các trung tâm dạy nghề, nâng cao chất lượng
đào tạo nghề, tổ chức các mô hình dạy nghề đa dạng, linh hoạt phù hợp với đặc
điểm và điều kiện của từng nhóm đối tượng trên từng địa bàn. Tăng cường trách
nhiệm của các doanh nghiệp được hưởng lợi từ tài nguyên, khoáng sản trong
việc đào tạo và giải quyết nguồn lao động địa phương.
3.9. Giải pháp về phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường
- Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, bồi dưỡng, hướng dẫn kỹ thuật
nhằm thay đổi tập quán sản xuất lạc hậu của nhân dân; đào tạo, tập huấn cho cán
bộ cơ sở về công tác khuyến Nông - Lâm - Ngư. Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển
giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng các mô hình mẫu để
hướng dẫn và nhân rộng trong nhân dân.
- Nhanh chóng hoàn thành việc giao đất, giao rừng theo quy định của
nhà nước cho hộ gia đình và cộng đồng quản lý; bảo vệ có hiệu quả diện tích
rừng hiện có.
- Tập trung giải quyết dứt điểm những hạn chế, bất cập tại các khu tái
định cư của các dự án thủy điện trên địa bàn miền núi nhằm đảm bảo ổn định sản
xuất và đời sống nhân dân một cách căn bản, lâu dài
- Tăng cường các biện pháp quản lý, ngăn chặn khai thác khoáng sản,
lâm sản trái phép, áp dụng khoa học công nghệ trong quản lý, khai thác tài
nguyên để giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Tăng cường nhận thức về các tác động của biến đổi khí hậu và xây
dựng những chương trình hành động ứng phó với biến đối khí hậu.
3.10. Giải pháp về phát triển văn hóa, y tế và giáo dục
- Tiếp tục bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của
đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Đầu tư phát triển hệ thống thông tin

truyền thông vùng dân tộc thiểu số, cung cấp một số phương tiện thiết yếu nhằm
đảm bảo việc tiếp cận và hưởng thụ thông tin của người dân.
- Tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn nhân lực tại các
bệnh viện tuyến huyện, phòng khám đa khoa khu vực cụm xã, trạm y tế, trạm
quân dân y kết hợp ở những xã khu vực biên giới nhằm nâng cao chất lượng
khám, chữa bệnh, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; có chính sách đào
tạo, đãi ngộ thu hút đội ngũ bác sỹ.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học; đầu tư phát triển
hệ thống trường dân tộc nội trú. Tăng cường công tác đào tạo giáo viên tại chỗ là
người dân tộc thiểu số, từng bước ổn định đội ngũ giáo viên các cấp học, đảm
bảo mục tiêu phát triển giáo dục miền núi.
3.11. Giải pháp thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc thiểu số ở
1. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng con vật nuôi.
Tăng cường đầu tư thâm canh, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất.
Đẩy mạnh khai hoang mở rộng diện tích, phấn đấu mỗi năm tăng 12 ha ruộng
nước. Tiếp tục sửa chữa, nâng cấp kiên cố hóa hệ thống kênh mương, đập thủy
22


23
lợi, phục vụ sản xuất, đảm bảo tưới trên 80% diện tích. Làm tốt công tác giao
đất, giao rừng, để nhân dân quản lý bảo vệ và hưởng lợi từ rừng; đẩy mạnh công
tác trồng rừng mỗi năm 400 ha, nâng độ che phủ rừng lên trên 65%; ngăn chặn
có hiệu quả tình trạng phá rừng làm nương rẫy và khai thác vận chuyển lâm sản
trái phép.
2. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các Chương trình, Nghị quyết
30a của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững và các chính sách an sinh
xã hội,…;đồng thời phối hợp thực hiện lồng ghép đồng bộ các dự án, chương
trình đầu tư, thực hiện tốt công tác quy hoạch sắp xếp dân cư, gắn với giải quyết

đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt. Chú trọng sắp xếp ổn định những vùng có
dự án tái định cư để đồng bào có cuộc sống tốt hơn. Phấn đấu đến năm 2020 có
100% số hộ ổn định định canh định cư (ĐCĐC), có 100% số điểm ĐCĐC tập
trung đạt tiêu chí, 100% số hộ được dùng điện và được sử dụng nước sinh hoạt
hợp vệ sinh. Tập trung chỉ đạo triển khai hoàn thành các tuyến giao thông đi các
xã vùng cao, đảm bảo đi lại thông suốt trong 4 mùa.
3. Đẩy mạnh cuộc vân động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư. Tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức của đồng bào dân
tộc trong việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hoá dân tộc, khôi phục và phát
triển các ngành nghề truyền thống. Tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thiện các thiết
chế văn hoá: Trạm truyền thanh, sân bóng, nhà sinh hoạt cộng đồng…tạo điều
kiện để nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
4. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển văn hóa,
giáo dục, phủ sóng phát thanh, truyền hình. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào
đạo; thực hiện tốt chính sách cử tuyển đào tạo con em các dân tộc để sau này trở
về địa phương công tác; nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô dạy nghề và gắn
với giải quyết việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số. Tăng cường công tác
hoạt động văn hoá thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở; tăng thời lượng và
nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc
thiểu số; làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy giá trị văn
hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số; nâng cao hơn nữa chất lượng
công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số.
5. Tập trung xây dựng Đảng, Chính quyền, Mặt trận đoàn thể trong sạch
vững mạnh. Củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy từ huyện đến cơ sở, đủ năng lực
lãnh đạo, quản lý điều hành, thực hiện thắng lợi các mục tiêu KT-XH, ANQP.
Chú trọng công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán
bộ DTTS, nhất là cán bộ trẻ, cán bộ nữ; đẩy mạnh phát triển Đảng viên trong
đồng bào DTTS, xóa thôn, bản còn chi bộ ghép. Thực hiện nghiêm quy chế dân
chủ ở cơ sở và cải cách hành chính theo cơ chế "một cửa". Tiếp tục đẩy mạnh
việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong các tầng lớp

nhân dân.
23


24
6. Tăng cường xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, xây dựng và giữ
gìn khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống mọi biểu hiện cục bộ, gây chia rẽ bè
phái mất đoàn kết giữa các dân tộc. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao
nhận thức của đồng bào DTTS về chính sách của Đảng và Nhà nước; chống mê
tin dị đoan và truyền đạo trái phép; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát
huy vai trò của Già làng, Trưởng bản, những người có uy tín trong cộng đồng
các dân tộc tham gia bảo vệ và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
7. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân;
tăng cường công tác đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, không để
xảy ra những “điểm nóng” về an ninh, trật tự xã hội. Thực hiện tốt chính sách tín
ngưỡng và tôn giáo, kịp thời đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại các âm mưu
phá hoại, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc của các tổ chức phản động và các thế lực
thù địch.
ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHI
Một là: Rà soát, hệ thống lại các chính sách liên quan đến giảm nghèo vì
hiện tại hệ thống chính sách cho mục tiêu giảm nghèo rất nhiều, có nhiều nội
dung chồng chéo, trùng lắp giữa các chương trình, chính sách hỗ trợ. Phân loại
cụ thể những đối tượng nghèo để có phương án giúp đỡ, hỗ trợ các hộ thoát
nghèo (những hộ không có điều kiện thoát nghèo thì chuyển sang trợ cấp vĩnh
viễn), đồng thời tập trung tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức để các hộ
nghèo cố gắng tự vươn lên thoát nghèo, khen thưởng động viên kịp thời những
tổ chức, hộ gia đình thoát nghèo nhanh.
Hai là: Tập trung cao cho công tác vay vốn để người dân có thêm động
lực tự vươn lên thoát nghèo, tập trung đào tạo, dạy nghề, xuất khẩu lao động
trong vùng dân tộc thiểu số theo phương châm cầm tay chỉ việc, nội dung dạy

nghề do nhu cầu và phù hợp với thực tiễn của địa phương và hộ gia đình.
Ba là: Rà soát, thực trạng đội ngũ cán bộ trong vùng DTTS, cán bộ
DTTS để đào tạo bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực và sở
trường công tác, quan tâm đến tỷ lệ cán bộ DTTS, cán bộ nữ. Chú ý đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, tài chính, xây dựng cơ bản. Đây là điều kiện
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững.
Bốn là: Tập trung nguồn lực đầu tư cho các xã, thôn bản thuộc diện đặc
biệt khó khăn, các xã vùng khó khăn để phát triển kinh tế - xã hội, trọng tâm là
giảm nghèo trong đồng bào DTTS, thu hẹp khoảng cách giữa vùng DTTS và các
vùng khác trong tỉnh; giải quyết ngay những vấn đề bức xúc về việc làm trong
lao động nông thôn và đồng bào DTTS, các vấn đề về lương thực, nước sinh
hoạt, nhà ở; khảo sát, điều tra, thống kê, phân tích làm rõ thành phần DTTS
nghèo nhất hiện nay trên địa bàn tỉnh để có chính sách hỗ trợ tập trung.
Năm là: Nắm vững quan điểm của Đảng, Bác Hồ về công tác dân tộc và
thực hiện chính sách dân tộc; chỉ đạo thực hiện các chính sách dân tộc phải kiên
24


25
trì và sáng tạo, lãnh đạo tập trung thống nhất của cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể
các cấp, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, có quyết tâm cao trong chỉ
đạo, kiên trì trong việc thực hiện mục tiêu. Thực tiễn cho thấy, nơi nào quán triệt
được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách sâu sắc, thực hiện
một cách công khai dân chủ, xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dân thì nơi
đó thực hiện thành công và ngược lại.
Sáu là: Thực hiện tốt công tác tuyên truyền theo phương châm “Chân
thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc” và phong cách “Trọng dân,
gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân” trong công tác dân tộc và
thực hiện chính sách dân tộc. Khơi dậy truyền thống cần cù, sáng tạo của mỗi dân
tộc, khắc phục tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước, thực

hiện tốt nguyên tắc dân chủ, công khai, tăng cường phân cấp cho cơ sở. Thường
xuyên đi sâu, tìm hiểu tâm tư, nắm nguyện vọng của đồng bào các dân tộc để đề
xuất các chính sách, biện pháp phù hợp để khắc phục được tư tưởng ỷ lại.

KẾT LUẬN
Có được những thành tích trên chính là nhờ chủ trương chính sách đúng
đắn của Đảng và Nhà nước, đã khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố
quyết định đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn
những yếu kém, khó khăn trước mắt sẽ đặt ra nhiều thách thức trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển đồng bộ, bền vững về kinh tế - xã hội, đảm bảo về an ninh
25


×